|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Số hiệu:
|
22/2000/CT-TTg
|
|
Loại văn bản:
|
Chỉ thị
|
Nơi ban hành:
|
Thủ tướng Chính phủ
|
|
Người ký:
|
Nguyễn Mạnh Cầm
|
Ngày ban hành:
|
27/10/2000
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Số công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
22/2000/CT-TTg
|
Hà
Nội, ngày 27 tháng 10 năm 2000
|
CHỈ THỊ
VỀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT - NHẬP KHẨU HÀNG HÓA VÀ DỊCH VỤ
THỜI KỲ 2001 - 2010
Trong 10 năm qua, lĩnh vực xuất
- nhập khẩu đã đạt được nhiều thành tựu lớn và thực hiện được mục tiêu đề ra
trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 1991 - 2000. Kim ngạch xuất
khẩu năm 2000 có khả năng tăng gấp trên 5,6 lần so với năm 1990, đạt mức tăng
trưởng bình quân 18,4%/năm, đóng góp tăng trưởng GDP hàng năm, giúp nền kinh tế
vượt qua thời kỳ khủng hoảng vào đầu những năm 90. Xuất khẩu đang là đầu ra
quan trọng cho nhiều ngành kinh tế, góp phần quan trọng vào công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để chuẩn bị cho thời gian tới, vừa
qua tại phiên họp tháng 8 năm 2000, Chính phủ đã thảo luận và góp ý kiến cho Đề
án Chiến lược phát triển xuất - nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ thời kỳ 2001 -
2010 do Bộ Thương mại trình bày. Tiếp đó, Thủ tướng Chính phủ đã họp với các
doanh nghiệp trong cả nước bàn biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu. Chính phủ đánh
giá, mặc dù đạt nhiều thành tích, công tác xuất, nhập khẩu, nhất là xuất khẩu vẫn
còn không ít tồn tại, chủ yếu do: trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn
thấp, sức cạnh tranh của hàng hóa yếu, giá thành sản phẩm cao nhưng chất lượng
lại kém; sản xuất chưa bám sát thị trường, chưa tranh thủ được thị trường để
khơi thông sản xuất, trong khi thị trường là vấn đề sống còn của công tác xuất
khẩu; chính sách, cơ chế xuất, nhập khẩu trong mấy năm gần đây đã được cải thiện
theo chiều hướng tích cực, nhưng chưa thật ổn định; các Bộ, ngành chưa chủ động
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp.
Để hoàn chỉnh và triển khai Chiến
lược phát triển xuất - nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ thời kỳ 2001-2010 và đẩy mạnh
xuất khẩu trong thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, Uỷ
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các doanh nghiệp sản
xuất - kinh doanh xuất, nhập khẩu quán triệt những nội dung cơ bản và xúc tiến
thực hiện những công việc dưới đây:
1. Chiến lược
phát triển xuất - nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ thời kỳ 2001 - 2010, nhất là xuất
khẩu, phải là Chiến lược tăng tốc toàn diện trên nhiều lĩnh vực, phải có những khâu
đột phá với bước đi vững chắc. Mục tiêu hành động của thời kỳ này là tiếp tục
chủ trương dành ưu tiên cao nhất cho xuất khẩu; tạo nguồn hàng có chất lượng,
có giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cao để xuất khẩu; góp phần giải quyết việc
làm cho xã hội, tạo nguồn dự trữ ngoại tệ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước; nhanh chóng rút ngắn khoảng cách phát triển kinh tế giữa nước
ta và các nước trong khu vực.
2. Xuất khẩu
hàng hoá và dịch vụ thời kỳ 2001 - 2010 phải đạt mức tăng trưởng bình quân từ
15%/năm trở lên và phải đáp ứng các yêu cầu sau đây:
a) Cơ cấu xuất khẩu phải được
chuyển dịch mạnh theo hướng gia tăng các sản phẩm chế biến, chế tạo, chú trọng
các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao; bên cạnh đó, phải quan tâm
khai thác các mặt hàng chủ yếu sử dụng nguyên, vật liệu tại chỗ, sử dụng nhiều
lao động mà thị trường trong, cũng như ngoài nước có nhu cầu; đồng thời, phải
khai thác mọi nguồn hàng có khả năng xuất khẩu; phấn đấu cân bằng cán cân thưởng
mại vào những năm 2009-2010 và xuất siêu vào thời kỳ sau năm 2010.
