ỦY BAN NHÂN
DÂN
THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 162/BC-UBND
|
Thành phố
Hồ Chí Minh, ngày 02 tháng 7 năm 2015
|
BÁO CÁO
TÌNH
HÌNH THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU THIÊN NIÊN KỶ TRONG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ -
XÃ HỘI CỦA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Căn cứ hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư tại Công văn số 4181/BKHĐT-LĐVX ngày 02 tháng 7 năm 2014 về việc hướng dẫn
báo cáo tình hình thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ trong kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội năm 2015, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh báo
cáo như sau:
I. BỐI CẢNH
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm
kinh tế - văn hóa lớn của cả nước; là hạt nhân của Vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam, một trong ba vùng kinh tế trọng điểm lớn nhất nước, về quy mô, Thành phố
chỉ chiếm 0,6% diện tích cả nước và chiếm 8,9% dân số cả nước (theo số liệu năm
2014) với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Trong năm 2014, Thành phố đã đóng góp
21,6% tổng sản phẩm quốc gia, 26,1% giá trị sản xuất công nghiệp; GDP bình quân
đầu người tăng từ 712 USD/người/năm (năm
1995) lên 3.199 USD/người/năm
(năm 2010), đến cuối năm 2014 là 5.131 USD/người/năm. Cụ thể, trong giai đoạn từ
năm 2000 đến nay, tình hình phát triển kinh tế xã hội của Thành phố như sau:
1. Về phát triển kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế Thành phố
bình quân giai đoạn 2011 - 2013 là 9,6%; gấp 1,7 lần so với cả nước (cả nước
tăng 5,6%/năm)1, cao hơn chỉ tiêu kế hoạch 5 năm đề ra
(tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thành phố gấp 1,5 lần so với cả nước), cao hơn
giai đoạn 2008 - 2010 (gấp 1,69 lần GDP cả nước); góp phần tích cực duy trì mức
tăng trưởng GDP hợp lý của cả nước.
GDP năm 2014 đạt 852.523 tỷ đồng, tăng
9,6% (cùng kỳ tăng 9,3%); trong năm 2014, tốc độ tăng trưởng Thành phố bằng 1,6
lần cả nước (cả nước là 5,98%). Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng,
dịch vụ chiếm tỷ trọng
59,6% trong GDP, công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng 39,4%, nông nghiệp chiếm
tỷ trọng 1%.
2. Về thu nhập, đời sống dân cư
Thành phố là đô thị đông dân nhất cả
nước, là nơi thu hút lượng người ngoài Thành phố đến giao dịch, tìm việc làm
khá đông. Vì
vậy
Thành phố cũng là nơi tiếp nhận, hội tụ đa dạng bản sắc văn hóa (13
tôn giáo và 54 dân tộc)2 đến từ các vùng miền trên cả nước, làm
cho đời sống vật chất, tinh thần của người dân trên địa bàn thêm phong phú, đa
dạng.
Cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống
nhân dân ngày càng được cải thiện. Trong năm 2005, GDP bình quân đầu
người của Thành phố đạt 1.656 USD; đến năm 2010 đạt 3.199 USD, bằng 1,93 lần so với
năm 2005 (1.656 USD), gấp 2,74 lần so với cả nước (1.168 USD/người). Cuối năm
2013, đạt 4.545 USD/người, cao hơn 1,4 lần so với cuối năm 2010 (3.199 USD/người), đến
năm 2014, đạt 5.131 USD, tăng 12,89% (năm 2013 là 4.545 USD). Thu nhập ngày
càng cao tạo điều kiện thay đổi cơ cấu chi tiêu của người dân theo hướng tích cực,
chi cho ăn uống ngày càng tăng và tương ứng là sự gia tăng tỷ phần chi tiêu cho
các hoạt động dịch vụ, văn hóa, giáo dục, y tế, mua sắm, giải trí khác.
