HIỆP ĐỊNH
DƯỚI HÌNH THỨC TRAO ĐỔI THƯ SỬA ĐỔI HIỆP ĐỊNH GIỮA CỘNG ĐỒNG
CHÂU ÂU VÀ CHXHCN VIỆT NAM VỀ BUÔN BÁN HÀNG DỆT MAY, KÝ TẮT NGÀY 15 THÁNG 12
NĂM 1992 SỬA ĐỔI LẦN GẦN ĐÂY NHẤT DƯỚI HÌNH THỨC TRAO ĐỔI THƯ KÝ TẮT NGÀY 17
THÁNG 11 NĂM 1997.
Thư số
1
THƯ CỦA ỦY BAN LIÊN
MINH CHÂU ÂU
Thưa Ngài,
1. Tôi xin hân hạnh đề cập tới
các cuộc đàm phán diễn ra từ ngày 27 đến 31 tháng 3 năm 2000 giữa hai phái đoàn
chúng ta nhằm sửa đổi Hiệp định buốn bán hàng dệt may giữa Cộng đồng Châu Âu và
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ký tắt ngày 15-12-1992 và áp dụng từ ngày
1-1-1993, như đã sửa đổi gần đây nhất bằng Hiệp định dưới hình thức trao đổi
thư ký tắt ngày 17-11-1997 dưới đây gọi là "Hiệp định".
2. Kết qủa đàm phán là hai Bên
đã thỏa thuận sửa đổi Hiệp định như sau:
Bản văn điều 3 được thay thế
như sau:
"Điều 3
1. Việt Nam hạn chế xuất khẩu
vào Cộng đồng những sản phẩm liệt kê trong phụ lục II tới số lượng được ấn định
cho mỗi năm Hiệp định.
Trong việc phân bổ hạn ngạch xuất
khẩu vào Cộng đồng, Việt Nam sẽ không phân biệt đối xử đối với các Công ty do
các nhà đầu tư Cộng đồng sở hữu toàn bộ hay một phần.
2. Việc xuất khẩu sản phẩm dệt
may liệt kê tại phụ lục II sẽ được điều chỉnh bởi một hệ thống kiểm tra kép như
quy định tại Nghị định thư A.
3. Trong quản lý hạn ngạch nêu tại
đoạn 1, Việt Nam bảo đảm rằng công nghiệp dệt may của Cộng đồng được hưởng lợi
từ việc sử dụng những hạn ngạch như vậy.
Đặc biệt, Việt Nam cam kết ưu
tiên dành 30% hạn ngạch cho các doanh nghiệp thuộc công nghiệp dệt may trong thời
hạn 4 tháng bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 hàng năm. Nhằm mục đích này, các hợp đồng
ký với các doanh nghiệp nói trên trong thời hạn đã nêu và được đệ trình lên các
nhà chức trách Việt Nam trong thời hạn đó sẽ được xem xét.
4. Để tạo thuận lợi cho việc thực
hiện những quy định nêu trên, trước ngày 31 tháng 10 hàng năm, Cộng đồng sẽ
trao cho Cơ quan thẩm quyền Việt Nam danh sách các nhà sản xuất và chế tác liên
quan và nêu số lượng sản phẩm từng doanh nghiệp yêu cầu. Để đạt được điều này,
các doanh nghiệp liên quan phải liên hệ trực tiếp với tổ chức hữu quan Việt Nam
trong thời hạn quy định tại đoạn 3, để xác định số lượng hiện có theo ưu tiên
dành riêng nêu ở đoạn 3.
5. Theo quy định của Hiệp định
này và không phương hại đến hệ thống hạn ngạch áp dụng đối với các sản phẩm gia
công nêu ở điều 4. Cộng đồng cam kết ngừng áp dụng hạn chế số lượng hiện hành đối
với các sản phẩm do Hiệp định này điều chỉnh.
6. Xuất khẩu các sản phẩm nêu ở
Phụ lục IV của Hiệp định không bị hạn chế số lượng sẽ được điều chỉnh bởi hệ thống
kiểm tra kép nêu tại nêu tại đoạn 2".