b) Chú trọng nâng cao giá trị
gia công và chất lượng từng sản phẩm xuất khẩu; giảm xuất khẩu hàng chế biến
thô, tăng tỷ trọng hàng chế biến sâu bằng công nghệ mới; giảm gia công, đẩy mạnh
sản xuất hàng xuất khẩu sử dụng nguyên, vật liệu chất lượng cao trong nước với
công nghệ mới; cải thiện hệ thống hạ tầng cơ sở nuôi, trồng, sử dụng các loại
giống cây, con có sản lượng, chất lượng cao và công nghệ chế biến thích hợp đi
đôi với các biện pháp bảo vệ môi trường; phải có quy hoạch vùng nguyên liệu cho
từng nhóm sản phẩm; quy trình quản lý sản xuất phải được tổ chức lại một cách
khoa học và tiết kiệm nhất; từng bước xây dựng tiêu chuẩn chất lượng quốc gia
cho các loại hàng hóa xuất khấu với nhãn hiệu "sản xuất tại Việt
Nam".
c) Sản phẩm xuất khẩu phải đáp ứng
được những yêu cầu đa dạng của thị trường thế giới, đặc biệt là yêu cầu về chất
lượng, mẫu mã hàng hoá. Mỗi loại hàng hóa phải hình thành được các thị trường
chính, chủ lực và tập trung khả năng mở rộng các thị trường này, đồng thời chủ
động mở rộng sang các thị trường khác theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá
quan hệ buôn bán; phải có đối sách cụ thể với từng thị trường và từng bước giảm
dần việc xuất khẩu qua các thị trường trung gian. Định hướng chung là tận dụng
mọi khả năng để duy trì tỷ trọng xuất khẩu hợp lý vào các thị trường đã có ở
Châu Á, đặc biệt là thị trường Nhật, đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu trực tiếp vào
các thị trường có sức mua lớn như Mỹ, Tây Âu, thâm nhập, tăng dần tỷ trọng xuất
khẩu vào các thị trường Đông Âu, Nga, SNG và khu vực châu Mỹ, châu Phi.
Công tác thị trường, xúc tiến
thương mại có ý nghĩa rất quan trọng, phải được triển khai mạnh mẽ nhằm tạo môi
trường quốc tế thuận lợi cho xuất khẩu. Các chương trình xúc tiến thương mại, mở
rộng thị trường cần được cụ thể hóa và gắn với hoạt động đối ngoại, tranh thủ
ngoại giao hỗ trợ việc ký kết các Hiệp định khung, các thoả thuận và các Hợp đồng
dài hạn có giá trị lớn với các quốc gia, các Tổ chức quốc tế, các thị trường lớn
để tạo đầu ra ổn định và từ đó có cơ sở cho đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao
giá trị nội địa hóa, giá trị gia tăng hàng xuất khẩu.
Theo chức năng của mình, các Bộ,
ngành, các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài phải đẩy mạnh hoạt động đối
ngoại, tăng cường hợp tác quốc tế để mở rộng thị trường xuất khẩu. Các Hiệp hội
ngành hàng phải có vai trò tích cực trong việc phối hợp nỗ lực của các doanh
nghiệp và hỗ trợ các doanh nghiệp tăng cường công tác tìm kiếm thị trường,
khách hàng; xây dựng và thỏa thuận các chương trình hành động nhằm bảo vệ, nâng
cao uy tín cũng như quyền lợi chung của Hiệp hội, của mỗi thành viên và của quốc
gia trong cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
3. Nhập khẩu phải
được định hướng chặt chẽ; tăng trưởng bình quân nhập khẩu cả thời kỳ 2001 -
2010 được duy trì ở mức 14%/năm; chú trọng nhập khẩu công nghệ cao để đáp ứng
yêu cầu của các ngành chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản và sản xuất hàng công
nghiệp nhẹ; đồng thời, phải gắn với việc phát triển, sử dụng các công nghệ, giống
cây con và vật liệu mới được sản xuất trong nước.
Hạn chế việc nhập khẩu các sản
phẩm trong nước đã sản xuất được và sản xuất có chất lượng, đạt tiêu chuẩn quốc
gia, quốc tế; tăng cường tiếp cận các thị trường cung ứng công nghệ nguồn và có
khả năng đầu tư hiệu quả như Tây Âu, Mỹ, Nhật Bản.