3. Về cơ sở
hạ tầng
Việc chỉnh trang và xây dựng đô thị mới
đã đạt những kết quả tích cực, làm cho Thành phố khang trang và trật tự hơn,
các khu đô thị mới đang hình thành đáp ứng được các điều kiện về cơ sở hạ tầng
kỹ thuật tương đối hiện đại, xanh, sạch, đẹp.
Thành phố đã thực hiện nhiều giải pháp
để đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng như hình thành định chế tài chính mới, phát
hành trái phiếu đô
thị, áp dụng phương thức đầu tư đổi đất lấy hạ tầng, đấu giá quyền sử dụng đất,
xã hội hóa một số dịch vụ hạ tầng đô thị để tạo thêm nhiều kênh huy động vốn quan trọng
và thu hút các thành phần kinh tế
tham gia đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, qua đó giúp giảm bớt áp lực cho
ngân sách Thành phố, đồng thời mở ra một hướng đi mới cho lĩnh vực phát triển hạ
tầng.
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
CÁC MỤC TIÊU THIÊN NIÊN KỶ (MDG)
1. Mục tiêu MDG 1:
Xóa bỏ đói nghèo cùng cực
1.1. Kết quả thực hiện từ năm 2000 đến
nay
Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đầu
tiên triển khai “Chương trình xóa đói giảm nghèo” vào đầu năm 1992, sau đó lan
tỏa ra cả nước; tính đến nay, chương trình đã thực hiện hơn 22 năm, được chia
thành 3 giai đoạn (giai đoạn 1: 1992 - 2003; giai đoạn 2: 2004 - 2008, giai đoạn
3: 2009
- 2013 và giai
đoạn 4: 2014 - 2015) và Thành phố đã chủ động điều chỉnh 08 lần về mức chuẩn
nghèo (trong giai đoạn 2 và 3 có xác định mức chuẩn hộ cận nghèo Thành phố) của
hộ dân cho phù hợp với tình hình phát triển về kinh tế - xã hội của Thành phố.
Giai đoạn 1 (1992 - 2003): Toàn Thành
phố có 121.722 hộ nghèo với chuẩn nghèo theo tiêu chí thu nhập bình quân dưới 3
triệu đồng/người/năm ở khu vực nội thành và dưới 2,5 triệu đồng/người/năm ở khu
vực ngoại thành, chiếm tỷ lệ 17% tổng
số hộ dân Thành phố; đến cuối năm 2003 Thành phố chỉ còn 1.655 hộ nghèo, chiếm 0,15% tổng
số hộ dân toàn Thành phố và kết thúc giai đoạn 1;
Giai đoạn 2 (2004 - 2008): Thành phố
có 89.090 hộ với chuẩn nghèo 6 triệu đồng/người/năm, chiếm 7,72% tổng hộ dân, đến cuối
năm 2008, Thành phố kết thúc và tổng kết sớm giai đoạn 2, số hộ nghèo chỉ còn
2.754 hộ chiếm 0,2% tổng hộ dân Thành phố. Theo chuẩn nghèo cả nước thì trong
giai đoạn 2006 - 2010, hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ
2,4 triệu đồng/người/năm trở xuống, còn hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình
quân từ 3,12 triệu đồng/người/năm trở xuống3.
Giai đoạn 3 (2009 - 2013): Thành phố
có 152.328 hộ nghèo theo chuẩn nghèo 12 triệu đồng/người/năm, chiếm 8,4% tổng hộ dân
Thành phố, đến cuối năm 2013, Thành phố kết thúc và tổng kết sớm
giai đoạn 3 trước thời hạn 02 năm, số hộ nghèo còn lại là 10.322 hộ, chiếm tỷ lệ
0,57% so với tổng hộ dân Thành phố. Theo chuẩn nghèo cả nước thì trong giai đoạn
2011 - 2015, hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 4,8 triệu đồng/người/năm
trở xuống, còn hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 6 triệu
đồng/người/năm trở xuống4.