7. Nếu trong trường hợp nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế
giới trước ngày Hiệp định này hết hạn thì hạn ngạch đang áp dụng sẽ được loại bỏ
dần theo Hiệp định của Tổ chức Thương mại thế giới về hàng dệt may và theo nghị
định thư về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới.
Bản văn của Điều 19 đoạn 1 được
thay thế như sau:
"1. Hiệp định này có hiệu lực
từ ngày đầu tiên của tháng kế tiếp ngày mà các bên ký Hiệp định thông báo cho
nhau rằng thủ tục cần thiết cho mục đích này đã hoàn tất. Hiệp định có hiệu lực
cho đến ngày 31 tháng 12 năm 2002. Sau đó việc áp dụng Hiệp định sẽ được tự động
gia hạn thêm 01 năm, trừ trường hợp một Bên thông báo chậm nhất vào ngày 30
tháng 6 năm 2002 cho Bên kia không đồng ý với việc gia hạn.
Trong trường hợp gia hạn Hiệp định
đến ngày 31 tháng 12 năm 2003 hạn ngạch đối với các chủng loại sản phẩm quy định
tại Phụ lục II cho năm 2003 sẽ là số lượng ấn định tại các Phụ lục này cho năm
2002 cộng thêm phần trăm gia tăng áp dụng cho mỗi chủng loại sản phẩm giữa năm
2001 và 2002.
Phụ lục I của Hiệp định được
thay thế bằng Phụ lục A của thư này. Phụ lục II của Hiệp định được thay thế bằng
Phụ lục B của thư này. Phụ lục của Nghị định thư B của Hiệp định được thay thế
bàng Phụ lục C của thư này. Một biên băn thỏa thuận về hạn ngạch công nghiệp được
kèm theo Phụ lục D của thư này. Đoạn 4 của biên bản thỏa thuận về thâm nhập thị
trường Việt Nam của sản phẩm dệt may xuất xứ tại Cộng đồng Châu Âu được thay thế
bởi bản văn tại Phụ lục E của
thư này. Phụ lục F của thư này trở thành Phụ lục III của Biên bản thỏa thuận về
thâm nhập thị trường Việt Nam của hàng dệt may có xuất xứ tại Cộng đồng Châu
Âu. Biên bản về hai Bên mở cửa thị trường cho nhau được kèm theo Phụ lục G của
thư này. Biên bản về phân bổ hạn ngạch công nghiệp cho năm 2000 được kèm theo
Phụ lục H của thư này.
4. Đề nghị Ngài xác nhận sự đồng
ý của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam với các sửa đổi trên. Trong trường hợp
đó, thư này và các bản Phụ lục kem theo, cùng với văn bản xác nhận của Ngài sẽ
tạo thành một Hiệp định dưới hình thức Trao đổi thư giữa Cộng đồng Châu Âu và Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Hiệp định này có hiệu lực từ ngày đầu tiên của
tháng kế tiếp ngày mà Cộng đồng Châu Âu và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
thông báo cho nhau răng thủ tục nội bộ cần thiết cho mục đích này đã hoàn tất.
Trong thời gian đó, các sửa đổi của Hiệp định sẽ được áp dụng tạm thời từ ngày
15 tháng 6 năm 2000 với điều kiện cả hai Bên cùng áp dụng.
Trân trọng kính chào Ngài.
THAY
MẶT UỶ BAN LIÊN MINH CHÂU ÂU
Thư số
2
THƯ CỦA CHÍNH PHỦ CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Thưa Ngài,
Tôi hân hạnh báo Ngài tôi đã nhận
được thư của Ngài đề ngày ... có nội dung như sau:
1. Tôi xin hân hạnh đề cập tới
các cuộc đàm phán diễn ra từ ngày 27 đến 31 tháng 3 năm 2000 giữa hai phái đoàn
chúng ta nhằm sửa đổi Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Cộng đồng Châu Âu và
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ký tắt ngày 15 tháng 12 năm 1992 và áp dụng
từ ngày 1 tháng 1 năm 1993, như đã sửa đổi gần đây nhất bằng Hiệp định dưới
hình thức trao đổi thư ký tắt ngày 17 tháng 11 năm 1997 dưới đây gọi là
"Hiệp định".
