HIỆP ĐỊNH
THỰC THI
ĐIỀU VII CỦA HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THUẾ QUAN VÀ THƯƠNG MẠI - GATT (1994)
GIỚI THIỆU
CHUNG
1. Cơ sở chủ yếu để xác định trị giá thuế quan, theo Hiệp
định này là “giá trị giao dịch” như định nghĩa tại Điều 1 được hiểu cùng với
Điều 8, ngoài các nội dung khác, quy định về sự điều chỉnh giá thanh toán thực
tế hoặc giá phải thanh toán, trong trường hợp người mua chịu một số chi phí cấu
thành cụ thể nào đó, được coi là đã tạo thành một phần của giá trị mà hải quan
dùng để tính thuế, nhưng hiện chưa tính vào giá thực tế đã thanh toán hoặc phải
thanh toán cho hàng nhập khẩu. Điều 8 cũng quy định giá trị giao dịch bao gồm
cả các chi phí mà người mua thanh toán cho người bán dưới dạng hàng hóa hay
dịch vụ cụ thể nào đó chứ không phải dưới dạng tiền. Từ Điều 2 đến Điều 7 quy
định các phương pháp xác định trị giá thuế quan khác một khi không thể xác định
trị giá này theo các quy định của Điều 1.
2. Khi trị giá thuế quan không thể được xác định theo các
quy định của Điều 1, thì thông thường cơ quan hải quan sẽ trao đổi với người
nhập khẩu để đạt được cơ sở tính trị giá theo các quy định của Điều 2 hoặc Điều
3. Thí dụ, có thể xảy ra trường hợp nhà nhập khẩu có thông tin về trị giá thuế
quan của hàng nhập khẩu giống hệt hoặc tương tự mà cơ quan hải quan tại cảng
nhập không có ngay được. Ngược lại, cơ quan hải quan có thể có thông tin về trị
giá thuế quan của những mặt hàng giống hệt hoặc tương tự mà nhà nhập khẩu chưa
có. Quá trình tham vấn giúp hai bên trao đổi thông tin với tinh thần vẫn đáp
ứng được yêu cầu bảo mật thương mại, nhằm định ra một cơ sở để xác định trị giá
thuế quan thích hợp.
3. Điều 5 và Điều 6 quy định hai cơ sở để xác định trị giá
thuế quan trong trường hợp không thể xác định được bằng cách dựa trên giá trị
giao dịch của hàng nhập khẩu, hay của hàng nhập khẩu giống hệt hoặc tương tự.
Theo khoản 1 Điều 5, trị giá thuế quan được xác định trên cơ sở giá bán hàng
hóa, trong điều kiện là hàng nhập khẩu, cho một người mua không có liên hệ tại
nước nhập khẩu. Nhà nhập khẩu cũng có quyền yêu cầu hàng đã được tiếp tục chế
biến sau khi nhập khẩu được định giá thuế quan theo Điều 5. Theo Điều 6, trị
giá tính thuế được xác định trên cơ sở giá trị tính toán. Cả hai phương pháp
trên đều có những khó khăn nhất định và do đó, theo qui định tại Điều 4, người nhập
khẩu được phép trao quyền lựa chọn áp dụng phương pháp nào trước.
4. Điều 7 đưa ra phương pháp làm thế nào để xác định
trị giá thuế quan trong trường hợp trị giá này không thể xác định được theo các
quy định của các Điều trước đó.
Các Thành viên,
Trong bối cảnh Đàm phán Thương mại Đa biên;
Mong muốn thúc đẩy các mục tiêu của GATT 1994 và đảm bảo hơn nữa lợi
ích của các nước đang phát triển trong thương mại quốc tế;
Thừa nhận tầm quan trọng của những quy định tại Điều 7 GATT 1994 và
mong muốn chi tiết hóa những quy tắc áp dụng những điều khoản này nhằm đảm bảo
tính thống nhất và chắc chắn trong việc thi hành;
Thừa nhận sự cần thiết của một chế độ định giá hàng hóa một cách thỏa
đáng, thống nhất và vô tư vì các mục đích thuế quan, nhằm ngăn chặn việc sử
dụng trị giá thuế quan tuỳ tiện hay thái quá;
Thừa nhận rằng cơ sở để định giá hàng hóa vì mục đích thuế quan cần ,
trong phạm vi rộng nhất có thể, phải là giá trị giao dịch của hàng hóa được
định giá;
Thừa nhận rằng trị giá thuế quan cần dựa trên tiêu chí đơn giản và
công bằng, phù hợp với các thông lệ thương mại và những thủ tục định giá này
phải được áp dụng chung mà không có sự phân biệt giữa các nguồn cung cấp;
Thừa nhận rằng không nên dùng những thủ tục định giá để chống bán phá
giá hàng hóa;
Bằng
Hiệp định này, thoả thuận như sau:
PHẦN I
NHỮNG
QUY TẮC ĐỊNH THUẾ QUAN
Điều 1
1. Trị giá thuế quan của hàng nhập khẩu phải là giá trị
giao dịch, tức là giá thực tế đã thanh toán hoặc phải thanh toán cho hàng hóa
được bán để xuất khẩu đến nước nhập khẩu có điều chỉnh phù hợp với các quy định
ở Điều 8, với điều kiện là:
(a) không có sự hạn chế nào trong việc người mua định
đoạt hay sử dụng hàng hóa, trừ những hạn chế:
(i) đã được áp dụng hoặc quy định bởi luật pháp hoặc bởi các
cơ quan có thẩm quyền tại nước nhập khẩu;
(ii) nhằm giới hạn những khu vực địa lý mà hàng hóa có
thể được phép bán lại hoặc:
(iii) không gây ảnh hưởng lớn tới giá trị hàng hóa.
(b) việc mua bán hoặc giá cả không phụ thuộc vào điều kiện
hoặc suy xét nào đó khiến không thể xác định được giá trị của hàng hóa đang
được định giá.
(c) người bán sẽ không được trực tiếp hoặc gián tiếp hưởng
bất kỳ phần nào từ số tiền do người mua thu được qua bán lại, nhượng lại hoặc
sử dụng hàng hóa này, trừ một số điều chỉnh hợp lý được phép tại Điều 8 ; và
(d) người mua và người bán không có liên hệ*, hoặc trong trường hợp có liên
hệ đó thì giá trị giao dịch chỉ được chấp nhận cho mục đích thuế quan theo
các qui định tại khoản 2.
2. (a) Khi quyết định liệu giá trị giao dịch có thể được
chấp nhận theo mục đích đã nêu trong khoản 1 nói trên hay không thì việc người
mua và người bán có liên hệ trong phạm vi ý nghĩa đã nêu ở Điều 15 tự nó
không thể dùng làm căn cứ để bác bỏ việc sử dụng giá trị giao dịch. Trong
trường hợp như vậy, các tình huống xung quanh việc mua bán đó sẽ được kiểm tra
và giá trị giao dịch sẽ được chấp nhận với với điều kiện sự liên hệ giữa người
mua và người bán không ảnh hưởng tới giá cả. Nếu dựa trên các thông tin do nhà
nhập khẩu hoặc các nguồn khác cung cấp, cơ quan hải quan có lý do để cho rằng
mối liên hệ này ảnh hưởng tới giá cả, thì cơ quan hải quan phải thông báo những
lý do này cho người nhập khẩu và người nhập khẩu phải có cơ hội hợp lý để giải
trình. Nếu người nhập khẩu yêu cầu, cơ quan hải quan sẽ thông báo bằng văn bản
các căn cứ đã áp dụng.
(b) Trong giao dịch mua bán giữa những người có liên hệ, giá
trị giao dịch sẽ được chấp nhận và hàng hóa sẽ được định giá theo các qui định
tại khoản 1 một khi người nhập khẩu chứng minh được rằng trị giá đó, lấy tại
cùng hoặc vào khoảng cùng thời điểm, là rất sát với trị giá trong các trường
hợp sau:
(i) trị giá giao dịch của các hàng hóa giống hệt hoặc tương
tự được xuất khẩu cho người nhập khẩu không có liên hệ tại nước nhập
khẩu;
(ii) trị giá thuế quan của các hàng hóa giống hệt hoặc tương
tự được xác định theo các quy định tại Điều 5;
(iii) trị giá thuế quan của các hàng hóa giống hệt hoặc
tương tự được xác định theo các quy định tại Điều 6;
Khi áp dụng các phương pháp kiểm tra nói trên, cần phải cân
nhắc một cách thích đáng sự chênh lệch về cấp lưu thông, mức số lượng, các yếu
tố liệt kê trong Điều 8 và các chi phí mà người bán phải chịu khi bán hàng cho
người mua không có liên hệ, nhưng không phát sinh khi người bán bán hàng cho
người mua có liên hệ.
(c) Các phương pháp kiểm tra được đề cập tới ở điểm
2(b) sẽ được sử dụng theo đề xuất của người nhập khẩu và chỉ nhằm mục đích so
sánh. Các giá trị thay thế có thể sẽ không được xây dựng theo các quy định của điểm
2(b).
Điều 2
1. (a) Nếu trị giá thuế quan của hàng nhập khẩu không thể
xác định theo các quy định tại Điều 1, thì trị giá thuế quan là trị giá giao
dịch của hàng hóa giống hệt được bán để xuất khẩu sang cùng nước nhập khẩu đó
và được xuất khẩu vào cùng thời điểm mà hàng hóa đó được định giá.
(b) Khi áp dụng Điều này, trị giá giao dịch của hàng hóa
giống hệt, được bán với cùng một cấp lưu thông và về cơ bản cùng một số lượng
tại thời điểm hàng hóa đó được định giá, sẽ được sử dụng để xác định trị giá
thuế quanKhi không thể tìm được một giao dịch bán hành như trên, thì trị giá
giao dịch của hàng hóa giống hệt được bán với cấp lưu thông khác và/hoặc số
lượng khác, sau khi đã được điều chỉnh có tính tới sự khác biệt do cấp lưu
thông và/hoặc số lượng sinh ra, sẽ được sử dụng, với điều kiện các điều chỉnh
này được dựa trên chứng cứ đã đưa ra, chứng minh một cách rõ ràng tính hợp lý
và chính xác của sự điều chỉnh, dù sự điều chỉnh này có thể dẫn tới sự tăng hay
giảm trị giá.
2. Khi các chi phí và phí quy định tại khoản 2 của Điều
8 được tính vào trị giá giao dịch, thì sự điều chỉnh cần phải tính tới những
chênh lệch đáng kể về chi phí và các khoản thu giữa hàng nhập khẩu và hàng hóa
giống hệt nó được đề cập tới ở đây do sự khác nhau về khoảng cách và phương
thức vận chuyển.
3. Nếu khi áp dụng Điều này mà thấy có nhiều trị giá giao
dịch của những hàng hóa giống hệt, thì trị giá thấp nhất sẽ được sử dụng để xác
định trị giá thuế quan của hàng hóa nhập khẩu đó.
Điều 3
1. (a) Nếu trị giá thuế quan của hàng nhập khẩu không
thể xác định theo các quy định của Điều 1 và Điều 2 thì trị giá thuế quan sẽ là
trị giá giao dịch của hàng hóa tương tự được bán để xuất khẩu sang cùng nước
nhập khẩu đó và được xuất khẩu vào cùng thời điểm mà hàng hóa đó đang được định
giá.
(b) Khi áp dụng Điều này, trị giá giao dịch của hàng hóa
tương tự, được bán với cùng một cấp lưu thông và về cơ bản cùng một số lượng
tại thời điểm hàng hóa đang được định giá, sẽ được sử dụng để xác định trị giá
thuế quan. Khi không thể tìm được một thương vụ như trên, thì trị giá giao dịch
của hàng hóa tương tự được bán với cấp lưu thông khác và/hoặc số lượng khác,
sau khi đã được điều chỉnh có tính tới sự khác biệt về cấp lưu thông và/hoặc số
lượng, sẽ được sử dụng, với điều kiện các điều chỉnh này được dựa trên chứng cứ
được đưa ra, chứng minh một cách rõ ràng tính hợp lý và chính xác của sự điều
chỉnh, dù sự điều chỉnh này có thể dẫn tới sự tăng hay giảm trị giá.
2. Khi các chi phí và phí nêu tại khoản 2 Điều 8 được tính
trong trị giá giao dịch, thì sự điều chỉnh cần phải tính tới những chênh lệch
đáng kể về chi phí và các khoản thu giữa hàng nhập khẩu và hàng hóa tương tự
được đề cập tới ở đây do sự khác nhau về khoảng cách và phương tiện vận
chuyển.