Giai đoạn 4 (2014 - 2015): Thành phố
đã rà soát, điều tra xác định có 83.031 hộ nghèo (có thu nhập 16 triệu đồng/người/năm
trở xuống), chiếm
tỷ lệ 4,23% so với tổng hộ dân Thành phố; hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo Thành
phố (thu nhập trên 16 - 21 triệu đồng/người/năm) là 49.651 hộ, chiếm tỷ lệ 2,53%
so với tổng hộ dân Thành phố. Kết quả giảm nghèo đến cuối năm 2014: số hộ nghèo
Thành phố còn lại 28.381 hộ, tỷ lệ hộ nghèo còn 1,45% tổng hộ dân Thành phố. Số
hộ cận nghèo Thành phố hiện nay còn 56.675 hộ, hộ cận nghèo chiếm tỷ lệ 2,89% tổng
hộ dân Thành phố. Với kết quả đạt được tính đến ngày 31/12/2014, Thành phố hoàn
thành chỉ tiêu giảm hộ nghèo Thành phố giai đoạn 2014 - 2015 trước hạn 01 năm
(tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 3% tổng hộ dân và tỷ lệ hộ cận nghèo còn dưới 3% tổng
hộ dân).
Như vậy, từ khi triển khai thực hiện
Chương trình xóa đói giảm nghèo (nay là Chương trình giảm nghèo, tăng hộ khá),
Thành phố đã đạt vượt mục tiêu giảm nửa tỷ lệ nghèo, không còn hộ nghèo có thu
nhập trong chuẩn nghèo quốc gia giai đoạn 2011 - 2015. Hiện nay, Thành phố đang
triển khai chương trình giảm nghèo bền vững theo phương pháp tiếp cận nghèo đa
chiều giai đoạn 2016 - 2020.
Về phía bản thân người nghèo, nguyên
nhân chủ yếu là do thiếu vốn và thiếu kiến thức, kinh nghiệm làm ăn, cụ thể:
60-70% hộ thiếu vốn hoặc không đủ vốn để sản xuất làm ăn; 10% thiếu kiến thức
kinh nghiệm làm ăn; 08-10% lao động nghèo có việc làm không ổn định và không có
việc làm; 08-10% hộ nghèo thiếu lao động; 10% lao động hộ nghèo mắc phải các tệ
nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc, trộm cắp... Ngoài ra, hộ nghèo thường gặp những
bất trắc, rủi ro trong cuộc sống như ốm đau, bệnh tật, tai nạn...
1.2. Những nguyên nhân đạt được kết quả
Thành phố đã vận dụng và huy động rất
nhiều nguồn lực (ngân sách Thành phố, nguồn vốn của các doanh nghiệp, huy động
nguồn lực xã hội...) để quyết tâm thực hiện Chương trình xóa đói giảm nghèo của
Thành phố, cụ thể như:
- Huy động nguồn vốn cho vay ưu đãi và
tín dụng nhỏ đến nay đạt hơn 2.840,15 tỷ đồng cho 1,2 triệu lượt hộ nghèo vay vốn để tổ
chức sản xuất làm ăn, tạo tích lũy, tăng thu nhập, giảm được nghèo, ổn định cuộc
sống; trong đó, riêng tổng nguồn quỹ xóa đói giảm nghèo (có tính đặc thù riêng
của Thành phố) đã huy động, vận động từ các nguồn được 282,541 tỷ đồng,
đã cho vay 618.952 lượt hộ nghèo với doanh số cho vay 2.233,242 tỷ đồng; đồng
thời mỗi năm Thành phố huy động, vận động nguồn vốn chi không hoàn lại từ 200 -
400 tỷ đồng (vốn ngân sách, vận động các doanh nghiệp và trong dân) để thực hiện
các chính sách hỗ trợ ưu đãi xã hội.
- Hỗ trợ đào tạo nghề bình quân khoảng
10.000 - 12.000 lao động nghèo/năm, giải quyết việc làm cho 15.000 - 20.000 lao
động nghèo/năm, trong đó có 40 - 50 lao động nghèo đưa đi làm việc có thời hạn ở
nước ngoài hàng năm.