2. Kết qủa đàm phán là hai Bên
đã thỏa thuận sửa đổi Hiệp định như sau:
Bản văn điều 3 được thay thế
như sau:
"Điều 3
1. Việt Nam đồng ý hạn chế xuất
khẩu vào Cộng đồng những sản phẩm liệt kê trong Phụ lục II tới số lượng được ấn
định cho mỗi năm Hiệp định.
Trong việc phân bổ hạn ngạch xuất
khẩu vào Cộng đồng, Việt Nam sẽ không phân biệt đối xử với các Công ty do các
nhà đầu tư Cộng đồng sở hữu toàn bộ hay một phần.
2. Việc xuất khẩu sản phẩm dệt
may liệt kê tại Phụ lục II sẽ được điều chỉnh bởi một hệ thống kiểm tra kép như
quy định tại Nghị định thư A.
3. Trong quản lý hạn ngạch nêu tại
đoạn 1, Việt Nam bảo đảm rằng công nghiệp dệt may của Cộng đồng được hưởng lợi
từ việc sử dụng những hạn ngạch như vậy.
Đặc biệt Việt Nam cam kết ưu
tiên dành 30% hạn ngạch cho các doanh nghiệp thuộc công nghiệp dệt may trong thời
hạn 4 tháng bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 hàng năm. Nhằm mục đích này, các hợp đồng
ký với các doanh nghiệp nói trên trong thời hạn đã nêu và được đệ trình lên các
nhà chức trách Việt Nam trong thời hạn đó sẽ được xem xét.
4. Để tạo thuận lợi cho việc thực
hiện những quy định nêu trên, trước ngày 31 tháng 10 hàng năm, Cộng đồng sẽ
trao cho cơ quan thẩm quyền Việt Nam danh sách các nhà sản xuất và chế tác liên
quan và nêu số lượng sản phẩm từng doanh nghiệp yêu cầu. Để đạt được điều này,
các doanh nghiệp liên quan phải liên hệ trực tiếp với tổ chức hữu quan Việt Nam
trong thời hạn quy định tại đoạn 3, để xác định số lượng hiện có theo ưu tiên
dành riêng nêu ở đoạn 3.
5. Theo quy định của Hiệp định
này và không phương hại đến hệ thống hạn ngạch áp dụng đối với các sản phẩm gia
công nêu ở điều 4. Cộng đồng cam kết ngừng áp dụng hạn chế số lượng hiện hành đối
với các sản phẩm do Hiệp định này điều chỉnh.
6. Xuất khẩu các sản phẩm nêu ở
Phụ lục IV của Hiệp định không bị hạn chế số lượng sẽ điều chỉnh bởi hệ thống
kiểm tra kép nêu tại đoạn 2".
7. Nếu trong trường hợp nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế
giới trước ngày Hiệp định này hết hạn thì hạn ngạch đang áp dụng sẽ được loại bỏ
dần theo Hiệp định của Tổ chức Thương mại thế giới về hàng dệt may và theo nghị
định thư về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới.
2.2. Bản văn của Điều 19 đoạn
1 được thay thế như sau:
"1. Hiệp định này có hiệu lực
từ ngày đầu tiên của tháng kế tiếp ngày mà các bên ký Hiệp định thông báo cho
nhau rằng thủ tục cần thiết cho mục đích đã hoàn tất. Hiệp định có hiệu lực cho
đến ngày 31 tháng 12 năm 2000. Sau đó việc áp dụng Hiệp định sẽ được gia hạn
thêm một năm, trừ trường hợp một Bên thông báo chậm nhất vào ngày 30 tháng 6
năm 2002 cho Bên kia không đồng ý với việc gia hạn.