Các chính sách, cơ chế điều hành
nhập khẩu trong giai đoạn này phải được xem xét phù hợp với tiến trình thực hiện
các cam kết hội nhập quốc tế của Chính phủ ta với các Tổ chức quốc tế, khu vực
và các cam kết đa phương, song phương khác.
4. Hiện nay,
vai trò và khả năng của các ngành dịch vụ xuất khẩu, dịch vụ thu ngoại tệ chưa
được đánh giá đầy đủ; phải coi đây là tiềm năng xuất khẩu cần được đẩy mạnh
trong giai đoạn 2001 - 2010, trong đó chú trọng các lĩnh vực du lịch, xuất khẩu
lao động, bưu chính - viễn thông, dịch vụ tài chính - ngân hàng - bảo hiểm, dịch
vụ vận chuyển hàng hoá đường không, đường biển, dường sắt...; hướng phát triển
của các lĩnh vực này cần được thể hiện thành các chương trình cụ thể, trong đó
cần quan tâm đầu tư để phát triển du lịch và đưa du lịch nhanh chóng trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn.
5. Để thực hiện
mục tiêu và những yêu cầu nêu trên, các Bộ, ngành hữu quan, Uỷ ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần có kế hoạch phối hợp với Bộ Thương mại
và Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiến hành xác định cơ cấu hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu
của từng ngành, từng địa phương theo yêu cầu của thị trường; trên cơ sở đó xây
dựng các chương trình, dự án xuất khẩu có mục tiêu, trong đó xác định cụ thể
năng lực sản xuất, chính sách, mặt hàng với mức tăng trưởng cụ thể và thị trường
xuất khẩu, để trong một thời gian ngắn, tạo được các sản phẩm xuất khẩu có sức
cạnh tranh.
Các chương trình, dự án xuất khẩu
có mục tiêu sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt và đi vào hoạt dộng, được
ưu tiên cấp tín dụng nhà nước và vay vốn ngân hàng để thực hiện, được hưởng các
ưu đãi về chính sách đầu tư nếu sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
chính và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần chủ động có kế hoạch bố trí các nguồn
vốn tín dụng cho các chương trình, dự án sản xuất và xuất khẩu trong thời kỳ
2001 - 2010, không để xây ra tình trạng thiếu nguồn vốn đầu tư cho sản xuất
hàng xuất khẩu.
6. Bên cạnh việc
xây dựng các chương trình xuất khẩu nêu trên, giao Bộ Thương mại chủ trì phối hợp
với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Bộ Khoa học, Công nghệ và
Môi trường, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam rà soát, hoàn thiện các chính sách, cơ
chế và biện pháp cụ thể, đáp ứng yêu cầu tạo nguồn hàng xuất khẩu và đẩy mạnh
xuất khẩu. Các chính sách, cơ chế phải được đề cập toàn diện, về đất đai, về đầu
tư, tài chính, tín dụng... nhằm hồ trợ có hiệu quả cho các chương trình xuất khấu
có mục tiêu nêu trên; chú ý nguyên tắc bảo đảm ưu đãi dành cho các doanh nghiệp
trong nước sản xuất và cung ứng nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu không
kém hơn các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu; cần dành ưu tiên vốn để hình
thành và triển khai hoạt động của Quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu vào năm 2001 để
tiến tới hình thành Ngân hàng xuất nhập khẩu trước năm 2005.
Trước mắt, trong năm 2000 và đầu
năm 2001 phải tập trung xử lý các khó khăn, vướng mắc mà các doanh nghiệp đã
nêu về các lĩnh vực hải quan, dịch vụ, thuế, nhất là thuế giá trị gia tăng.
Để chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, cần nghiên cứu và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật dựa trên các
nguyên tắc về thuế quan, môi trường, an toàn sức khoẻ và vệ sinh dịch tễ, cũng
như các nguyên tắc thỏa thuận buôn bán song phương, hỗ trợ các ngành sản xuất
hàng hóa lớn trong nước, nhất là sản xuất nông nghiệp; có cơ chế chống độc quyền,
chống gian lận thương mại và kiểm soát việc buôn bán ở các khu vực biên giới.
Yêu cầu Bộ Thương mại và các Bộ,
ngành hữu quan trong cuối quý I năm 2001, báo cáo Thủ tướng Chính phủ các
chương trình cụ thể về xuất khẩu và hoàn thiện chính sách nêu trên.