- Các chính sách đảm bảo an sinh xã hội
cho người nghèo, hộ nghèo được thực hiện có hiệu quả như: chính sách miễn giảm
học phí và hỗ trợ chi phí học tập cho con em hộ nghèo theo học các trường phổ
thông, bình quân từ 50.000 - 60.000 học sinh/năm; mỗi năm cấp bình quân 275.000
thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, hộ cận nghèo (riêng 2 năm 2009 - 2010 đã cấp
766.764 thẻ bảo hiểm y tế bắt buộc). Từ năm 1998 đến tháng 12/2014 đã hỗ trợ
xây dựng hơn 24.700 căn nhà tình thương; sửa chữa hơn 10.800 căn nhà cho hộ
nghèo. Đầu tư xây dựng 324 công trình, cơ sở hạ tầng cho 20 phường - xã nghèo với
kinh phí 279,194 tỷ đồng, đã góp phần tích cực làm thay đổi diện mạo về kinh tế
- xã hội của các xã, phường nghèo, giảm dần khoảng cách giữa thành thị và nông
thôn, tác động tích cực trên nhiều lĩnh vực trong tiến trình đô thị hóa của
Thành phố.
- Chương trình hỗ trợ chăm lo Tết
Nguyên đán cho hộ nghèo: Từ năm 2009 - 2014 Thành phố đã hỗ trợ 395.316 lượt hộ
nghèo nhận quà Tết Nguyên đán, kinh phí hỗ trợ là 171,386 tỷ đồng từ nguồn ngân
sách Thành phố và ngân sách quận - huyện. Đối với hộ nghèo có thu nhập bình
quân từ trên 8-12 triệu đồng/người/năm và hộ cận nghèo (trên 12-16 triệu đồng/người/năm)
quận - huyện, phường - xã đã vận động hỗ trợ trên 300 ngàn lượt hộ với kinh phí
117 tỷ đồng.
- Thực hiện chính sách trợ cấp cho hộ
nghèo diện đặc biệt khó khăn (thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ),
trong 2 năm 2011
-
2012: Trợ cấp 100.000 đồng/nhân khẩu cho hộ nghèo có thu nhập bình quân từ 8
triệu đồng/người/năm trở xuống thuộc diện khó khăn đặc biệt từ nguồn quỹ vì người
nghèo các cấp của quận - huyện, trợ cấp từ 2.600 đến hơn 5.800 lượt người/năm,
kinh phí 8,335 tỷ đồng;
- Chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề
cho lao động nghèo sử dụng xe 3, 4 bánh tự chế: Từ tháng 9 năm 2007 đến cuối 2009, thông
qua các chính sách hỗ trợ của chính quyền, của cộng đồng và ý thức tự nguyện của
người nghèo đã có 2.527 hộ nghèo sử dụng xe 3, 4 bánh tự chế chuyển đổi
nghề khác để sinh sống, chiếm tỷ lệ 95,25% tổng hộ nghèo có phương tiện.
- Về chương trình hỗ trợ lắp điện thoại
miễn phí cho hộ nghèo: Phối hợp Tổng Công ty viễn thông quân đội Viettel triển
khai lắp điện thoại vô tuyến cố định miễn phí cho 11.424 hộ nghèo.
- Ngoài ra, TP. HCM còn có nhiều
chương trình hỗ trợ cho người nghèo như: chương trình lắp đặt đồng hồ nước miễn
phí; hỗ trợ cho người nghèo từ các quỹ gồm: Quỹ hỗ trợ đào tạo và giải quyết việc
làm cho người có đất bị thu hồi để thực hiện các dự án đầu tư trên địa bàn
Thành phố, Quỹ quốc gia về việc làm...
1.3. Các hạn chế, khó khăn và biện
pháp khắc phục:
1.3.1 Các hạn chế khó khăn
Những thành tựu đạt được trong những
năm qua là rất quan trọng, nhưng cũng mới là bước đầu, bởi công tác giảm nghèo
của Thành phố vẫn còn nhiều thử thách, kết quả mang lại chưa thật sự bền vững,
nguy cơ tái nghèo luôn tiềm ẩn.