Trong trường hợp gia hạn Hiệp định
đến ngày 31 tháng 12 năm 2003 hạn ngạch đối với các chủng loại sản phẩm quy định
tại Phụ lục II cho đến năm 2003 sẽ là số lượng ấn định tại các Phụ lục này cho
năm 2002 cộng thêm phần trăm gia tăng áp dụng cho mỗi chủng loại sản phẩm giữa
năm 2001 và 2002.
Phụ lục I của Hiệp định được
thay thế bằng Phụ lục A của thư này. Phụ lục II của Hiệp định được thay thế bằng
Phụ lục B của thư này. Phụ lục của Nghị định thư B của Hiệp định được thay thế
bằng Phụ lục C của thư này. Một biên bản thỏa thuận về hạn ngạch công nghiệp được
kèm theo Phụ lục D của thư này. Đoạn 4 của biên bản thỏa thuận về thâm nhập thị
trường Việt Nam của sản phẩm dệt may xuất xứ tại Cộng đồng Châu Âu được thay thế
bởi bản văn tại Phụ lục E của thư này. Phụ lục F của thư này trở thành Phụ lục
III của Biên bản thỏa thuận về thâm nhập thị trường Việt Nam của hàng dệt may
có xuất xứ từ Cộng đồng Châu Âu. Biên bản về hai Bên mở cửa thị trường cho nhau
được kèm theo Phụ lục G của thư này.
3.0 Biên bản về phân bổ hạn ngạch
công nghiệp cho năm 2000 được kèm theo phụ lục H của thư này.
4. Đề nghị Ngài xác nhận sự đồng
ý của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam với các sửa đổi trên. Trong trường hợp
đó, thư này và các bản Phụ lục kèm theo, cùng với văn bản xác nhận của Ngài sẽ
tạo thành một Hiệp định dưới hình thức Trao đổi thư giữa Cộng đồng Châu Âu và Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Hiệp định này có hiệu lực từ ngày đầu tiên của
tháng kế tiếp ngày mà Cộng đồng Châu Âu và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
thông báo cho nhau rằng thủ tục nội bộ cần thiết cho mục đích đã hoàn tất.
Trong thời gian đó, các sửa đổi của Hiệp định sẽ được áp dụng tạm thời từ ngày
15 tháng 6 năm 2000 với điều kiện cả hai Bên cùng áp dụng.
Trân trọng kính chào Ngài"
Tôi hân hạnh xác nhận rằng Chính
phủ tôi đồng ý với nội dung thư của Ngài.
Trân trọng kính chào Ngài.
THAY
MẶT CHÍNH PHỦ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
BIÊN BẢN THỎA THUẬN VỀ HẠN NGẠCH
CÔNG NGHIỆP
Trong khuôn khổ của Hiệp định dưới
hình thức trao đổi thư giữa Cộng đồng Châu Âu và CHXHCN Việt Nam ký tắt ngày 31
tháng 3 năm 2000 sửa đổi Hiệp định giữa Cộng đồng kinh tế Châu Âu và CHXHCN Việt
Nam về buôn bán hàng dệt may sửa đổi lần gần đây nhất bằng các thỏa thuận ký tắt
ngày 17/11/1997, CHXHCN Việt Nam ghi nhận sự quan tâm của Cộng đồng Châu Âu về
việc áp dụng Điều 3, đoạn 1, 3 và 4. Nhằm tăng cường hơn nữa sự hiểu biết lẫn
nhau và hợp tác trong lĩnh vực này, hai Bên đã nhất trí áp dụng các thủ tục sau
đây cho việc cấp hạn ngạch công nghiệp:
- Các cơ quan của Cộng đồng Châu
Âu sẽ cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam môt danh mục các doanh
nghiệp của Cộng đồng được hưởng hạn ngạch công nghiệp.
- Các doanh nghiệp của Cộng đồng
Châu Âu sẽ tiếp xúc với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam để ký hợp đồng với
các nhà sản xuất và các nhà xuất khẩu Việt Nam.
- Các nhà sản xuất và xuất khẩu
Việt Nam sẽ nộp đơn xin hạn ngạch công nghiệp và hợp đồng cho các cơ quan có thẩm
quyền Việt Nam.