3. Nếu khi áp dụng Điều này mà thấy có nhiều trị giá giao
dịch của hàng hóa tương tự, thì trị giá thấp nhất sẽ được sử dụng để xác định
trị giá thuế quan của hàng hóa nhập khẩu đó.
Điều 4
Nếu trị giá thuế quan của hàng nhập khẩu không thể xác
định được theo các quy định tại Điều 1, Điều 2, và Điều 3, thì phải xác định
theo các quy định tại Điều 5, hoặc theo các quy định tại Điều 6 trong trường
hợp trị giá thuế quan trên vẫn không thể xác định được theo Điều 5. Trong
trường hợp người nhập khẩu có yêu cầu, thứ tự áp dụng Điều 5 và 6 có thể đảo
lại.
Điều 5
1. (a) Nếu hàng hóa nhập khẩu hoặc hàng hóa giống hệt hay
tương tự nhập khẩu được bán tại nước nhập khẩu theo điều kiện nhập khẩu, thì
trị giá thuế quan của hàng hóa nhập khẩu đó theo các quy định của Điều này sẽ
phải dựa trên giá của đơn vị hàng hóa mà hàng hóa nhập khẩu trên hoặc hàng hóa
nhập khẩu giống hệt hoặc tương tự được bán với tổng số lượng lớn nhất, vào cùng
hoặc khoảng cùng thời gian nhập khẩu hàng hóa đang được định giá, bán cho người
mua không có liên hệ với đến người bán hàng hóa đó, có khấu trừ các chi phí sau
đây:
(i) tiền hoa hồng thường thanh toán hoặc đồng ý
thanh toán hoặc một khoản phụ trội thường tính cho lợi nhuận và các chi phí
chung liên quan đến việc bán hàng ở nước nhập khẩu có cùng phẩm cấp và chủng
loại;
(ii) các chi phí thông thường để vận chuyển và bảo hiểm hàng
hóa cùng các chi phí có liên quan phải chịu ở nước nhập khẩu;
(iii) các chi phí và các khoản thu nói tại khoản 2 Điều 8
khi thấy phù hợp;
(iv) thuế quan và thuế nội địa phải trả tại nước nhập khẩu
khi nhập khẩu hoặc bán hàng hóa đó.
(b) Nếu hàng nhập khẩu hoặc hàng giống hệt hay tương tự nhập
khẩu đều không được bán vào hoặc vào cùng thời điểm nhập khẩu của hàng hóa đang
được định giá, thì trị giá thuế quan sẽ phải tính theo các qui định của điểm
1(a), dựa trên giá cả tính theo đơn vị hàng hóa mà hàng hóa nhập khẩu hoặc hàng
hóa giống hệt hoặc tương tự nhập khẩu được bán tại nước nhập khẩu với những
điều kiện được nhập khẩu vào một ngày sớm nhất sau ngày nhập khẩu hàng hóa đang
được định giá nhưng trước khi kết thúc thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhập khẩu.
2. Nếu hàng nhập khẩu hoặc hàng giống hệt hay tương tự nhập
khẩu đều không được bán tại nước nhập khẩu với những điều kiện như hàng nhập
khẩu, thì theo yêu cầu của nhà nhập khẩu, trị giá quan thuế phải dựa trên giá cả
tính theo đơn vị hàng hóa mà hàng nhập khẩu sau khi đã được tiếp tục chế biến
thêm, được bán với tổng số lượng lớn nhất cho người mua ở nước nhập khẩu không
có quan hệ với những người mà họ đã mua hàng hóa đó, khoản tiền thích đáng đã
chi phí cho việc chế biến nhằm gia tăng giá trị và các khoản được phép khấu trừ
qui định tại điểm 1(a).
Điều 6
1. Trị giá thuế quan của hàng nhập khẩu theo các quy định
của Điều này sẽ dựa trên giá trị tính toán. Giá trị tính toán là tổng của các
khoản sau:
(a) các chi phí hoặc giá trị của nguyên vật liệu và quá
trình sản xuất hoặc chế biến được sử dụng trong việc sản xuất ra hàng nhập khẩu
đó;
(b) khoản lợi nhuận và các chi phí chung tương đương với lợi
nhuận thường có trong việc bán hàng hóa có cùng phẩm cấp và chủng loại như hàng
hóa đang được định giá, do các nhà sản xuất của nước xuất khẩu sản xuất để xuất
khẩu sang nước nhập khẩu;
(c) các chi phí hoặc giá trị của các phí tổn cần thiết
để phản ánh phương pháp định giá được Thành viên đó lựa chọn theo khoản 2 Điều
8.
2. Không một Thành viên nào được đòi hỏi hoặc ép buộc một
người không cư trú trên lãnh thổ của mình phải xuất trình để kiểm tra hoặc cho
phép tiếp cận sổ sách hoặc các hồ sơ khác nhằm mục đích xác định giá trị tính
toán. Tuy nhiên, các thông tin do nhà sản xuất của hàng hóa đó cung cấp, nhằm
mục đích xác định trị giá thuế quan theo các quy định của Điều này, có thể được
các cơ quan thẩm quyền của nước nhập khẩu xác minh lại tại một nước khác với sự
đồng ý của nhà sản xuất và với điều kiện họ có thông báo trước một thời gian
thích đáng cho chính phủ của nước có liên quan và nước này không phản đối việc
điều tra.
Điều 7
1. Nếu trị giá thuế quan của hàng nhập khẩu không
thể xác định được theo các quy định từ Điều 1 đến Điều 6, thì giá trị thuế quan
sẽ được xác định thông qua việc sử dụng các phương pháp hợp lý, phù hợp với các
nguyên tắc và các quy định chung của Hiệp định này và của Điều VII GATT 1994 và
trên cơ sở các dữ liệu sẵn có tại nước nhập khẩu.
2. Không một giá trị thuế quan nào được xác định theo các
quy định của Điều này dựa trên cơ sở:
(a) giá bán tại nước nhập khẩu của hàng hóa sản xuất tại
nước đó;
(b) một hệ thống cho phép chấp nhận giá trị cao hơn trong
hai giá trị lựa chọn vì mục đích thuế quan;
(c) giá hàng hóa trên thị trường nội địa của nước nhập
khẩu;
(d) chi phí sản xuất ngoài giá trị tính toán đã được
xác định đối với hàng hóa giống hệt hoặc tương tự theo các qui định tại Điều 6;
(e) giá của hàng hóa xuất khẩu sang một nước khác không phải
là nước nhập khẩu;
(f) trị giá thuế quan tối thiểu; hoặc
(g) các giá trị tuỳ tiện hoặc không có thực.
3. Nếu nhà nhập khẩu yêu cầu, người nhập khẩu sẽ được
thông báo bằng văn bản về trị giá thuế quan được xác định trên cơ sở các qui
định của Điều này và phương pháp đã sử dụng để xác định trị giá đó.
Điều 8
1. Khi xác định trị giá thuế quan theo các qui định
của Điều 1, cần phải tính thêm vào giá thực sự đã thanh toán hoặc phải thanh
toán cho hàng hóa nhập khẩu:
(a) các khoản sau, mà trong chừng mực nào đó người bán đã
phải chịu nhưng không bao gồm trong giá đã thực sự thanh toán hoặc phải thanh
toán cho lô hàng:
(i) tiền hoa hồng và môi giới, trừ tiền môi giới mua hàng;
(ii) chi phí thùng gửi hàng được coi như chi phí nhằm mục
đích thuế quan với hàng hóa được đề cập ở đây;
(iii) các chi phí đóng gói cho lao động hoặc vật liệu;
(b) giá trị, đã phân bổ hợp lý, của các hàng hóa và dịch vụ
sau đây mà người bán đã trực tiếp hoặc gián tiếp dành cho người mua không lấy
tiền hoặc với giá thấp, để sử dụng trong sản xuất và bán để xuất khẩu các hàng
hóa nhập khẩu đó, tới mức độ/phạm vi mà giá trị như vậy chưa được gộp trong giá
đã thanh toán hoặc phải thanh toán.
(i) vật liệu, cấu kiện, phụ tùng và các thứ tương tự khác đã
nằm trong hàng hóa nhập khẩu đó;
(ii) các dụng cụ, khuôn mẫu và các loại tương tự dùng trong sản
xuất hàng nhập khẩu đó;
(iii) vật liệu đã sử dụng trong sản xuất hàng nhập khẩu đó;
(iv) việc lao vụ kỹ thuật, mỹ thuật ứng dụng, thiết kế, sơ
đồ và phác thảo được làm bên ngoài nước nhập khẩu và cần thiết cho việc sản
xuất của hàng hóa nhập khẩu.
(c) tiền bản quyền, tiền giấy phép sử dụng bằng sáng
chế liên quan đến hàng hóa mà người mua phải trả, hoặc trực tiếp hoặc gián
tiếp, như là một điều kiện của việc bán hàng hóa đang được định giá, trong
chừng mực mà tiền bản quyền, tiền giấy phép sử dụng bằng sáng chế đó không bao
gồm trong giá đã thanh toán hoặc phải thanh toán.
(d) giá trị của bất cứ phần nào trong số tiền thu được sau
này mà người bán sẽ được hưởng một cách gián tiếp hoặc trực tiếp từ việc: bán
lại, nhượng lại, hoặc sử dụng hàng hóa nhập khẩu đó.
2. Khi xây dựng luật pháp quốc gia, các nước Thành viên sẽ
quy định việc loại ra hay đưa vào trị giá thuế quan, tất cả hoặc một phần các
yếu tố sau:
(a) chi phí vận chuyển hàng hóa nhập khẩu tới cảng hoặc địa
điểm nhập khẩu;
(b) chi phí xếp hàng, dỡ hàng và chi phí làm hàng liên quan
đến vận chuyển hàng hóa nhập khẩu tới cảng hoặc địa điểm nhập khẩu; và
(c) chi phí bảo hiểm.
3. Các khoản tính thêm vào giá hàng đã thanh toán hoặc phải
thanh toán theo Điều này cần phải dựa trên dữ liệu khách quan và có thể định
lượng được.
4.Ngoài các khoản đã qui định trong Điều này, khi xác định
trị giá thuế quan không được tính thêm các khoản khác vào giá hàng đã thanh
toán hoặc phải thanh toán.
Điều 9
1. Khi cần chuyển đổi tiền tệ để xác định trị giá thuế quan,
thì tỷ giá chuyển đổi được sử dụng phải là tỷ giá do các cơ quan có thẩm quyền
của nước nhập khẩu có liên quan công bố một cách hợp lệ và phải phản ánh xác
thực nhất, trong thời gian hiệu lực của văn bản công bố, giá trị hiện
hành của đồng tiền đó trong các giao dịch thương mại tính theo giá trị đồng
tiền của nước nhập khẩu.
2. Tỷ giá chuyển đổi sẽ được sử dụng đó cần phải có hiệu lực
vào thời điểm xuất khẩu hoặc thời điểm nhập khẩu mà mỗi nước Thành viên đã qui
định.
Điều 10
Các thông tin mang tính chất bí mật hoặc được cung cấp trên
cơ sở bí mật nhằm mục đích định giá thuế quan cần được các cơ quan thẩm quyền
có liên quan xử lý như các thông tin tối mật, tuyệt đối không được để lộ ra
ngoài mà không được phép cụ thể của cá nhân hoặc chính phủ cung cấp thông tin
đó, trừ trường hợp và trong chừng mực thông tin đó được yêu cầu phải tiết lộ
trong bối cảnh các thủ tục tư pháp.
Điều 11
1. Luật pháp của các nước Thành viên phải đảm bảo quyền
kháng cáo liên quan đến các quyết định về trị giá thuế quan của người nhập khẩu
hoặc bất kỳ người nào khác chịu trách nhiệm thanh toán thuế nhập khẩu mà không
bị trừng phạt.
2. Quyền kháng cáo ban đầu có thể là với nhà chức trách nằm
trong cơ quan hải quan hoặc với một tổ chức độc lập mà không bị trừng phạt,
nhưng luật pháp của mỗi nước Thành viên đều phải cho phép quyền kháng cáo lên
một cơ quan tư pháp mà không bị trừng phạt.
3. Thông báo quyết định giải quyết kháng cáo sẽ được gửi cho
người kháng cáo và lý do đi đến quyết định đó phải được thông báo bằng văn bản.