Tốc độ gia tăng dân số cơ học tiếp tục
gây áp lực lớn trong việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo của Thành phố. Phần lớn
dân nghèo, người lao động nhập cư đang sinh sống, làm ăn tại Thành phố chưa có
nơi ở và việc làm ổn định, nên chương trình giảm nghèo Thành phố chưa có điều
kiện hỗ trợ chăm lo đầy đủ đối với các đối tượng này.
Công tác tổ chức huy động, vận động
nguồn lực còn nặng về mặt hành chính, hiệu quả vận động còn hạn chế. Chưa thu
hút được nhiều nguồn tài trợ, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế cho công cuộc giảm nghèo
của Thành phố. Các nguồn vốn tín dụng ưu đãi và tín dụng nhỏ phục vụ cho người
nghèo, hộ nghèo trên địa bàn Thành phố chưa thống kê đầy đủ để có thể phân
tích, đánh giá được hiệu quả tác động trực tiếp đối với từng hộ nghèo; chưa có
cơ chế phối hợp các nguồn vốn này để tập trung hỗ trợ các dự án giảm nghèo trọng
điểm, góp phần giảm nghèo nhanh và bền vững.
Hiệu quả dạy nghề, tạo việc làm cho
lao động nghèo chưa cao; công tác tư vấn hướng nghiệp, dạy nghề, chuyển đổi nghề
còn chậm, số lao động nghèo đủ điều kiện đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài
còn hạn chế.
1.3.2 Biện pháp khắc
phục
Tiếp tục tạo điều kiện cho các hộ
nghèo, hộ cận nghèo vay vốn Quỹ xóa đói giảm nghèo để giúp họ sản xuất kinh
doanh, tạo việc làm và nâng cao mức sống của hộ. Tiếp tục huy động, vận động
các nguồn lực đặc biệt là nguồn vốn chi không hoàn lại (vốn ngân sách, vận động
các doanh nghiệp và trong dân) để chi các chính sách hỗ trợ ưu đãi xã hội.
Tiếp tục thực hiện các chính sách miễn
giảm học phí, chi phí học tập cho học sinh - sinh viên; hỗ trợ bảo hiểm y tế
cho hộ nghèo và hộ cận nghèo.
2. Mục tiêu MDG 2: Phổ
cập giáo dục tiểu học
2.1. Kết quả thực hiện
Về phát triển mạng lưới trường, lớp tiểu
học: Đến nay, 24/24 Ủy ban nhân dân quận/huyện đã ban hành Quyết định phê duyệt
quy hoạch chi tiết trường học trên địa bàn với tổng diện tích đất dành
cho giáo dục và đào tạo là 1.904,21 ha
- Năm 2000 Thành phố có 420 trường
với 10.657 lớp học/8.111 phòng học;
- Năm 2005 Thành phố có 438 trường với
10.857 lớp học/9.217 phòng học;
- Năm 2010 Thành phố có 468 trường với
12.197 lớp học/11.266 phòng học;
- Năm 2014 Thành phố có 482 trường với
14.052 lớp học/13.019 phòng học.
Thành phố hiện có 50 trường chuẩn quốc
gia (trong đó có 44 trường đạt chuẩn mức 1 và có 6 trường đạt mức 2). Tất cả
các trường tiểu học đều quan tâm đầu tư, xây thêm nhiều phòng học đảm bảo có đủ
chỗ học cho học sinh; xây thêm nhiều phòng chức năng cùng các trang thiết bị và
phương tiện dạy học hiện đại nhằm phục vụ đạt hiệu quả cho yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học
trong giai đoạn trước mắt.
Tính đến cuối năm 2013, số trẻ phải phổ cập
từ 6 - 14 tuổi đã và đang học tiểu học là 713.804/ 713.804 trẻ (đạt 100%).