- Trong khuôn khổ về số lượng của
hạn ngạch công nghiệp, các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam sẽ cấp hạn ngạch cho
các nhà sản xuất hoặc xuất khẩu Việt Nam trong thời hạn quy định và theo qui chế
rõ ràng.
- Sau đó, các cơ quan có thẩm
quyền Việt Nam sẽ cấp giấy phép xuất khẩu để cho phép thực hiện các hợp đồng
mua hàng của các doanh nghiệp Cộng đồng Châu Âu có tên trong danh mục do các cơ
quan của Cộng đồng cung cấp.
Để thực hiện điều trên, các cơ
quan có thẩm quyền Việt Nam cam kết sẽ:
- Thực hiện việc cấp hạn ngạch
công nghiệp kịp thời và không phân biệt đối xử.
- Cung cấp danh sách các cơ quan
có thẩm quyền của Việt Nam.
- Cung cấp các văn bản về quy chế
cấp hạn ngạch công nghiệp ngay sau khi đã công bố.
- Bảo đảm các giấy phép xuất khẩu
được cấp trong khuôn khổ quy định này có in chữ "Hạn ngạch công nghiệp".
- Hàng năm trước ngày 1/4 cung cấp
thống kê riêng về số lượng đơn yêu cầu và số lượng giấy phép đã cung cấp nằm
trong hạn ngạch công nghiệp.
- Hợp tác với các cơ quan của Cộng
đồng Châu Âu nhằm đảm bảo các giấy phép xuất khẩu được cấp đúng quy định của hạn
ngạch công nghiệp sẽ được xác định trong khuôn khổ của chương trình trao đổi
thông tin qua hệ thống máy tính SIGL.
- Sẽ tổ chức các cuộc thám khảo
nhằm tìm ra một giải pháp mà hai bên có thể chấp nhẩntong trường hợp có khó
khăn trong việc áp dụng hạn ngạch công nghiệp.
THAY
MẶT CHÍNH PHỦ CHXHCN VIỆT NAM
|
THAY
MẶT HỘI ĐỒNG LIÊN HIỆP CHÂU ÂU
|
Bản văn của
đoạn 4 của Biên bản thoả thuận về thâm nhập thị trường Việt Nam của sản phẩm dệt
may xuất xứ tại Cộng đồng Châu Âu được thay thế bởi bản văn sau đây:
"4. Đối với biểu thuế nhập
khẩu hiện đang áp dụng đối với hàng dệt may của Cộng đồng. Phía Việt Nam cam kết
trình Quốc hội phê duyệt các biện pháp sau đây nhằm giảm thuế nhập khẩu vào thị
trường Việt Nam của các sản phẩm dệt may của Cộng đồng:
a, Giảm dần và không hủy ngang
theo lịch trình trong 10 năm, bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 1996, để đạt mức
thuế sau đây:
Quần áo
|
30%
|
Vải và hàng may
|
20%
|
Sợi
|
12%
|
Xơ
|
7%
|
Việc giảm thuế nói trên được ưu
tiên áp dụng cho các sản phẩm ghi ở Phụ lục II của Biên bản thỏa thuận này.
b, Đối với các sản phẩm dệt may
ghi tại Phụ lục III của Biên bản thỏa thuận này, phía Việt Nam cam kết tiến
hành giảm thuế dần dần và không hủy ngang, theo từng giai đoạn 2 năm một lần.
Trong vòng 6 năm kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2000, để đạt mức thuế sau đây:
Quần áo
|
30%
|
Vải và hàng may
|
20%
|
Sợi
|
12%
|
Xơ
|
7%
|
Các cuộc tham vấn về vấn đề này
phải được tổ chức muộn nhất vào ngày 31 tháng 10 năm 2000.
Trong trường hợp giả thiết rằng
trong cuộc tham vấn nói trên phía Cộng đồng Châu Âu nhận thấy các cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam không thực hiện các bước giảm thuế thì các điều khoản đã được
sửa đổi của Hiệp định này bị coi là không có hiệu lực và Hiệp định với nội dung
hiện hành trước ngày ký tắt lại được hai Bên áp dụng bắt đầu từ ngày 1 tháng 1
năm 2001.