Người kháng cáo cũng phải được thông báo về các quyền kháng cáo tiếp theo.
Điều 12
Các luật, quy định, quyết định tư pháp và các quyết định
hành chính áp dụng chung quy định hiệu lực cho Hiệp định này phải được nước
nhập khẩu hữu quan công bố phù hợp với Điều X của GATT 1994.
Điều 13
Nếu trong quá trình định giá tính thuế hải quan của hàng
nhập khẩu, mà thấy cần trì hoãn việc xác định trị giá thuế quan cuối cùng, thì
người nhập khẩu hàng hóa đó vẫn có quyền lấy hàng ra khỏi cơ quan hải quan, nếu
được yêu cầu thì người nhập khẩu phải đưa ra đầy đủ bảo đảm dưới hình thức bảo
lãnh, tiền đặt cọc hoặc các công cụ bảo lãnh thích hợp khác, đảm bảo có thể
thanh toán tối đa thuế nhập khẩu mà hàng hóa đó có khả năng phải chịu. Luật
pháp của mỗi nước quy định trường hợp nêu trên.
Điều 14
Các ghi chú tại Phụ lục I của Hiệp định này là một phần
không tách rời của Hiệp định, và các quy định của Hiệp định này phải được hiểu
và áp dụng cùng với các ghi chú tương ứng. Phụ lục II và III cũng là một phần
không tách rời của Hiệp định.
Điều 15
1. Trong Hiệp định này:
(a) "trị giá thuế quan của hàng hóa nhập khẩu" là
trị giá của hàng hóa phục vụ cho mục đích đánh thuế nhập khẩu theo trị giá thuế
quan của hàng hóa nhập khẩu;
(b) "nước nhập khẩu" là nước hoặc lãnh thổ hải
quan nơi nhập khẩu; và
(c) "được sản xuất" bao gồm được trồng trọt, được
chế tạo và được khai mỏ.
2. Trong Hiệp định này:
(a) "hàng hóa giống hệt" là hàng hóa như nhau về
mọi phương diện, bao gồm các đặc điểm vật lý, chất lượng, và danh tiếng. Một số
khác nhau nhỏ về hình thức bên ngoài không làm cho một hàng hóa, mà về các mặt
khác tuân thủ với định nghĩa trên, bị coi không phải là hàng hóa giống
hệt;
(b) "hàng hóa tương tự" là hàng hóa mà mặc dù
không giống nhau về mọi phương diện nhưng, có các đặc điểm tương tự và vật liệu
cấu thành tương tự cho phép chúng thực hiện được cùng chức năng và có khả năng
thay thế cho nhau về mặt thương mại. Chất lượng, danh tiếng của hàng hóa và sự
hiện hữu của nhãn hiệu thương mại là các yếu tố được cân nhắc khi xác định hàng
hóa có phải là tương tự hay không;
(c) các thuật ngữ “hàng hóa giống hệt” và “hàng hóa tương
tự” không bao gồm, tuỳ trường hợp cụ thể, hàng hóa có cấu thành hoặc phản ánh
lao vụ kỹ thuật, mỹ thuật ứng dụng, thiết kế, sơ đồ và phác thảo chưa được điều
chỉnh theo điểm 1(b)(iv) Điều 8 vì những yếu tố đó được tiến hành tại nước nhập
khẩu;
(d) hàng hóa không được coi là “giống hệt” hoặc “tương tự”
trừ khi được sản xuất tại cùng một nước như hàng hóa đang được định giá;
(e) hàng hóa do một người khác sản xuất chỉ được xét tới nếu
không có hàng hóa giống hệt hoặc tương tự như hàng hóa đang được định giá, tuỳ
trường hợp cụ thể, của cùng một người sản xuất.
3. Trong Hiệp định này, “hàng hóa cùng phẩm cấp và
chủng loại” là hàng hóa nằm trong một loại hoặc một nhóm hàng do một ngành công
nghiệp hoặc một lĩnh vực công nghiệp cụ thể nào đó sản xuất, bao gồm cả các
hàng hóa giống hệt hoặc tương tự.
4. Theo Hiệp định này, những người bị coi là có liên hệ chỉ
khi:
(a) họ là các viên chức hoặc các giám đốc chéo giữa các
doanh nghiệp;
(b) họ đã được pháp luật coi là các đối tác trong cùng doanh
nghiệp;
(c) họ là người sử dụng lao động và
người lao động;
(d) bất kỳ người nào trực tiếp hoặc gián
tiếp kiểm soát hoặc nắm từ 5% trở lên cổ phần có quyền biểu quyết đang lưu hành
của cả hai doanh nghiệp;
(e) một người trong số họ trực tiếp hoặc
gián tiếp điều khiển người kia;
(f) họ cùng bị một người thứ ba trực
tiếp hoặc gián tiếp điều khiển; hoặc
(g) họ cùng trực tiếp hoặc gián tiếp
điều khiển một người thứ ba;
(h) là thành viên của cùng một gia đình.
5. Những người có quan hệ trong
kinh doanh, mà trong đó, một người là đại lý độc quyền, nhà phân phối độc
quyền, hoặc người được nhượng quyền độc nhất, sẽ được coi là người có liên hệ
theo Hiệp định này, nếu họ thuộc các tiêu chí trong khoản 4.
Điều 16
Khi có yêu cầu bằng văn bản, nhà nhập khẩu có quyền được cơ
quan hải quan nước nhập khẩu trả lời bằng văn bản giải thích về việc cơ quan
hải quan đã làm thế nào để xác định trị giá thuế quan của hàng hóa nhập khẩu.
Điều 17
Không có quy định nào trong Hiệp định này được hiểu là nhằm
hạn chế hoặc nghi ngờ quyền của cơ quan hải quan trong việc tự chứng minh về
tính đúng đắn và tính chính xác của bất kỳ một báo cáo, văn bản hoặc tuyên bố
nào đã được đưa ra nhằm mục đích định giá thuế quan.
PHẦN II
QUẢN
LÝ, THAM VẤN VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
Điều 18
Các thể
chế
1. Nay thành lập một Ủy ban về định
giá thuế quan (trong Hiệp định này gọi là Ủy ban) gồm đại diện của mỗi Thành
viên. Ủy ban bầu ra Chủ tịch Ủy ban và thông thường sẽ họp mỗi năm một lần,
hoặc theo các quy định có liên quan của Hiệp định này, nhằm mục đích cho phép
các nước thành viên có cơ hội tham vấn về các vấn đề có liên quan đến điều hành
hệ thống định giá thuế quan của bất kỳ nước Thành viên nào bởi vì Ủy ban này có
thể gây ảnh hưởng đến hoạt động của Hiệp định hoặc thúc đẩy các mục đích và
thực hiện các nghĩa vụ khác mà các nước Thành viên có thể giao phó. Ban Thư ký
WTO sẽ đóng vai trò thư ký của Ủy ban này.
2. Nay thành lập Ủy ban kỹ thuật về định giá thuế quan (trong
Hiệp định này được gọi là "Ủy ban kỹ thuật"), hoạt động dưới sự bảo
trợ của Hội đồng hợp tác hải quan (trong Hiệp định này gọi tắt là
"CCC"). Ủy ban sẽ thực hiện trách nhiệm được quy định trong Phụ lục
II của Hiệp định này và hoạt động theo các quy tắc về thủ tục quy định tại Phụ
lục đó.
Điều 19
Tham vấn và giải quyết tranh chấp
1. Trừ trường hợp nêu dưới đây, Bản diễn giải về giải quyết
tranh chấp được áp dụng để tham vấn và giải quyết các tranh chấp theo Hiệp định
này.
2. Nếu bất kỳ Thành viên nào cho rằng lợi ích mà họ đang
hưởng, trực tiếp hoặc gián tiếp, theo Hiệp định này, đang bị vô hiệu hóa hoặc
phương hại, hoặc việc đạt được các mục đích của Hiệp định này đang bị cản trở,
vì hành động của một Thành viên hoặc các Thành viên khác, thì có thể yêu cầu
tham vấn với Thành viên hoặc các Thành viên đó nhằm đạt được giải pháp thoả mãn
tất cả các bên liên quan. Các Thành viên cần phải dành sự quan tâm ủng hộ đối
với các yêu cầu tham vấn của các Thành viên khác.
3. Khi có yêu cầu, Ủy ban kỹ thuật
sẽ tư vấn và hỗ trợ các Thành viên tham gia các cuộc tham vấn.
4. Theo yêu cầu của một bên trong
tranh chấp, hoặc tự mình đề xuất, một ban hội thẩm, được thành lập để xem xét
tranh chấp liên quan đến các quy định của Hiệp định này, có thể yêu cầu Ủy ban
Kỹ thuật tiến hành xem xét bất kỳ một vấn đề nào đòi hỏi có sự cân nhắc về mặt
kỹ thuật. Ban hội thẩm phải quyết định các điều khoản tham chiếu của Ủy ban kỹ
thuật cho tranh chấp cụ thể đó và đặt ra thời hạn mà Ủy ban kỹ thuật phải nộp
báo cáo. Ban hội thẩm sẽ cân nhắc đến báo cáo này của Ủy ban kỹ thuật. Trong
trường hợp Ủy ban kỹ thuật không đạt được đồng thuận về một vấn đề đã được
chuyển đến cho họ xem xét theo quy định tại khoản này, thì ban hội thẩm cần tạo
điều kiện cho các bên tranh chấp có cơ hội để trình bày quan điểm của mình về
vấn đề đó trước ban hội thẩm.
5. Các thông tin bí mật được cung cấp cho ban hội thẩm không
được phép tiết lộ ra ngoài nếu không có sự cho phép chính thức của cá nhân, tổ
chức hoặc cơ quan hữu trách đã cung cấp các thông tin đó. Trong trường hợp
thông tin do ban hội thẩm yêu cầu nhưng ban này không được phép tiết lộ, thì có
thể cung cấp bản tóm tắt không mang tính chất bí mật thông tin đó nếu được phép
của cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan hữu trách cung cấp thông tin đó.
ĐỐI XỬ
ĐẶC BIỆT VÀ KHÁC BIỆT
Điều 20
1. Các Thành viên đang phát triển không phải là Thành viên
ký kết Hiệp định về Thực hiện Điều VII của Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại ngày 12 tháng 4 năm 1979 có thể trì hoãn việc áp dụng các quy định
của Hiệp định này trong thời hạn không quá 5 năm kể từ ngày Hiệp định WTO có
hiệu lực đối với các Thành viên đó. Thành viên đang phát triển khi lựa chọn trì
hoãn việc áp dụng Hiệp định này sẽ thông báo hợp lệ với Tổng giám đốc WTO.
2. Ngoài khoản 1 nói trên, các thành viên đang phát triển
không phải là thành viên ký kết Hiệp định về Thực hiện Điều VII của Hiệp định
chung về thuế quan và thương mại ngày 12 tháng 4 năm 1979 có thể trì hoãn việc
áp dụng điểm 2(b)(iii) Điều 1 và Điều 6 trong thời hạn không quá 3 năm sau khi
áp dụng tất cả các quy định khác của Hiệp định này. Khi quyết định trì hoãn
việc áp dụng các quy định cụ thể trong khoản này các nước thành viên đang phát
triển phải thông báo với Tổng giám đốc WTO.
3. Các thành viên phát triển sẽ cung
cấp, với các điều kiện do hai bên thoả thuận, trợ giúp kỹ thuật cho các thành
viên đang phát triển nếu các nước này yêu cầu. Trên cơ sở đó, các Thành viên
phát triển sẽ xây dựng các chương trình trợ giúp kỹ thuật, ngoài các hỗ trợ
khác, có thể bao gồm: đào tạo nhân viên, hỗ trợ chuẩn bị các biện pháp thực thi,
tiếp cận các nguồn thông tin liên quan đến phương pháp định giá thuế quan, và
tư vấn cho việc áp dụng các quy định của Hiệp định này.
CÁC
QUY ĐỊNH CUỐI CÙNG
Điều 21
Bảo lưu
Những bảo lưu đối với các quy định của Hiệp định này không
được phép thực hiện nếu không có sự đồng ý của các nước Thành viên khác.
Điều 22
Pháp luật quốc gia
1. Các Thành viên phải đảm bảo sự phù hợp của các luật, quy
định và các thủ tục hành chính với các các quy định của Hiệp định này không
muộn hơn ngày Thành viên đó áp dụng các quy định của Hiệp định này.