Directive No.22/2000/CT-TTg of October 27, 2000 on the strategy of developing the export and import of commodities andservices in the 2001-2010 period
THE PRIME MINISTER OF GOVERNMENT
-------
|
SOCIALIST REPUBLIC OF VIET NAM
Independence - Freedom - Happiness
----------
|
No.22/2000/CT-TTg
|
Hanoi, October 27, 2000
|
DIRECTIVE ON THE STRATEGY OF DEVELOPING THE EXPORT AND
IMPORT OF COMMODITIES ANDSERVICES IN THE 2001-2010 PERIOD Over the past ten years, export and import
activities have recordedmany big achievements and reached the targets laid down
in the Strategy of Socio-EconomicDevelopment in the 1991-2000 period. Export value in the year 2000 may increase by
more than 5.6 times thatin 1990 averaging 18.4% per year, contributing to the
annual growth of GDP, helping theeconomy to overcome the period of crisis in
the early 90's. Export is being an importantoutlet for many economic branches,
making an important contribution to theindustrialization and modernization of
the country. In preparation for the coming period, at its
recent session in August2000, the Government discussed and made suggestions to
the Draft Strategy of Developingthe Export and Import of Commodities and
Services in the 2001-2010 period presented by theMinistry of Trade. Later, the
Prime Minister held a meeting with enterprises in the wholecountry to discuss
measures to promote export. In the appraisal of the Government, for allits many
achievements, the import and export service, especially export, still show not
afew weaknesses, chiefly because: economic development of our country remains
low, thecompetitiveness of our goods is weak, the cost price of our products is
high while theirquality is low, production has not kept close to market demands
and has not relied on themarket to clear the way for production while market is
the vital question of export; thepolicies and mechanisms of export and import
have been reformed in a positive way inrecent years but are not yet stable; the
ministries and branches have not taken theinitiative in removing difficulties
and obstacles for the enterprises. In order to finalize and carry out the Strategy
of Developing theExport and Import of Commodities and Services in the 2001-2010
period and promote exportin the Coming period, the Prime Minister urges all
ministries, branches, the People'sCommittees of the provinces and centrally-run
cities and enterprises engaged inexport-import production and business to firmly
grasp the basic contents and promote thefollowing works: 1. The Strategy of Developing the Export and
Import of Commodities andServices in the 2001- 2010 period, especially export,
must be a strategy of all-roundacceleration in many fields, and must involve
breakthroughs with firm steps. The objectiveof our actions in this period is to
carry on the policy of giving the highest priority toexport; to create sources
of quality goods with value added and high competitiveness forexport; to help
solve the job problem for society, to create the source of foreignexchange
reserve in order to meet the demands of industrialization and modernization
ofthe country; to shorten rapidly the gap in economic development between our
country andother countries in the region. 2. Export of commodities and services in the
2001-2010 period shallhave to grow by an average of 15% and more yearly and
must meet the followingrequirements: ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. b/ To pay attention to raising the value of
manufacture and quality ofeach export product; to reduce the export of roughly
processed goods, increase the rate ofdeeply processed goods through new
technologies; to reduce contractual manufacture,promote the production of
export using high-quality raw materials and materials in thecountry requiring
new technologies; to improve the infrastructures of breeding andplanting, to
make use of plant varieties and animal breeds of high output and quality
andappropriate processing technologies alone with measures of environmental
protection; toadopt the planning of material areas for each group of products;
the process of managingproduction must be reorganized scientifically and most
economically; to step by step workout the national quality norms for export commodities
under the trademark "Made inVietnam". c/ Export products must meet the diversified
requirements of the worldmarket, especially requirements in quality and
designs. Each kind of goods must secure itsmain and prime markets and
concentrate capabilities to broaden these markets, at the sametime take the
initiative in expanding them to other markets in the direction
ofmultilateralising and diversifying our trade relations. We must adopt
concrete policytowards each market and step by step reduce export through
intermediate markets. Thecommon orientation is to use all possibilities to
maintain a rational export ratio intothe existing markets in Asia, especially
the Japanese market, further step up our directexport to the markets with high
purchasing power like the United States and WesternEurope; to penetrate and
gradually increase our export ratio into the markets in EasternEurope, Russia,
SNG, America and Africa. Marketing and trade promotion are of great
importance and must bedeveloped strongly with a view to creating a favorable
international environment forexport. The programs of trade promotion and market
expansion must be concretized andlinked with external relations activities,
taking advantage of diplomatic activities tosupport the signing of framework
treaties, agreements and long-term contracts of greatvalue with other
countries, international organizations and big markets in order to securea
stable outlet, from which to build a basis for investments to renovate
technologies,raise the value of localization and the value added of exports. Depending on their functions, the ministries,
branches and overseasrepresentative offices of Vietnam must step up their
external relations activities,increase their international cooperation in order
to broaden the export market. Theassociations of business lines must play an
active role in coordinating the efforts of theenterprises and assist them in
intensifying the search for markets and customers; to buildand agree on
programs of action aimed at protecting and raising the reputation as well asthe
common interests of the associations, of each member and of the nation in
thecompetition on the international market. 3. Import must be closely oriented; average
growth of import in the2001-2010 period shall be maintained at 14%/year.