III. NGHỊ ĐỊNH
THƯ NĂM 1979 SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CHO CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ ĐỂ THỐNG NHẤT MỘT SỐ QUI TẮC
VỀ VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN, 1924, ĐÃ ĐƯỢC NGHỊ ĐỊNH THƯ NĂM 1968 BỔ SUNG
(Nghị định thư SDR 1979)
Các bên ký kết Nghị định thư
này, là các bên tham gia Công ước quốc tế để thống nhất một số quy tắc luật
pháp liên quan đến vận đơn đường biển, ký tại Brussels ngày 25 tháng 08 năm
1924, đã được Nghị định thư sửa đổi Công ước này, ký tại Brussels ngày 23 tháng
02 năm 1968, bổ sung, sửa đổi.
Đã thỏa thuận như sau:
Điều 1:
Nhằm mục đích của Nghị định thư này, “Công ước” có
nghĩa là Công ước quốc tế để thống nhất một số quy tắc luật pháp về vận đơn đường
biển và Nghị định thư ký kết Công ước này, ký tại Brussels ngày 25 tháng 08 năm
1924, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định thư làm tại Brussels ngày 23 tháng 02
năm 1968.
Điều 2:
(1) Điều
4, mục 5 (a) của Công ước được thay như sau:
"(a) Trừ phi tính chất và
trị giá hàng hóa đó đã được người gửi hàng khai trước khi xếp hàng và có ghi
vào vận đơn, cả người chuyên chở và tầu trong bất cứ trường hợp nào đều không
chịu trách nhiệm về mất mát, hư hỏng của hàng hóa hoặc liên quan đến hàng hóa với
một số tiền vượt qúa 666,67 đơn vị tính toán cho một kiện hay đơn vị hoặc 2 đơn
vị tính toán cho một kilô trọng lượng hàng hóa cả bì bị mất mát, hư hỏng, tùy
theo cách tính nào cao hơn".
Điều 4, mục 5, của Công ước được
thay như sau:
"(d) Đơn vị tính toán nói
trong Điều này là Quyền Rút vốn Đặc biệt (Special Drawing Right) do Qũy Tiền Tệ
Quốc tế định nghĩa. Những số nói ở tiểu mục (a) của đoạn này sẽ được quy đổi ra
tiền quốc gia trên cơ sở giá trị đồng tiền đó vào ngày do luật của Tòa án thụ
lý vụ việc quyết định.
Giá trị đồng tiền của một nước
là thành viên Quỹ Tiền tệ Quốc tế, tính theo đồng SDR, sẽ được tính toán theo
cách tính giá trị của Qũy Tiền tệ Quốc tế có hiệu lực vào ngày thực hiện việc
chuyển đổi thứ tiền đó. Giá trị đồng tiền của một nước không phải là thành viên
Qũy Tiền tệ Quốc tế, tính bằng đồng SDR, sẽ được tính theo cách của nước đó quyết
định.
Tuy nhiên, một nước không phải
là thành viên Qũy Tiền tệ Quốc tế và luật pháp của nước đó không cho phép áp dụng
những quy định của đoạn nêu trên, có thể, vào lúc phê chuẩn hay tham gia Nghị định
thư 1979 hay vào bất cứ lúc nào sau đó, tuyên bố là các giới hạn trach nhiệm
quy định trong Công ước này được áp dụng trên lãnh thổ của mình như sau:
(i) Đối với số tiền 666,67 đơn vị
tính toán nói ở tiểu mục (a) của mục 5, Điều này là 10.000 đơn vị tiền tệ.
(ii) Đối với số tiền 2 đơn vị
tính toán nói ở tiểu mục (a) mục 5 Điều này, là 30 đơn vị tiền tệ.