2. Mỗi Thành viên phải thông báo cho Ủy ban về bất kỳ sự
thay đổi nào trong các luật và quy định của mình liên quan đến Hiệp định này
cũng như việc thực thi các luật và các quy định đó.
Điều 23
Rà soát
Hàng năm, Ủy ban phải kiểm điểm việc thực hiện và vận hành
của Hiệp định này, có xét đến các mục tiêu của Hiệp định. Hàng năm, Ủy ban phải
thông báo cho Hội đồng thương mại hàng hóa về các tiến triển trong thời gian
được kiểm điểm đó.
Điều 24
Ban Thư ký
Hiệp định này sẽ do Ban Thư ký WTO theo dõi, trừ các trách
nhiệm đã được phân công cụ thể cho Ủy ban kỹ thuật sẽ do Ban Thư ký Hội đồng
hợp tác hải quan đảm nhiệm.
PHỤ LỤC I
GIẢI
THÍCH CHÚ GIẢI CHUNG TRÌNH TỰ ÁP DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP
ĐỊNH GIÁ THUẾ QUAN
1. Các Điều từ 1 đến 7 quy định rõ trị giá thuế quan của
hàng nhập khẩu được xác định như thế nào theo các quy định của Hiệp định này. Các
phương pháp định giá được trình bày theo một thứ tự áp dụng. Phương pháp
định giá thuế quan chủ yếu được định rõ tại Điều 1 và hàng hóa nhập khẩu sẽ
được định giá theo các qui định của Điều này bất cứ khi nào thoả mãn các điều
kiện đưa ra trong trường hợp đó.
2. Khi trị giá thuế quan không thể xác định được theo
các qui định của Điều 1, thì trị giá này sẽ được xác định bằng cách lần lượt sử
dụng các điều kế tiếp cho tới khi tìm được một điều mà trị giá thuế quan có thể
xác định được. Trừ trường hợp đã nêu tại Điều 4, chỉ khi trị giá thuế quan
không thể xác định được theo quy định của một Điều nào đó mới có thể áp dụng
các quy định của Điều kế tiếp.
3. Nếu người nhập khẩu không yêu cầu đảo ngược trình tự của
Điều 5 và 6, thì được áp dụng thứ tự thông thường. Nếu người nhập khẩu không
yêu cầu, nhưng thực tế chứng minh không thể xác định trị giá thuế quan bằng
việc áp dụng Điều 6, thì trị giá thuế quan đó sẽ được xác định theo các quy
định tại Điều 5, nếu có thể xác định được.
4. Khi trị giá thuế quan không thể xác định được theo các
quy định của các Điều từ 1 đến 6 thì sẽ được xác định theo các quy định của
Điều 7.
1. “Các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung” là sự đồng
thuận được thừa nhận hoặc sự ủng hộ lớn của cơ quan thẩm quyền trong phạm vi
một nước tại một thời điểm cụ thể về cách ghi sổ kế toán như thế nào các nghĩa
vụ và nguồn lực kinh tế vào tài sản có và nợ, những thay đổi nào trong tài sản
có và nợ cần phải ghi sổ, phải đánh giá tài sản có, nợ và sự thay đổi của hai
tài khoản này như thế nào, cần tiết lộ những thông tin gì và tiết lộ như thế
nào, và cần phải lập những báo cáo tài chính nào. Những tiêu chuẩn này có thể
là các nguyên tắc chỉ đạo chung đối với các áp dụng chung cũng như các thông lệ
và thủ tục chi tiết.
2. Theo Hiệp định này, cơ quan hải quan của mỗi nước
Thành viên phải sử dụng các thông tin được báo cáo phù hợp với các nguyên tắc
kế toán được chấp nhận chung tại nước đó và thích hợp với Điều khoản có liên
quan.
Thí dụ: việc xác định lợi nhuận thông thường và các chi phí
chung theo các quy định của Điều 5 sẽ được thực hiện thông qua việc sử dụng các
thông tin đã được báo cáo phù hợp với các nguyên tắc kế toán chấp nhận chung
của nước nhập khẩu. Ngược lại, việc xác định lợi nhuận thông thường và các chi
phí chung theo các quy định của Điều 6 sẽ được thực hiện thông qua việc sử dụng
các thông tin đã được báo cáo phù hợp với các nguyên tắc kế toán chấp nhận
chung của nước sản xuất. Một thí dụ nữa là việc xác định một yếu tố được nêu
trong điểm1(b)(ii) Điều 8 tiến hành tại nước nhập khẩu, sẽ được thực hiện thông
qua việc sử dụng các thông tin đã được báo cáo phù hợp với các nguyên tắc kế
toán chấp nhận chung của nước đó.
Giá thanh toán thực tế hoặc phải thanh toán
1. Giá thanh toán thực tế hoặc phải thanh toán là tổng
số tiền đã hoặc sẽ được người mua thanh toán cho hoặc vì lợi ích của người bán
cho số hàng nhập khẩu đó. Khoản thanh toán đó không nhất thiết phải dưới hình
thức tiền chuyển khoản. Việc thanh toán có thể thông qua thư tín dụng hoặc các
phương tiện thanh toán có thể chuyển nhượng khác. Thanh toán có thể thực hiện
một cách trực tiếp hay gián tiếp. Thí dụ, việc thanh toán gián tiếp là khi
người mua thanh toán toàn bộ hay một phần, khoản nợ mà người bán đang chịu.
2. Các hoạt động của người mua vì lợi ích của chính mình và
nằm ngoài các hoạt động mà Điều 8 cho phép điều chỉnh, không được coi là hành
động thanh toán gián tiếp cho người bán, mặc dù các hành động này có thể được
coi là đã làm lợi cho người bán. Do đó, khi định giá thuế quan, chi phí cho các
hoạt động như vậy sẽ không được cộng vào giá thanh toán thực tế hoặc giá phải
thanh toán.
3. Trị giá thuế quan không bao gồm các chi phí hoặc các
khoản phải trả sau, với điều kiện các phí này khác biệt với giá đã thanh toán
hoặc giá phải thanh toán cho hàng nhập khẩu đó:
(a) các khoản phải trả cho xây dựng, lắp ghép, lắp ráp, bảo
dưỡng hoặc trợ giúp kỹ thuật đối với hàng hóa nhập khẩu, được tiến hành sau khi
nhập khẩu như nhà máy, máy móc hoặc thiết bị công nghiệp;
(b) chi phí vận chuyển sau nhập khẩu;
(c) thuế quan và các thuế khác của nước nhập khẩu.
4. Giá thanh toán thực tế hoặc phải thanh toán là giá cả của
hàng hóa nhập khẩu. Do đó các khoản chia lợi nhuận hoặc các khoản thanh toán
khác từ người mua cho người bán không liên quan tới hàng hóa nhập khẩu không
phải là một phần của trị giá thuế quan.
Điểm 1(a)(iii)
Trong số các hạn chế mà không làm cho giá thanh toán thực tế
hoặc phải thanh toán không thể chấp nhận được là các hạn chế mà không gây ảnh
hưởng lớn tới giá trị của hàng hóa. Thí dụ : khi người bán yêu cầu người mua
ô-tô không bán hoặc trưng bày xe đó trước một ngày đã định là ngày đánh dấu năm
ra đời một kiểu xe.
Điểm 1(b)
1. Nếu việc bán hàng và giá cả phải phụ thuộc vào một
số điều kiện hoặc lý domà vì thế không thể xác định được trị giá của hàng hóa
đang được định giá đó, thì trị giá giao dịch sẽ không được chấp nhận cho mục
đích thuế quan. Thí dụ:
(a) người bán định giá hàng hóa nhập khẩu với điều kiện
người mua phải mua kèm các hàng hóa khác với một số lượng nhất định;
(b) giá của hàng hóa nhập khẩu phụ thuộc vào mức giá hoặc
các mức giá mà người mua hàng hóa nhập khẩu đó bán các loại hàng khác cho người
bán hàng hóa nhập khẩu đó;
(c) giá được định ra trên cơ sở một hình thức thanh toán
không liên quan tới hàng hóa nhập khẩu, chẳng hạn như khi hàng hóa nhập khẩu là
bán thành phẩm do người bán cung cấp với điều kiện người bán sẽ nhận được một
số lượng nhất định hàng thành phẩm.
2. Tuy nhiên, các điều kiện hoặc suy xét liên quan đến
sản xuất và tiếp thị của hàng hóa nhập khẩu sẽ không dẫn tới từ chối việc áp
dụng trị giá giao dịch. Thí dụ, việc người mua cung cấp cho người bán các dịch
vụ kỹ thuật và bản thiết kế/kế hoạch tiến hành tại nước nhập khẩu không được coi
là lý do để từ chối việc áp dụng trị giá giao dịch cho các mục đích của Điều 1.
Tương tự như vậy, nếu người mua tự tiến hành các hoạt động liên quan đến tiếp
thị hàng hóa nhập khẩu, vì lợi ích của chính mình, dù rằng theo thoả thuận với
người bán, trị giá của các hoạt động này không phải là một phần của giá trị
thuế quan hay bị coi là lý do để bác bỏ trị giá giao dịch.
Khoản 2
1. Các điểm 2(a) và 2(b) quy định các phương pháp khác
nhau để xác định một giá trị giao dịch có được chấp nhận hay không.
2. Điểm 2(a) quy định rằng khi người bán và người mua có
liên hệ, thì các yếu tố xung quanh việc bán hàng cần phải xem xét và trị
giá giao dịch sẽ được chấp nhận là trị giá thuế quan, với điều kiện là mối liên
hệ này không ảnh hưởng tới giá cả. Điều này không có nghĩa là cần phải thẩm tra
các yếu tố trên trong mọi trường hợp khi người bán và người mua có liên hệ.
Việc thẩm tra như vậy chỉ được yêu cầu khi có sự nghi ngờ về tính hợp lý của
giá cả. Khi cơ quan hải quan không có gì nghi ngờ về tính hợp lý của giá cả,
thì trị giá đó phải được chấp nhận mà không đòi hỏi thêm thông tin từ phía nhà
nhập khẩu. Thí dụ: cơ quan hải quan trước đó có thể đã thẩm tra về liên hệ giữa
người bán và người mua hoặc đã có các thông tin chi tiết về mối liên hệ, và từ
việc thẩm tra và các thông tin này, cơ quan hải quan có thể hài lòng kết luận
rằng mối liên hệ này không ảnh hưởng đến giá cả.
3. Khi cơ quan hải quan không thể chấp nhận trị giá giao
dịch mà không tiến hành thẩm tra thêm, thì họ cần phải cho người nhập khẩu một
cơ hội để cung cấp thêm các thông tin cần thiết cho phép xem xét hoàn cảnh xung
quanh việc bán hàng. Trong trường hợp này, cơ quan hải quan cần phải sẵn sàng
để xem xét các yếu tố có liên quan tới giao dịch này, bao gồm cách thức mà
người bán và người mua tổ chức hoạt động thương mại của họ và cách thức đi đến
giá cả đó, để xác định liệu quan hệ đó có ảnh hưởng đến giá cả hay không. Khi
chứng minh được rằng, người bán và người mua, mặc dù có liên hệ với nhau theo
các qui định của Điều 15, nhưng mua bán với nhau như là những người không có
liên hệ, thì chứng tỏ rằng giá cả đó đã không bị ảnh hưởng bởi mối liên hệ giữa
hai bên. Thí dụ: Nếu giá cả đã được thanh toán một cách phù hợp với các thông
lệ định giá thông thường của ngành công nghiệp đó hoặc theo cách mà người bán
định giá bán hàng cho những người mua không có liên quan với người bán, thì
điều đó chứng tỏ rằng giá cả của hàng hóa đó không bị ảnh hưởng của mối liên hệ
giữa hai bên. Một thí dụ nữa là: khi thấy rằng giá hàng đủ để thu hồi tất cả
các chi phí sản xuất và ngoài ra còn có thêm một khoản lợi nhuận, đại diện cho
tổng lợi nhuận mà công ty đạt được trong một khoảng thời gian (thí dụ: trên cơ
sở hàng năm), trên doanh thu bán các loại hàng hóa cùng chủng loại và phẩm cấp,
thì điều đó chứng tỏ rằng giá cả của hàng hóa đó không bị ảnh hưởng của mối
liên hệ giữa hai bên.