Về đội ngũ giáo viên: Kết quả đào tạo
và bồi dưỡng cụ thể qua các giai đoạn như sau:
Năm
|
Tổng số
giáo viên
|
Trình độ
đào tạo chuẩn
|
Tỷ lệ
|
Trình độ
đào tạo trên chuẩn
|
Tỷ lệ
|
2000
|
13.652
|
11.619
|
85,11%
|
2.831
|
20,74%
|
2005
|
14.345
|
13.614
|
94,90%
|
6.397
|
44,59%
|
2010
|
15.145
|
15.022
|
99,19%
|
13.291
|
87,76%
|
2014
|
19.280
|
19.256
|
99.88%
|
18.265
|
94,74%
|
Bên cạnh việc thực hiện nhiệm vụ giáo
dục phổ thông, ngành rất chú trọng xây dựng đội ngũ giáo viên chuyên trách làm
nhiệm vụ phổ cập giáo dục.
Các địa phương luôn thực hiện các biện pháp giáo dục tư tưởng, nhận thức, phát
huy những nhân tố
tích cực, có năng lực và trình độ, động viên giáo viên thể hiện tinh thần trách
nhiệm, đoàn kết tốt với cán bộ
phụ trách công tác giáo dục phường/xã để hoàn thành nhiệm vụ. Hiện nay, một số quận -
huyện có giáo viên chuyên trách công tác tại các trường tiểu học công lập, có
trụ sở riêng để sinh hoạt nghiệp vụ, mỗi phường cử một cán bộ phụ trách hoạt động
giáo dục gắn kết với
ngành.
Về tổ chức duy trì sĩ số học sinh, biện
pháp đảm bảo nâng cao chất lượng phổ cập: Thành phố luôn quan tâm chỉ đạo duy
trì phổ cập giáo dục tiểu học chống mù chữ (gọi tắt là
PCGDTH CMC), phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi (gọi tắt là PCGDTH ĐĐT), giảm
tỷ lệ học sinh bỏ học, nâng cao chất lượng dạy học.
Công tác xã hội hóa giáo dục tại Thành
phố trong thời gian qua là một yếu tố rất quan trọng để tạo điều kiện cho trẻ em được đến
lớp đã góp phần làm giảm thiểu số học sinh bỏ học.
Các năm qua, ngoài việc thực hiện các
yêu cầu phổ cập giáo dục cho dân số trong độ tuổi tại địa phương,
Thành phố còn tập trung chỉ đạo thông qua hoạt động của các Nhà mở, Mái ấm, các
lớp Tình thương... tại các quận/huyện dưới sự hướng dẫn của ngành giáo dục để hỗ
trợ, giúp đỡ các trẻ nhập cư đến từ các tỉnh có điều kiện đến trường bằng nhiều
hình thức như: cấp sách giáo khoa, tập vở, quần áo, học bổng,... Đặc biệt,
ngành giáo dục đã tổ chức các đợt bồi dưỡng năng lực cơ bản về nghiệp vụ sư phạm
cho đội ngũ chuyên trách của các
cơ sở giáo dục trên có điều kiện thực hiện tốt chương trình dạy và học cho trẻ.
Tiếp tục duy trì các loại hình trường
lớp không chính quy (lớp học linh hoạt, lớp học gia đình, lớp học trẻ em đường
phố,...) tại những nơi xa xôi, hẻo lánh tạo mọi cơ hội để trẻ em có hoàn cảnh
khó khăn được đi học. Từng bước đưa học sinh các lớp không chính quy hòa nhập vào các
lớp chính quy như mô hình trường Lương Định Của, Quận 3.
Ngành giáo dục Thành phố đã có chủ
trương và luôn tạo điều kiện cho trẻ học lớp phổ cập sang học chương trình phổ
thông, hỗ trợ cho trẻ về tập vở, sách giáo khoa và các dụng cụ học tập khác,...
Đối với trẻ em có hoàn cảnh khó khăn (phải kiếm sống trên đường phố và xa trường
học...), giáo viên sử dụng sách giáo khoa mới của môn Tiếng Việt, Toán, tự
nhiên xã hội và sách giáo khoa môn Nghệ thuật (phần Âm nhạc) để giảng dạy, theo
sự quản lí và chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo.