Attention should be paid to the importof high-tech to meet the demands of the
industries processing farm, forestry, aquatic andmarine products and producing
light industry goods. At the same time, this must beassociated with the
development and use of the technologies, plant seeds and animal breedsand
materials newly adopted or produced in the country. To restrict the import of quality products which
have been produced inthe country and which have achieved national or
international standards; to enhance theapproach to the markets supplying source
technologies with great possibilities ofefficacious investment such as Western
Europe, the United States and Japan. The policies and mechanisms of controlling
import in this period mustbe considered carefully so as to make them conform
with the process of carrying out ourGovernment's commitments on international
integration with international and regionalorganizations and other multilateral
and bilateral commitments. 4. At present, the role and potential of the
export service and foreignexchange service have not been adequately appraised.
We must regard this as an exportpotential that needs to be promoted in the
2001-2010 period. Among these services, we mustpay attention to tourism, labor
export, post and telecommunications, financial, bankingand insurance services,
service of goods transportation by air, sea and railway... Theorientation for
development of these domains should be reflected in concrete programs, inwhich
attention should be paid to investing in the development of tourism in order to
turntourism quickly into a spearhead economic branch. 5. To achieve the above-said objectives and
requirements, the relatedministries and branches, the People's Committees of
the provinces and centrally-run citiesshould adopt plans to coordinate with the
Ministry of Trade and the Ministry of Planningand Investment in determining the
structure of export goods and services of each branchand each locality as
required by the market; on this basis, to build target exportprograms and
projects together with the concrete capacity of production, policies
andbusiness lines with concrete growth rates and the export markets, so that
within a shortperiod we can create competitive export products. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. The Ministry of Planning and Investment, the
Ministry of Finance andthe State Bank of Vietnam should take the initiative in
adopting plans to supply creditfunds to the programs and projects of production
and export in the 2001-2010 period andnot let the lack of investments for the
production of export goods occur. 6. Besides drawing up the above export programs,
the Ministry of Tradeis assigned with the task of assuming the main
responsibility and coordinating with theMinistry of Planning and Investment,
the Ministry of Finance, the Ministry of Justice, theMinistry of Science,
Technology and Environment, and the State Bank of Vietnam to reviseand finalize
the concrete policies, mechanisms and measures to meet the demand of
creatingsources of export goods and stepping up export. These policies and
mechanisms must coverall aspects, land, investment, finance, credit... aimed at
effectively assisting the abovetarget export programs, on the principle of
ensuring preference to the domesticenterprises which produce and supply raw
materials for the production of exports on thesame footing with the export
producing enterprises. Priority in capital shall be given tothe establishment
of the Export Support Credit Fund and deployment of its activities in2001 in
order to eventually establish the Import-Export Bank before 2005. In the immediate future, in the year 2000 and
early 2001, attentionmust be focused on handling difficulties and obstacles
mentioned by the enterprises in thedomains of customs, service, taxation and
especially value added tax. With a view to holding the initiative in
international economicintegration, it is necessary to study and issue legal
documents based on the principlesabout customs, environment, health safety and
epidemiological hygiene, as well as theprinciples on bilateral trade agreement,
assistance to the major goods production branchesin the country, especially
agricultural production, with mechanisms against monopoly,against trade fraud
and control of trade in border areas. The Ministry of Trade and the relevant
ministries and branches shallhave to report at the end of the first quarter of
2001 to the Prime Minister on concreteprograms of export and finalize the above
said policies. FOR THE PRIME MINISTER
DEPUTY PRIME MINISTER
Nguyen
Manh Cam
Directive No.22/2000/CT-TTg of October 27, 2000 on the strategy of developing the export and import of commodities andservices in the 2001-2010 period
1.238
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
inf[email protected]
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|