4. Điểm 2(b) cho phép người nhập khẩu có cơ hội chứng tỏ
rằng trị giá giao dịch là rất sát với trị giá “kiểm tra” mà cơ quan hải quan
trước đó đã chấp nhận và do đó là chấp nhận được theo các quy định của Điều 1. Khi
việc kiểm tra theo điểm 2(b) đã được đáp ứng, thì không cần thiết phải xem xét
về sự ảnh hưởng theo điểm 2(a). Nếu cơ quan hải quan đã có đầy đủ các thông tin
cần thiết để hài lòng rằng một trong các yêu cầu thẩm tra theo quy định trong điểm
2(b) đã được thoả mãn, mà không cần có thêm yêu cầu chi tiết gì nữa, thì không
có lý do gì để yêu cầu người nhập khẩu chứng minh rằng có thể đáp ứng yêu cầu
kiểm tra. Theo điểm 2(b), thuật ngữ “người mua không có liên hệ” có nghĩa là
người mua không có liên hệ gì với người bán trong bất kỳ một trường hợp cụ thể nào.
Điểm 2(b)
Một số yếu tố cần phải được cân nhắc khi xác định một trị
giá có "rất sát" với một trị giá khác hay không. Các yếu tố này bao
gồm tính chất của hàng hóa nhập khẩu, tính chất của chính ngành sản xuất, thời
vụ nhập khẩu hàng hóa và nếu sự khác nhau về trị giá có ý nghĩa thương mại quan
trọng. Vì các yếu tố này có thể khác nhau tuỳ theo từng trường hợp, nên không
thể áp dụng một tiêu chuẩn thống nhất, chẳng hạn như một tỷ lệ phần trăm cố
định, trong mọi trường hợp. Thí dụ, khi xác định liệu trị giá giao dịch có sát
với giá trị “kiểm tra/kiểm nghiệm” nêu tại điểm 2(b) Điều 1 thì một sự chênh
lệch nhỏ về trị giá trong một trường hợp nào đó liên quan đến một loại hàng hóa
nào đó có thể không được chấp nhận, trong khi đó một sự chênh lệch lớn trong
một trường hợp khác liên quan đến một loại hàng hóa khác thì lại có thể chấp
nhận được.
1. Khi áp dụng Điều 2, cơ quan hải quan cần phải, khi có
thể, sử dụng hàng hóa giống hệt được bán với cùng một cấp lưu thông, và về căn
bản cùng một số lượng như hàng hóa đang được định giá. Khi không tìm được việc
bán hàng như vậy, việc bán hàng giống hệt theo bất kỳ một trong ba điều kiện
sau đây có thể được sử dụng:
(a) bán hàng cùng một cấp độ lưu thông nhưng khác về số
lượng;
(b) bán hàng khác cấp độ lưu thông nhưng về căn bản
cùng một số lượng; hoặc
(c) bán hàng khác cấp độ lưu thông và khác số lượng.
2. Nếu hàng hóa được bán theo một trong ba điều kiện trên
thì tuỳ từng trường hợp sẽ cho phép điều chỉnh đối với:
(a) chỉ với các hệ số về số lượng;
(b) chỉ với các hệ số về cấp lưu thông; hoặc
(c) cả hai hệ số cấp lưu thông và số lượng.
3. Cách diễn đạt “và/hoặc” cho phép sự linh hoạt trong
sử dụng việc bán hàng và điều chỉnh nếu cần thiết khi gặp phải một trong 3
trường hợp nói trên.
4. Theo Điều 2, trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu
giống hệt là trị giá thuế quan, đã được điều chỉnh theo điểm1(b) và 2, mà trước
đó đã được chấp nhận theo Điều 1.
5. Việc điều chỉnh, do có sự khác nhau về cấp lưu thông hoặc
số lượng được cho phép với điều kiện những điều chỉnh như vậy, cho dù có thể
dẫn đến tăng hay giảm trị giá, là dựa trên cơ sở các bằng chứng đã được đưa ra
giải thích một cách rõ ràng về tính hợp lý, và tính chính xác của các điều chỉnh
này, chẳng hạn các bảng giá có giá trị hợp lệ phải bao gồm các mức giá cả khác
nhau cho từng cấp lưu thông hoặc từng mức số lượng khác nhau. Thí dụ: Nếu hàng
nhập khẩu đang được định giá là một chuyến hàng gồm 10 đơn vị và hàng hóa nhập
khẩu giống hệt mà chỉ tồn tại một trị giá giao dịch với 500 đơn vị, và được
biết người bán có dành cho người mua một khoản chiết khấu tính trên số lượng,
thì có thể điều chỉnh bằng cách sử dụng bảng giá của người bán và áp dụng mức
giá dành cho hợp đồng với số lượng 10 đơn vị hàng hóa. Việc áp dụng này không
đòi hỏi phải bán theo từng lô 10 đơn vị, miễn là bảng giá này được lập ra một
cách trung thực, thông qua việc bán hàng với số lượng khác. Tuy nhiên, trong
trường hợp không có được một sự đánh giá/phương pháp khách quan như trên thì
việc xác định trị giá thuế quan theo các quy định của Điều 2 là không phù hợp.
1. Khi áp dụng Điều 3, cơ quan hải quan cần phải, khi có
thể, sử dụng việc bán các hàng hóa tương tự tại cùng một cấp lưu thông và về cơ
bản cùng một số lượng như hàng hóa đang được định giá. Khi không tìm được hàng
hóa như vậy, thì có thể được sử dụng việc bán các hàng hóa tương tự được tiến
hành dưới một trong các điều kiện sau:
(a) bán hàng cùng một cấp độ lưu thông nhưng khác về số
lượng;
(b) bán hàng khác cấp độ lưu thông nhưng về căn bản với cùng
một số lượng; hoặc
(c) bán hàng khác cấp độ lưu thông và khác số lượng.
2. Nếu hàng hóa được bán theo một trong ba điều kiện trên
thì tuỳ từng trường hợp sẽ cho phép điều chỉnh:
(a) chỉ với các hệ số về số lượng;
(b) chỉ với các hệ số về cấp lưu thông; hoặc
(c) cả hai hệ số cấp lưu thông và số lượng.
3. Cách diễn đạt “và/hoặc” cho phép sự linh hoạt trong sử
dụng việc bán hàng và điều chỉnh nếu cần thiết, khi gặp phải một trong 3 trường
hợp nói trên.
4. Theo Điều 3, trị giá giao dịch của hàng hóa nhập
khẩu tương tự là trị giá thuế quan, đã được điều chỉnh theo điểm 1(b) và 2, mà
trước đó đã được chấp nhận theo Điều 1.
5. Việc điều chỉnh, do có sự khác nhau về cấp lưu thông
hoặc số lượng, được cho phép với điều kiện những điều chỉnh như vậy, cho dù có
thể dẫn đến tăng hay giảm trị giá, là phải dựa trên cơ sở các bằng chứng đã
được đưa ra, giải thích một cách rõ ràng tính hợp lý và tính chính xác của các
điều chỉnh này. Thí dụ: các bảng giá có giá trị hợp lệ phải bao gồm các mức giá
cả khác nhau cho từng cấp lưu thông hoặc từng mức số lượng khác nhau. Thí dụ:
Nếu hàng nhập khẩu đang được định giá là một chuyến hàng gồm 10 đơn vị hàng hóa
và một hàng hóa nhập khẩu tương tự duy nhất mà chỉ tồn tại một trị giá giao
dịch với 500 đơn vị hàng hóa, và được biết người bán có dành cho người mua một
khoản chiết khấu tính trên số lượng, thì có thể điều chỉnh bằng cách sử dụng
bảng chào giá của người bán và áp dụng mức giá dành cho hợp đồng với số lượng
10 đơn vị hàng hóa.
Việc áp dụng này không đòi hỏi phải bán theo từng lô 10 đơn
vị, miễn là bảng giá này được lập ra một cách trung thực, thông qua việc bán
hàng với số lượng khác, Tuy nhiên, trong trường hợp không có được một phương
pháp khách quan như trên, thì việc xác định trị giá thuế quan theo các quy định
của Điều 3 là không phù hợp.
1. Thuật ngữ "đơn giá mà ........ hàng hóa được bán với
tổng số lượng lớn nhất" có nghĩa là mức giá mà một số lượng đơn vị hàng
hóa lớn nhất được bán cho những người không có liên hệ với người mà họ đã mua
hàng hóa đó tại cấp lưu thông đầu tiên sau khi hàng hóa ấy được nhập khẩu.
2. Thí dụ : hàng hóa được bán theo một bảng giá có đơn giá
dành ưu đãi cho việc mua hàng với khối lượng lớn:
Số lượng bán
|
Đơn giá
|
Số lần bán hàng
|
Số lượng hàng hóa đã bán được
|
1-10 đơn vị
11-25 đơn vị
hơn 25 đơn vị
|
100
95
90
|
10 lần mỗi lần 5 đơn vị
5 lần mỗi lần 3 đơn vị
5 lần mỗi lần 11 đơn vị
1 lần mỗi lần 30 đơn vị
1 lần mỗi lần 50 đơn vị
|
65
55
80
|
Số lượng đơn vị hàng hóa lớn nhất bán được tại một mức giá
là 80, do đó đơn giá mà hàng hóa được bán với tổng số lượng lớn nhất là 90.
3. Một thí dụ nữa là khi hai thương vụ diễn ra cùng lúc. Thương
vụ thứ nhất bán 500 đơn vị hàng hóa với đơn giá 95 đơn vị tiền tệ. Trong thương
vụ thứ hai là 400 đơn vị hàng hóa với đơn giá 90 đơn vị tiền tệ. Trong trường
hợp này, thì số lượng đơn vị hàng hóa lớn nhất được bán tại một mức giá cụ thể
nào đó là 500; do đó, đơn giá mà hàng hóa được bán với tổng số lượng lớn nhất
là 95.
4. Thí dụ thứ ba là trường hợp khi hàng được bán với
những khối lượng khác nhau và với những mức giá khác nhau:
(a) Bán
Số lượng bán
|
Đơn giá
|
40 đơn vị
30 đơn vị
15 đơn vị
50 đơn vị
25 đơn vị
35 đơn vị
5 đơn vị
|
100
90
100
95
105
90
100
|
(b) Tổng số
Tổng số lượng bán ra
|
Đơn giá
|
65
50
60
25
|
90
95
100
105
|
Trong thí dụ trên, số lượng đơn vị hàng hóa lớn nhất được
bán với một đơn giá cụ thể là 65, do đó đơn giá mà hàng hóa được bán với tổng
khối lượng lớn nhất là 90.
5. Bất kỳ việc bán hàng nào tại nước nhập khẩu, như đã miêu
tả trong khoản 1 nói trên, cho một người sẽ cung cấp trực tiếp hoặc gián tiếp
bất kỳ một yếu tố nào quy định trong điểm 1(b) của Điều 8 cho người mua mà
không lấy tiền hoặc với giá thấp, để sử dụng trong sản xuất và bán hàng nhằm
xuất khẩu các hàng hóa nhập khẩu đó, đều không được tính đến khi xây
dựng đơn giá phục vụ các mục đích của Điều 5.
6. Cần chú ý rằng, "các khoản lợi nhuận và các chi
phí chung" nói tại khoản 1 Điều 5 cần được xem xét trong một tổng thể. Số
liệu sử dụng nhằm mục đích khấu trừ cần được xác định trên cơ sở thông tin
người nhập khẩu hoặc người nhân danh người nhập khẩu cung cấp trừ khi số liệu
của người nhập khẩu mâu thuẫn với số liệu có được qua việc bán hàng hóa nhập
khẩu cùng phẩm cấp hoặc chủng loại tại nước nhập khẩu đó. Khi số liệu của người
nhập khẩu mâu thuẫn với những số liệu trên, thì khoản lợi nhuận và các chi phí
chung có thể dựa trên các thông tin liên quan khác ngoài các thông tin do người
nhập khẩu hoặc người nhân danh nhập khẩu cung cấp.
7. “Các chi phí chung” bao gồm các chi phí trực tiếp và gián
tiếp cho hoạt động tiếp thị hàng hóa liên quan.
8. Thuế nội địa, phải thanh toán do việc bán hàng hóa
đó, mà chưa khấu trừ theo quy định tại điểm 1(a)(iv) Điều 5 thì sẽ được phép
khấu trừ theo các quy định tại điểm 1(a)(i) Điều 5.
9. Khi xác định hoặc là tiền hoa hồng hoặc là lợi nhuận
thông thường và các chi phí chung theo quy định tại khoản 1 Điều 5, thì câu hỏi
liệu những hàng hóa nào đó là “cùng phẩm cấp hoặc chủng loại” như các hàng hóa
khác phải được xác định dựa trên cơ sở từng trường hợp, có tham khảo các tình
huống có liên quan.