Đơn vị tiền tệ nói trong câu
trên tương đương với 65,5 miligram vàng có độ nguyên chất 900/1000. Việc quy đổi
các số tiền nói trong câu này ra tiền quốc gia được thực hiện theo pháp luật của
quốc gia liên quan.
Việc tính toán và quy đổi trong
các câu trên được thực hiện theo phương cách nào đó để thể hiện bằng đồng tiền
quốc gia càng gần càng tốt với giá trị thực tế của các số tiền bằng đơn vị tính
toán nói ở tiểu mục (a) mục 5 Điều này.
Các quốc gia sẽ liên hệ với người
lưu giữ về cách thức tính toán và kết qủa quy đổi, tùy từng trường hợp, khi gửi
văn bản phê chuẩn Nghị định thư 1979 hay văn bản tham gia Nghị định thư và cả
khi có thay đổi trong việc phê chuẩn hay tham gia.
Điều 3:
Bất cứ tranh chấp nào giữa hai hay nhiều bên ký kết
liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Nghị định thư này, mà không giải quyết
được bằng thương lượng, sẽ được đưa ra trọng tài theo yêu cầu của một bên đương
sự. Nếu trong vòng 6 tháng kể từ ngày yêu cầu trọng tài xét xử mà các bên không
thể thỏa thuận được việc tổ chức trọng tài, thì bất cứ bên nào cũng có thể đưa
tranh chấp ra Tòa án quốc tế theo đúng quy chế của Tòa.
Điều 4:
(1) Mỗi bên
ký kết có thể, vào lúc ký kết hay phê chuẩn Nghị định thư này hoặc gia nhập Nghị
định thư, tuyên bố rằng bên đó không bị ràng buộc bởi Điều 3.
(2) Bất cứ bên nào đã thực hiện
việc bảo lưu phù hợp với đoạn (1) Có thể, vào bất cứ lúc nào, rút lui việc bảo
lưu bằng cách thông báo cho Chính phủ Bỉ.
Điều 5:
Nghị định
thư này sẽ để ngỏ cho các nước đã ký Công ước ngày 25/08/1924 hoặc Nghị định
thư ngày 23/02/1968 hoặc các nước là thành viên của Công ước, ký kết.
Điều 6:
(1) Nghị định
thư này sẽ được phê chuẩn.
(2) Việc phê chuẩn Nghị định thư
bởi các nước không phải là thành viên Công ước sẽ có hiệu lực như phê chuẩn
Công ước.
Văn bản phê chuẩn sẽ được lưu giữ
tại Chính phủ Bỉ.
Điều 7:
(1) Các nước
không đề cập ở Điều 5 có thể gia nhập Nghị định thư này.
Việc gia nhập Nghị định thư này
cũng có hiệu lực như gia nhập Công ước. Văn bản gia nhập sẽ được lưu giữ tại
Chính phủ Bỉ.
Điều 8:
(1) Nghị
đinh thư này sẽ có hiệu lực sau 3 tháng kể từ ngày có 5 văn bản phê chuẩn hoặc
gia nhập.
(2) Đối với mỗi nước đã phê chuẩn
hoặc gia nhập Nghị định thư sau khi đã có bản lưu giữ thứ 5, Nghị định này sẽ
có hiệu lực sau 3 tháng kể từ ngày có 5 văn bản phê chuẩn hoặc gia nhập.
Điều 9:
(1) Bất kỳ
nước thành viên nào cũng có thể bãi miễn Công ước này bằng cách thông báo cho
Chính phủ Bỉ.
(2) Việc bãi miễn Công ước sẽ có
hiệu lực sau một năm kể từ ngày Chính phủ Bỉ nhận được thông báo miễn ước.
(Điều 10, 11 nói về thủ tục gia
nhập, lưu giữ xin xem bản tiếng Anh).
Nghị định thư này làm tại
Brussels ngày hôm nay 21 tháng 12 năm 1979, bằng tiếng Anh và tiếng Pháp, có
giá trị như nhau, thành một bản duy nhất, được lưu giữ tại văn phòng lưu trữ của
Chính phủ Bỉ, nơi sẽ phát hành các bản sao.