Kết quả các tiêu chí từ năm 2000 đến
2014:
- Số lượng các đơn vị cấp phường/xã dạt
chuẩn qua từng giai đoạn:
Năm
|
Xã (phường,
thị trấn)
|
Huyện (quận)
|
Ghi chú
|
Tổng số
|
Đạt chuẩn
|
Tổng số
|
Đạt chuẩn
|
PCGDTHCMC
|
PCGDTHĐĐT
|
PCGDTHCMC
|
PCGDTHĐĐT
|
2000
|
303
|
303
|
282
|
22
|
22
|
18
|
|
2005
|
317
|
317
|
317
|
24
|
24
|
24
|
|
2010
|
322
|
322
|
322
|
24
|
24
|
24
|
|
2015
|
322
|
322
|
322
|
24
|
24
|
24
|
|
- Tiêu chuẩn về học sinh
(HS) theo từng giai đoạn:
Năm
|
Trẻ 6 tuổi
|
Trẻ 11 tuổi
|
Tổng số
|
Số phải phổ
cập
|
Số vào lớp
1
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Số phải phổ cập
|
Số tốt nghiệp
tiểu học
(hoàn
thành chương trình tiểu học)
|
Tỷ lệ %
|
2000
|
65.336
|
65.010
|
64.932
|
99,88
|
71.787
|
71.052
|
61.720
|
86,87
|
2005
|
65.876
|
65.549
|
65.448
|
99,85
|
71.218
|
70.009
|
66.323
|
94,73
|
2010
|
85.315
|
85.162
|
85.142
|
99,98
|
67.077
|
66.887
|
65.344
|
97,69
|
2014
|
90.355
|
90.135
|
90.132
|
99,99
|
74.506
|
74.206
|
72.334
|
97,47
|
- Tiêu chuẩn về giáo viên theo từng
giai đoạn:
Năm
|
CBQL
|
Số giáo viên
|
Trình độ đào tạo
|
Nhân viên
|
Hiệu trưởng
|
Phó hiệu trưởng trưởng
|
Tổng số
|
Biên chế
|
HĐ có bảo hiểm
|
Dân tộc
|
GV/Lớp
|
> ĐH
|
ĐH
|
CĐ
|
Trung học
sư phạm (12+2)
|
Trung học
sư phạm
(9+3)
|
Dưới Trung học sư phạm
|
Trung học
|
Tổng phụ
trách đội
|
Thư viện,
thiết bị dạy
học
|
2000
|
418
|
639
|
13.652
|
12.840
|
812
|
97
|
1,28
|
1
|
1.210
|
1.620
|
8.788
|
906
|
1.127
|
12.864
|
284
|
410
|
2005
|
437
|
703
|
14.345
|
13.536
|
809
|
124
|
1,32
|
2
|
3.180
|
3.215
|
7.217
|
389
|
342
|
13.070
|
275
|
461
|
2010
|
451
|
692
|
15.145
|
14.333
|
812
|
273
|
1,27
|
17
|
7.853
|
5.421
|
1.731
|
78
|
45
|
13.300
|
344
|
507
|
2014
|
2014
|
482
|
761
|
19.280
|
17.249
|
2031
|
283
|
1.37
|
116
|
12.180
|
5.970
|
991
|
0
|
24
|
19.280
|
223
|
- Tiêu chuẩn về cơ sở vật chất theo từng
giai đoạn:
Năm
|
Số trường
|
Số lớp
|
Phòng học
|
Số phòng chức
năng
|
Số sân chơi
|
Số bãi tập
|
Tổng số
|
Trên cấp 4
|
Cấp 4
|
Dưới C4
|
Ban giám hiệu
|
Văn phòng
|
Thư Viện
|
Giáo dục
nghệ
thuật
|
Đội
|
Y tế
|
Thiết bị-đồ dùng dạy
học
|
Tin học
|
Khu vệ sinh
|
Hỗ trợ kỹ thuật
|
Bảo vệ
|
2000
|
420
|
10.657
|
8.111
|
4.288
|
3.130
|
161
|
428
|
422
|
372
|
49
|
172
|
234
|
228
|
37
|
1.333
|
6
|
243
|
420
|
95
|
2005
|
438
|
10.857
|
9.217
|
6.421
|
2.358
|
67
|
478
|
439
|
420
|
96
|
237
|
315
|
286
|
107
|
1.896
|
9
|
274
|
438
|
111
|
2010
|
468
|
12.197
|
11.266
|
8.273
|
2.419
|
101
|
701
|
554
|
458
|
140
|
329
|
450
|
448
|
338
|
3.599
|
84
|
556
|
474
|
154
|
2014
|
482
|
634
|
14.052
|
13.019
|
12.094
|
925
|
0
|
805
|
602
|
510
|
296
|
546
|
613
|
455
|
494
|
3.583
|
35
|
475
|
462
|
2.2. Những nguyên nhân đạt được kết quả
- Hạ tầng cơ sở giữa các phường trong
nội thành và các xã/thị trấn được chú ý cải tạo và nâng cấp khá tốt.