Việc bán ở nước nhập khẩu trong phạm vi hẹp nhất các nhóm
hoặc loại hàng nhập khẩu cùng phẩm cấp hoặc chủng loại, bao gồm cả hàng hóa
đang được định giá mà từ đó có thể cho các thông tin cần thiết, cần phải được
xem xét. Theo Điều 5, “hàng hóa cùng phẩm cấp và chủng loại” bao gồm hàng hóa
nhập khẩu từ cùng một nước như hàng hóa đang được định giá, cũng như hàng hóa
được nhập khẩu từ các nước khác.
10. Theo điểm 1(b) Điều 5, ngày “sớm nhất” sẽ là
ngày mà hàng hóa nhập khẩu đó hoặc hàng hóa giống hệt hoặc tương tự nhập khẩu
được bán với một số lượng đủ để thiết lập đơn giá cho hàng hóa đó.
11. Khi sử dụng phương pháp trong khoản 2 Điều 5, thì các
khấu trừ cho trị giá gia tăng, do hàng hóa đã được qua chế biến thêm, phải dựa
trên dữ liệu mang tính chất khách quan và có thể lượng hóa được liên quan đến
chi phí của các hoạt động chế biến đó. Các công thức, hướng dẫn, phương pháp
xây dựng, và các thông lệ khác của ngành đã được chấp nhận là cơ sở cho việc
tính toán này.
12. Được thừa nhận rằng phương pháp định giá quy định
tại khoản 2 Điều 5 thường không được áp dụng trong trường hợp sau khi qua chế
biến, hàng hóa nhập khẩu đó đã mất đặc tính riêng. Tuy nhiên, có những trường
hợp mà mặc dù đặc tính riêng của hàng hóa nhập khẩu đã bị mất, nhưng trị giá
gia tăng trong quá trình chế biến vẫn có thể xác định được một cách chính xác
mà không gặp phải khó khăn bất hợp lý nào. Ngược lại, cũng có những trường hợp
mà hàng hóa nhập khẩu vẫn duy trì được đặc tính riêng của nó nhưng lại tạo ra
những yếu tố phụ trong hàng hóa được bán tại nước nhập khẩu tới mức độ mà việc
sử dụng phương pháp định giá thuế quan này là không hợp lý. Trong trường hợp
trên, thì các tình huống loại này phải được xem xét trên cơ sở từng trường hợp
một.
1. Theo quy tắc chung, trị giá thuế quan được xác định theo
Hiệp định này trên cơ sở thông tin sẵn có tại nước nhập khẩu. Tuy nhiên, để xác
định trị giá tính toán, có thể cần phải xem xét chi chí sản xuất hàng hóa đang
được định giá đó và các thông tin khác có thể lấy được từ bên ngoài nước nhập
khẩu. Thêm vào đó, trong phần lớn các trường hợp, người sản xuất hàng hóa đó không
thuộc phạm vi của các cơ có thẩm quyền của nước nhập khẩu. Việc sử dụng phương
pháp trị giá tính toán thường chỉ dành cho các trường hợp khi người bán và
người mua có liên hệ và người sản xuất sẵn sàng cung cấp cho cơ quan có thẩm
quyền của nước nhập khẩu số liệu cần thiết về các chi phí và cung cấp các
phương tiện giúp cho việc thẩm định giá sau này, nếu thấy cần thiết.
2. "Chi phí và trị giá" đề cập tới tại điểm
1(a) Điều 6 sẽ dựa trên cơ sở thông tin liên quan đến việc sản xuất của hàng
hóa đang được định giá, do người sản xuất hoặc đại diện của họ cung cấp. Các
thông tin này dựa trên tài khoản thương mại của người sản xuất, với điều kiện
là các tài khoản đó phù hợp với các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung áp
dụng tại nước mà hàng hóa đó được sản xuất.
3. "Chi phí và trị giá" phải bao gồm các yếu tố đã
được cụ thể hóa tại điểm 1(a)(ii) và (iii) Điều 8. Nó cũng bao gồm các trị giá,
phân bổ một cách phù hợp với các quy định có liên quan đến các giải thích cho
Điều 8, của bất kỳ yếu tố nào được nêu ra trong điểm 1(b) của Điều 8 đã được
trực tiếp hoặc gián tiếp dành cho người mua nhằm vào các mục đích sử dụng liên
quan tới sản xuất hàng hóa nhập khẩu. Trị giá của các yếu tố, đã được chỉ rõ
tại điểm 1(b)(iv) của Điều 8, được tiến hành ở nước nhập khẩu cần phải được
tính vào, nhưng chỉ trong phạm vi các yếu tố do người sản xuất chịu mà thôi. Điều
này được hiểu là không có chi phí hoặc trị giá nào của các yếu tố đã được đề
cập đến trong khoản này sẽ được tính lại lần thứ hai khi xác định trị giá tính
toán.
4. "Lượng lợi nhuận và các chi phí chung" nêu
tại điểm 1(b) Điều 6 sẽ được xác định dựa trên cơ sở thông tin do người sản
xuất hoặc người thay mặt họ cung cấp trừ khi các số liệu của người sản xuất
không nhất quán với các thông tin phản ánh việc bán hàng hóa cùng phẩm cấp,
hoặc chủng loại như hàng hóa đang được định giá, sản xuất tại nước xuất khẩu
nhằm xuất khẩu sang nước nhập khẩu.
5. Cần phải lưu ý rằng trong ngữ cảnh này “lượng lợi
nhuận và chi phí chung” phải được xem xét trong một tổng thể. Theo đó, nếu
trong một trường hợp nào đó, trong khi số lợi nhuận của người sản xuất thấp, mà
chi phí chung của người sản xuất lại cao, thì lợi nhuận và chi phí chung của
nhà sản xuất xem xét trong một tổng thể nhưng lại có thể phù hợp với lợi nhuận
và chi phí thường được phản ánh trong việc bán những hàng hóa cùng phẩm cấp
hoặc chủng loại. Trường hợp trên có thể xảy ra, nếu một sản phẩm được giới
thiệu tại nước nhập khẩu và người sản xuất chấp nhận lợi nhuận thấp hoặc bằng
không để bù lại các chi phí chung cao liên quan đến việc giới thiệu sản phẩm
đó. Khi người sản xuất có thể chứng minh được rằng việc lợi nhuận bán hàng thấp
là do những hoàn cảnh thương mại cụ thể, thì số liệu về lợi nhuận thực sự do
người sản xuất đưa ra cần phải được xem xét, với điều kiện người sản xuất có
các lý lẽ thương mại hợp lý để chứng minh tính đúng đắn của các lập luận đó, và
chính sách giá cả của người sản xuất phản ánh đúng những chính sách giá cả
thông thường trong phân ngành liên quan. Thí dụ, trường hợp có thể xảy ra là
khi người sản xuất bị buộc phải tạm thời hạ giá do nhu cầu giảm không lường
trước được, hoặc khi họ bán hàng hóa đó để bổ sung cho một nhóm hàng hóa đang
được sản xuất tại nước nhập khẩu và chấp nhận lợi nhuận thấp hoặc không có lãi
để duy trì tính cạnh tranh. Khi số liệu của bản thân người sản xuất về lợi
nhuận và các chi phí chung không nhất quán với các số liệu thường thấy khi bán
các loại hàng hóa, có cùng phẩm cấp hoặc chủng loại như hàng hóa đang được định
giá, được chế tạo bởi người sản xuất tại nước xuất khẩu để xuất khẩu sang nước
nhập khẩu, thì việc tính toán lượng lợi nhuận và chi phí chung có thể dựa trên
các thông tin có liên quan không phải là các thông tin do ngành sản xuất hoặc
người khác nhân danh họ cung cấp.
6. Khi các thông tin không phải do người sản xuất hoặc
người khác nhân danh họ cung cấp, được sử dụng nhằm mục đích xác định trị giá
tính toán, thì theo các quy định tại Điều 10, nếu được người nhập khẩu yêu cầu,
cơ quan chức năng của nước nhập khẩu phải thông báo cho người nhập khẩu nguồn
gốc của các thông tin đó, các dữ liệu đã được sử dụng, và phương pháp tính toán
dựa trên các dữ liệu đó.
7. “Các chi phí chung” nói tới tại điểm 1(b) Điều 6 bao gồm
các chi phí trực tiếp và gián tiếp liên quan đến sản xuất và bán hàng xuất
khẩu, không được tính vào theo quy định tại điểm 1(a) Điều 6.
8. Việc liệu một loại hàng hóa cụ thể nào đó có “cùng
phẩm cấp hoặc cùng chủng loại” như loại hàng hóa khác hay không phải được xác
định tuỳ theo từng trường hợp có xem xét tới các tình huống có liên quan. Khi
xác định lợi nhuận thông thường và các chi phí chung theo các quy định của Điều
6, việc hàng hóa được bán để xuất khẩu tới nước nhập khẩu các nhóm hoặc loại
hàng nhập khẩu có diện hẹp nhất có, bao gồm cả hàng hóa đang được định giá, mà
từ đó có thể cho các thông tin cần thiết, cần phải xem xét. Vì các mục đích của
Điều 6, “hàng hóa cùng phẩm cấp và chủng loại’ phải có xuất xứ từ cùng một nước
như hàng hóa đang được định giá.
1. Các trị giá thuế quan được xác định theo các quy định của
Điều 7 cần phải dựa trên, tới hết mức có thể, các trị giá thuế quan đã từng
được xác định trước đây.
2. Phương pháp định giá áp dụng tại Điều 7 sẽ là các
biện pháp được đưa ra từ Điều 1 đến 6, tuy nhiên sự linh hoạt hợp lý khi vận
dụng các phương pháp trên vẫn phải tuân thủ với các mục đích và các quy định
tại Điều 7.
3. Dưới đây là một vài thí dụ về tính linh hoạt hợp lý:
(a) Hàng hóa giống hệt - yêu cầu các hàng hóa giống hệt phải xuất khẩu tại
hoặc vào cùng thời gian như hàng hóa đang được định giá có thể được hiểu một
cách linh hoạt; hàng hóa nhập khẩu giống hệt, sản xuất tại một nước không phải
là nước xuất khẩu của hàng hóa đang được định giá, có thể dùng làm cơ sở cho
việc định giá thuế quan; trị giá thuế quan của hàng hóa nhập khẩu giống hệt đã
được xác định theo các quy định của Điều 5 và 6 cũng có thể được sử dụng.
(b) Hàng hóa tương tự - yêu cầu các hàng hóa tương tự phải xuất khẩu tại hoặc vào
cùng thời gian như hàng hóa đang được định giá có thể được hiểu một cách linh
hoạt; hàng hóa nhập khẩu tương tự, sản xuất tại một nước không phải là nước
xuất khẩu của hàng hóa đang được định giá, có thể dùng làm cơ sở cho việc định
giá thuế quan; trị giá thuế quan của hàng hóa nhập khẩu tương tự đã được xác
định theo các quy định của Điều 5 và 6 cũng có thể được sử dụng.
(c) Phương pháp khấu trừ - yêu cầu hàng hóa phải được bán trong “điều kiện như
hàng nhập khẩu” như quy định tại điểm 1(a) Điều 5 có thể được hiểu một cách
linh hoạt; yêu cầu “90 ngày” cũng có thể được thực thi một cách linh hoạt.
Điểm 1(a)(i)
Thuật ngữ “tiền hoa hồng mua hàng” là khoản tiền mà người
nhập khẩu phải thanh toán cho đại lý của người nhập khẩu đối với dịch vụ đại
diện cho người nhập khẩu ở nước ngoài khi mua hàng hóa đang được định giá đó.
Điểm 1(b)(ii)
1. Có hai nhân tố liên quan đến việc phân bổ các yếu tố nêu
tại điểm 1(b)(ii) Điều 8 vào hàng hóa nhập khẩu - trị giá của bản thân các yếu
tố này và cách thức mà trị giá đó sẽ được phân bổ vào hàng hóa nhập khẩu đó. Việc
tính các yếu tố này vào hàng hóa nhập khẩu phải được thực hiện một cách hợp lý,
phù hợp với từng hoàn cảnh và tuân thủ các nguyên tắc kế toán được chấp nhận
chung.
2. Về trị giá của các yếu tố trên, nếu người nhập khẩu
có được các yếu tố này từ một người bán không có liên hệ với người nhập khẩu
với một chi phí nào đó, thì trị giá của yếu tố trên chính là chi phí đó. Nếu
yếu tố trên là do người nhập khẩu hoặc một người có liên hệ với người nhập khẩu
tạo ra/đem lại, thì trị giá của yếu tố đó chính là chi phí để tạo ra nó. Nếu
yếu tố trên trước kia đã từng được người nhập khẩu sử dụng, cho dù nó được
người nhập khẩu đó tạo ra hay có được, thì chi phí gốc ban đầu để tạo ra hoặc
có được yếu tố đó sẽ phải được điều chỉnh xuống để phản ánh việc sử dụng chi
phí này nhằm đánh giá đúng trị giá của yếu tố đó.
3. Một khi đã xác định được một trị giá cho yếu tố trên, thì
cần phải phân bổ giá trị đó vào hàng hóa nhập khẩu đó. Có tồn tại một số khả
năng. Thí dụ, trị giá trên có thể được đưa vào chuyến hàng đầu tiên, nếu người
nhập khẩu muốn được trả thuế nhập khẩu một lần cho toàn bộ trị giá. Một thí dụ
khác là người nhập khẩu có thể yêu cầu trị giá đó được đưa vào số đơn vị hàng
hóa đã được sản xuất cho tới thời điểm của chuyến hàng đầu tiên đó. Thêm một
thí dụ nữa là: người nhập khẩu có thể yêu cầu đưa trị giá đó vào toàn bộ đợt
sản xuất dự định mà họ đã có hợp đồng hoặc các cam kết chắc chắn cho việc sản
xuất. Việc sử dụng phương pháp phân bổ trên sẽ phụ thuộc vào các tài liệu do
người nhập khẩu cung cấp.
4. Một thí dụ minh hoạ cho vấn đề nêu trên là một người nhập
khẩu cung cấp cho người sản xuất một khuôn đúc để sử dụng trong sản xuất hàng
nhập khẩu đó và ký hợp đồng với nhà sản xuất mua 10.000 chiếc. Khi chuyến hàng
đầu tiên tới nơi, thì người sản xuất đã chế tạo được 4000 chiếc. Người nhập
khẩu có thể yêu cầu cơ quan hải quan phân bổ giá trị của khuôn đó vào 1000
chiếc, 4000 chiếc hoặc 10.000 chiếc.
Điểm 1(b)(iv)
1. Tính bổ sung cho các yếu tố được cụ thể hóa tại điểm
1(b)(iv) Điều 8 cần phải dựa trên các số liệu khách quan và có thể lượng hóa
được. Để giảm gánh nặng cho cả người nhập khẩu lẫn cơ quan hải quan khi xác
định trị giá được bổ sung, các số liệu sẵn có trong hệ thống hồ sơ thương mại
cần được sử dụng trong phạm vi tối đa có thể.
2. Đối với các yếu tố do người bán cung cấp để người mua mua
hoặc thuê, các khoản bổ sung là các chi phí thanh toán cho việc mua hoặc thuê. Không
được tính bổ sung các yếu tố đã có sẵn thuộc dịch vụ công cộng, ngoài các chi
phí để có được các bản sao đó.
3. Việc tính toán các trị giá bổ sung có dễ dàng hay
không phụ thuộc vào cơ cấu và thực tiễn quản lý, cũng như các phương pháp kế
toán của công ty đó.
4. Thí dụ, trường hợp có thể xảy ra là một công ty nhập khẩu
một số sản phẩm từ một số nước khác nhau, giữ các hồ sơ của trung tâm thiết kế
của họ ở bên ngoài nước nhập khẩu để có thể chứng minh một cách chính xác/xác
đáng chi phí có thể qui cho một sản phẩm nào đó. Trong trường hợp như vậy, có
thể điều chỉnh trực tiếp một cách hợp lý theo các quy định tại Điều 8.
5. Trong trường hợp khác, một công ty có thể coi chi
phí cho trung tâm thiết kế đặt ngoài nước nhập khẩu là một phần của chi phí
hành chính chung mà không đưa vào các sản phẩm cụ thể. Trong thí dụ này, có thể
chấp nhận việc điều chỉnh một cách thích hợp đối với hàng nhập khẩu đó theo các
quy định tại Điều 8, bằng việc chia toàn bộ chi phí của trung tâm thiết kế cho
tổng sản lượng của trung tâm thiết kế này sau đó cộng phần chi phí chia trên
từng đơn vị hàng hóa đó vào hàng nhập khẩu.
6. Sự khác nhau trong các tình huống nói trên tất nhiên sẽ
đòi hỏi phải cân nhắc các nhân tố khác nhau để có thể xác định được phương pháp
phân bổ đúng đắn.
7. Trong trường hợp việc sản xuất ra yếu tố đó có
liên quan đến một số nước và trong một khoảng thời gian, thì việc điều chỉnh
cần giới hạn trong trị giá gia tăng thực sự của yếu tố đó bên ngoài nước nhập
khẩu.
Điểm 1(c)
1. Tiền bản quyền và phí sử dụng bằng sáng chế đề cập tới
tại điểm 1(c) Điều 8 có thể bao gồm, ngoài các yếu tố khác, các khoản thanh
toán liên quan đến bằng sáng chế, nhãn hiệu thương mại, và bản quyền. Tuy
nhiên, các khoản phải trả cho quyền được tái sản xuất hàng hóa nhập khẩu đó tại
nước nhập khẩu sẽ không được cộng thêm vào giá đã thực sự thanh toán hoặc phải
thanh toán cho hàng nhập khẩu khi xác định trị giá thuế quan.
2. Các khoản tiền do người mua trả để được quyền phân
phối hay bán lại hàng hóa nhập khẩu sẽ không được cộng thêm vào giá đã thực sự
thanh toán hoặc phải thanh toán cho hàng nhập khẩu đó, nếu các khoản thanh toán
đó không phải là một điều kiện của việc bán hàng để xuất khẩu sang nước nhập
khẩu hàng hóa nhập khẩu đó.
Khoản 3
Khi không tồn tại các dữ liệu khách quan và có thể lượng hóa
được liên quan đến các khoản tính thêm đòi hỏi phải bổ sung theo các quy định
của Điều 8, thì trị giá giao dịch không thể xác định theo các quy định của Điều
1. Thí dụ như tiền bản quyền sẽ trả trên cơ sở giá cả khi việc bán hàng tại
nước nhập khẩu với 1 lít của một sản phẩm nào đó đã được nhập khẩu theo
kilô-gram và được chế thành dung dịch sau khi nhập khẩu. Nếu tiền bản quyền một
phần được dựa trên hàng hóa nhập khẩu và một phần được dựa trên các nhân tố
khác không có liên hệ gì với hàng hóa nhập khẩu đó (thí dụ khi hàng hóa nhập
khẩu được trộn lẫn với các thành phần sản xuất trong nước và không thể phân
tách riêng rẽ được, hoặc khi không thể phân biệt được giữa tiền bản quyền với
các thoả thuận tài chính đặc biệt giữa người bán và người mua), thì việc cố
gắng để đưa một khoản bổ sung vào tiền bản quyền là không thích hợp. Tuy nhiên,
nếu khoản tiền bản quyền này chỉ dựa trên hàng hóa nhập khẩu và có thể lượng
hóa được ngay, thì khoản tiền này có thể được bổ sung vào giá thực tế thanh
toán hoặc phải thanh toán.
Theo Điều 9, “thời điểm nhập khẩu” có thể là thời điểm hàng
hóa nhập cảnh cho mục đích thuế quan.
1. Điều 11 cho phép người nhập khẩu kháng cáo quyết định
định giá của cơ quan hải quan đối với những hàng hóa đang được định giá. Nhà
nhập khẩu ban đầu có thể kháng cáo lên cấp cao hơn trong cơ quan hải quan,
nhưng trong trường hợp cuối cùng sẽ có quyền kháng cáo lên cơ quan tư pháp.
2. “Không phải chịu phạt” có nghĩa là người nhập khẩu sẽ
không phải trả tiền phạt hoặc bị đe doạ phải nộp tiền phạt chỉ vì người nhập
khẩu lựa chọn thực thi quyền kháng cáo. Việc thanh toán các án phí thông thường
và các chi phí luật sư không được coi là tiền phạt.
3. Tuy nhiên, không có quy định nào trong Điều 11 ngăn cản
một Thành viên yêu cầu người nhập khẩu thanh toán một cách đầy đủ thuế quan đã
được xác định trước khi có kháng cáo.
Khoản 4
Theo Điều 15, thuật ngữ “những người” bao gồm cả pháp nhân
khi thích hợp.
Điểm 4(e)
Theo Hiệp định này, một người được coi là kiểm soát người
khác khi người đầu tiên đang ở một vị thế, mà về mặt pháp lý hay điều hành mà
nói, có thể kiềm chế hoặc chỉ đạo cho người thứ hai.
PHỤ LỤC II
ỦY
BAN KỸ THUẬT VỀ ĐỊNH GIÁ THUẾ QUAN
1. Theo Điều 18 của Hiệp định này, Ủy ban kỹ thuật sẽ được
thành lập dưới sự bảo trợ của Hội đồng hợp tác hải quan nhằm đảm bảo, về mặt kỹ
thuật, sự thống nhất trong việc giải thích và áp dụng Hiệp định này.
2. Ủy ban kỹ thuật có những trách nhiệm sau đây:
(a) kiểm tra các vấn đề kỹ thuật cụ thể nảy sinh trong việc
điều hành chế độ định giá thuế quan của các nước Thành viên và dựa trên thực tế
để tư vấn về các giải pháp thích hợp;
(b) khi được yêu cầu nghiên cứu, pháp luật, thủ tục, và
thông lệ trong định giá thuế quan liên quan đến Hiệp định này và chuẩn bị báo
cáo kết quả của các nghiên cứu đó;
(c)chuẩn bị và gửi báo cáo hàng năm về các khía cạnh kỹ
thuật của sự vận hành và thực trạng của việc thực hiện Hiệp định này;
(d)cung cấp các thông tin và tư vấn về các vấn đề liên quan
đến định giá thuế quan hàng nhập khẩu mà một Thành viên nào đó hoặc Ủy ban có
thể yêu cầu. Các thông tin và tư vấn như vậy có thể dưới hình thức ý kiến tư
vấn, bình luận hay giải thích.
(e) tạo điều kiện thuận lợi trong việc hỗ trợ kỹ thuật cho
các nước Thành viên, khi được yêu cầu, để tăng cường sự chấp nhận của quốc tế
đối với Hiệp định này;
(f) xem xét vấn đề đã được ban hội thẩm đề cập theo Điều 19
của Hiệp định này; và
(g) thực hiện các trách nhiệm khác mà Ủy ban có thể
giao phó
Khái quát
3. Ủy ban kỹ thuật sẽ cố gắng hoàn thành công việc cụ thể,
đặc biệt là các vấn đề mà các Thành viên, Ủy ban hoặc ban hội thẩm đề cập tới,
trong một khoảng thời gian ngắn hợp lý. Như đã đề cập tới trong khoản 4 Điều
19, Ban hội thẩm cần phải ấn định một khoảng thời gian cụ thể cho việc hoàn
thành báo cáo của Ủy ban kỹ thuật và Ủy ban kỹ thuật sẽ nộp báo cáo của mình
trong khoảng thời gian đó.
4. Ban Thư ký Hội đồng hợp tác hải quan cần trợ giúp tất cả
các hoạt động của Ủy ban kỹ thuật một cách thích đáng.
Đại diện
5. Mỗi Thành viên đều có quyền cử đại diện của mình
trong Ủy ban kỹ thuật. Mỗi Thành viên có thể đề cử một đại diện và một hoặc
nhiều đại diện dự khuyết để đại diện cho nước mình trong Ủy ban kỹ thuật. Thành
viên có đại diện trong Ủy ban Kỹ thuật sẽ được là một "thành viên của Ủy
ban kỹ thuật" trong phụ lục này. Các đại diện của các thành viên trong Ủy
ban kỹ thuật có thể được các cố vấn trợ giúp. Ban Thư ký WTO có thể tham dự các
cuộc họp trên với tư cách quan sát viên.
6. Các Thành viên của Hội đồng hợp tác hải quan nhưng
không phải là Thành viên của WTO có thể cử một đại diện và một hoặc nhiều đại
diện dự khuyết tham gia các cuộc họp của Ủy ban kỹ thuật. Các đại diện trên có
thể tham dự các cuộc họp của Ủy ban kỹ thuật với tư cách quan sát viên.
7. Trên cơ sở phê duyệt của Chủ tịch Ủy ban kỹ thuật, Tổng
Thư ký CCC (sau đây trong Phụ lục này gọi là "Tổng Thư ký") có thể mời
đại diện các Chính phủ không phải là Thành viên của WTO hoặc của CCC và đại
diện của các tổ chức chính phủ và thương mại quốc tế tham dự các cuộc họp của Ủy
ban kỹ thuật với tư cách quan sát viên.
8. Việc đề cử đại diện, đại diện dự khuyết và các cố vấn
cho các cuộc họp của Ủy ban kỹ thuật sẽ được gửi cho Tổng Thư ký.
Các cuộc họp của Ủy ban kỹ thuật
9. Ủy ban Kỹ thuật sẽ họp khi cần thiết, nhưng ít nhất hai
lần một năm. Ngày của mỗi cuộc họp sẽ do Ủy ban kỹ thuật quyết định tại kỳ họp
trước đó. Ngày họp có thể thay đổi theo yêu cầu của bất kỳ một thành viên của Ủy
ban kỹ thuật với sự đồng ý của đa số các thành viên của Ủy ban kỹ thuật, hoặc,
trong các trường hợp khẩn cấp, theo yêu cầu của Chủ tịch. Cho dù có các quy
định tại tại câu 1 của khoản này, Ủy ban kỹ thuật sẽ họp khi cần thiết để xem
xét các vấn đề do Ban hội thẩm chuyển lên theo các quy định tại Điều 19 của
Hiệp định này.
10. Các cuộc họp của Ủy ban kỹ thuật sẽ được tổ chức tại trụ
sở của CCC trừ khi có quyết định khác.
11. Tổng Thư ký sẽ thông báo cho tất cả các thành viên của Ủy
ban kỹ thuật và những người có liên quan nêu tại khoản 6 và 7, về ngày khai mạc
của mỗi kỳ họp của Ủy ban kỹ thuật trước ít nhất 30 ngày trừ trường hợp khẩn
cấp
Chương trình nghị sự
12. Chương trình nghị sự tạm thời của mỗi kỳ họp sẽ được
Tổng Thư ký soạn thảo và gửi tới các thành viên Ủy ban kỹ thuật và những người
có liên quan nêu tại khoản 6 và 7, ít nhất 30 ngày trước kỳ họp, trừ trường hợp
khẩn cấp. Chương trình nghị sự này sẽ bao gồm tất cả các điểm mà Ủy ban kỹ thuật
đã thông qua để đưa vào Chương trình nghị sự từ kỳ họp trước, tất cả các điểm
mà Chủ tịch đã đưa vào theo sáng kiến của mình, và tất cả các điểm mà Tổng Thư
ký, Ủy ban, hoặc bất kỳ thành viên nào của Ủy ban kỹ thuật đã yêu cầu đưa vào
chương trình nghị sự.
13. Ủy ban kỹ thuật sẽ quyết định chương trình nghị sự
tại phiên khai mạc của mỗi kỳ họp. Trong quá trình họp, chương trình nghị sự có
thể được Ủy ban Kỹ thuật thay đổi tại bất kỳ thời điểm nào.
14. Ủy ban kỹ thuật sẽ bầu Chủ tịch và một hoặc một số Phó
Chủ tịch trong số các đại biểu của các thành viên. Nhiệm kỳ của Chủ tịch và các
Phó Chủ tịch là một năm. Chủ tịch và các Phó Chủ tịch đã hết nhiệm kỳ có thẻ
được tái cử. Cương vị của Chủ tịch và các Phó Chủ tịch sẽ mặc nhiên chấm dứt
khi họ không còn đại diện cho một thành viên của Ủy ban kỹ thuật nữa.
15. Nếu Chủ tịch vắng mặt trong bất kỳ một cuộc họp hoặc một
phần của cuộc họp, thì Phó chủ tịch sẽ làm chủ tọa. Trong trường hợp đó Phó Chủ
tịch có đầy đủ quyền hạn và nghĩa vụ như Chủ tịch.
16. Chủ tịch cuộc họp sẽ tham gia vào cuộc họp của Ủy ban kỹ
thuật với tư cách là Chủ tịch chứ không phải là đại diện của một thành viên Ủy
ban kỹ thuật.
17. Bên cạnh việc thực thi các quyền hạn đã dành cho Chủ
tịch theo các quy tắc này, Chủ tịch sẽ tuyên bố khai mạc và bế mạc mỗi cuộc
họp, hướng dẫn việc thảo luận, cho phép phát biểu và, theo các quy tắc này,
điều khiển quá trình cuộc họp. Chủ tịch cũng có thể nhắc nhở người phát biểu
nếu ý kiến của người đó không phù hợp.
18. Trong quá trình thảo luận về bất kỳ vấn đề nào, một đoàn
đại biểu có thể đưa ra vấn đề thủ tục. Trong trường hợp đó Chủ tịch sẽ phải đưa
ra quyết định ngay lập tức. Nếu có ý kiến trái với quyết định đó thì Chủ tịch
sẽ đưa ra cuộc họp quyết định và quyết định đó sẽ có hiệu lực trừ khi bị phủ
quyết.
19. Tổng Thư ký, hoặc các nhân viên của Ban Thư ký CCC
được Tổng Thư ký chỉ định, sẽ thực hiện các công việc thư ký cuộc họp của Ủy
ban kỹ thuật.
Số đại biểu hợp lệ và biểu quyết
20. Số đại biểu chiếm đa số quá bán các thành viên của Ủy
ban kỹ thuật là số đại biểu hợp lệ để thông qua một quyết định.
21. Mỗi thành viên của Ủy ban kỹ thuật được một phiếu bầu.
Quyết định của Ủy ban kỹ thuật phải được ít nhất đa số hai phần ba số đại biểu
có mặt thông qua. Không phụ thuộc vào kết quả của việc biểu quyết về một vấn đề
cụ thể, Ủy ban kỹ thuật sẽ được tự do báo cáo đầy đủ với Ủy ban và CCC về vấn
đề đó, có nêu các quan điểm khác nhau được đưa ra trong các cuộc thảo luận liên
quan. Bất kể các quy định nêu trên của khoản này, Ủy ban kỹ thuật sẽ quyết định
các vấn đề do ban hội thẩm chuyển lên theo nguyên tắc đồng thuận. Nếu Ủy ban kỹ
thuật không đạt được thống nhất về một vấn đề do ban hội thẩm chuyển lên, Ủy
ban kỹ thuật sẽ có báo cáo nêu chi tiết các khía cạnh của vấn đề và các quan
điểm của các Thành viên.
Ngôn ngữ và biên bản
22. Ngôn ngữ chính thức của Ủy ban kỹ thuật là tiếng
Anh, tiếng Pháp, và tiếng Tây Ban Nha. Các bài diễn văn hoặc phát biểu thể hiện
bằng bất kỳ một ngôn ngữ nào trong số ba ngôn ngữ chính thức kể trên sẽ được
dịch ngay lập tức ra các ngôn ngữ chính thức khác, trừ khi các đoàn đại biểu
đều tán thành không sử dụng phiên dịch. Các bài diễn văn hoặc phát biểu thể
hiện bằng bất kỳ một ngôn ngữ nào khác sẽ được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp,
tiếng Tây Ban Nha, theo cùng một điều kiện, nhưng trong trường hợp đó phái đoàn
hữu quan sẽ phải lo liệu việc dịch sang tiếng Anh, tiếng Pháp, hoặc tiếng Tây
Ban Nha. Chỉ có tiếng Anh, tiếng Pháp, và tiếng Tây ban Nha sẽ được sử dụng
trong các văn bản chính thức của Ủy ban kỹ thuật. Các bản ghi nhớ và thư từ khi
trình lên Ủy ban kỹ thuật để xem xét phải sử dụng một trong số các ngôn ngữ
chính thức đó.
23. Ủy ban kỹ thuật lập báo cáo về tất cả các kỳ họp của
mình, và cả biên bản hoặc tóm tắt các cuộc họp nếu Chủ tịch thấy cần thiết. Chủ
tịch hoặc người được Chủ tịch uỷ nhiệm báo cáo công việc của Ủy ban kỹ thuật
tại mỗi cuộc họp của Ủy ban.
PHỤ LỤC III
1. Việc cho phép các Thành viên
đang phát triển trì hoãn việc áp dụng các quy định của Hiệp định này trong vòng
5 năm, theo khoản 1 Điều 20, trên thực tế vẫn còn có thể chưa đủ đối với một số
nước đang phát triển. Trong trường hợp như vậy, trước khi kết thúc kỳ hạn nêu
tại khoản 1 Điều 20, một nước thành viên đang phát triển có thể yêu cầu gia hạn
một khoảng thời gian nữa. Thường thì các Thành viên sẽ thông cảm khi cân nhắc
một yêu cầu như vậy, trong trường hợp Thành viên đang phát triển đó có thể đưa
ra các lý do hợp lý.
2. Các nước đang phát triển hiện đang định giá hàng hóa trên
cơ sở trị giá tối thiểu đã được chính thức thiết lập có thể muốn giữ quyền bảo
lưu để tiếp tục áp dụng các trị giá đó một cách giới hạn và trong thời gian
chuyển đổi theo thời hạn và điều kiện đã được các nước Thành viên đồng ý chấp
thuận.
3. Các nước đang phát triển mà cho rằng việc đảo thứ tự theo
yêu cầu của người nhập khẩu được cho phép theo Điều 4 của Hiệp định này có thể
làm tăng các khó khăn thực sự cho họ, có thể muốn bảo lưu việc thực hiện Điều 4
theo các quy định và điều kiện sau:
“ Chính phủ của. . . . . . . . bảo lưu quyền quy định rằng
các quy định có liên quan của Điều 4 Hiệp định này chỉ áp dụng khi cơ quan hải
quan đồng ý vơí yêu cầu đảo ngược thứ tự của Điều 5 và Điều 6”.
Nếu nước đang phát triển có bảo lưu
như vậy, thì các Thành viên sẽ đồng ý theo Điều 21 của Hiệp định này.
4. Các nước đang phát triển có
thể bảo lưu đối với khoản 2 và 5 của Hiệp định này theo các quyd dịnh và điều
kiện như sau:
“Chính phủ của. . . . . . . bảo lưu quyền quy định rằng
khoản 2 Điều 5 của Hiệp định này cần phải được áp dụng theo các quy định trong
các chú thích liên quan cho dù người nhập khẩu có yêu cầu hay không”
Nếu nước đang phát triển đưa ra bảo
lưu như vậy, thì các Thành viên sẽ đồng ý theo Điều 21 của Hiệp định này.
5. Một số nước đang phát triển
có thể gặp phải một số khó khăn trong việc thực hiện Điều 1 của Hiệp định này
khi việc nhập khẩu vào nước họ được thực hiện thông qua các đại lý độc quyền,
các nhà phân phối độc quyền và những người được nhượng độc quyền. Nếu những vấn
đề đó xảy ra trên thực tế tại các nước Thành viên là nước đang phát triển, hiện
đang áp dụng Hiệp định này, thì theo yêu cầu của các nước đang phát triển đó,
vấn đề trên cần được nghiên cứu nhằm tìm ra một giải pháp thích hợp.
6. Điều 17 công nhận rằng khi áp dụng Hiệp định này, cơ
quan hải quan có thể cần phải thẩm tra tính trung thực hoặc tính chính xác của
bất kỳ bản báo cáo, giấy tờ, hoặc kê khai đã nộp cho họ nhằm mục đích định giá
thuế quan. Điều 17, do đó công nhận rằng việc thẩm tra có thể được thực hiện,
thí dụ để nhằm xác minh rằng các yếu tố của trị giá được kê khai hoặc được nộp
cho hải quan nhằm xác định trị giá thuế quan là đầy đủ và chính xác. Tùy thuộc
vào luật pháp quốc gia và các thủ tục, các Thành viên có quyền đòi hỏi người
nhập khẩu hợp tác đầy đủ trong các cuộc thẩm tra này.
7. Giá thực sự thanh toán hoặc phải thanh toán là mọi
khoản thanh toán mà người mua thực sự đã trả hoặc sẽ trả theo điều kiện của
việc bán hàng nhập khẩu cho người bán hoặc cho một người thứ ba để thực hiện
một nghĩa vụ của người bán
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO
VĂN BẢN
|