- Trình độ dân trí được nâng cao và
tương đối đồng đều nhau trên phạm vi toàn Thành phố, mọi người dân đều có nhu cầu bức
thiết cho con đến trường.
- Ngành Giáo dục và Đào tạo nói riêng,
Thành phố nói chung luôn năng động và quan tâm đến tầng lớp dân cư còn khó khăn
và thiệt thòi.
- Các cấp ủy Đảng và chính quyền địa
phương luôn quan tâm đến công tác chỉ đạo chống mù chữ - phổ cập giáo dục tiểu học.
- Đội ngũ chuyên trách có chuyên môn,
nhiệt tình và được phân công ổn định trên địa bàn đã thực hiện và hoàn thành tốt
nhiệm vụ.
2.3. Các hạn chế, khó khăn và biện
pháp khắc phục
2.3.1 Các hạn chế, khó khăn
- Sự không ổn định về nơi ở, nơi học,
trình độ và số lượng đối tượng phổ cập do dân số cơ học tăng quá nhanh cùng với
việc quy hoạch lại khu vực dân cư; đồng thời một bộ phận dân cư chưa có đủ
trình độ, điều kiện cuộc sống chưa đảm bảo cho việc học tập của con trẻ đã gây
khó khăn và tốn kém cho công tác điều tra cơ bản.
- Đường giao thông tại các huyện ngoại
thành một số khu vực chưa được nâng cấp, gây khó khăn cho việc đến trường của học
sinh.
- Một số lãnh đạo phường - xã quan tâm
chưa sâu sát đến công tác chống mù chữ - phổ cập giáo dục tiểu học, còn giao
khoán cho ngành giáo dục.
- Ngoài việc thực hiện phổ cập giáo dục
tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục Trung học cơ sở, phổ cập bậc trung học
thì hiện nay phải thực hiện thêm nhiệm vụ giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ,
phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, hoạt động trung tâm học tập cộng đồng, xây dựng
xã hội học tập. Tất cả mọi hoạt động này đều sử dụng kinh phí phổ cập giáo dục và không
được hướng dẫn định mức chi.
2.3.2 Biện pháp khắc
phục
Ủy ban nhân dân các cấp đẩy nhanh tiến
độ thực hiện quy hoạch mạng lưới trường lớp, tạo điều kiện cho trẻ đi học thuận
lợi, để đáp ứng yêu cầu học 2 buổi/ngày nhằm góp phần nâng cao chất lượng, đạt
chuẩn phổ cập giáo dục
tiểu học theo quy định.
Ban chỉ đạo phổ cập các cấp tập trung
chỉ đạo kịp thời trong việc vận động trẻ ngoài nhà trường trở lại lớp vào đầu
năm học và duy trì sĩ số học sinh đến
cuối năm học trước.
Phòng Giáo dục và Đào tạo các quận -
huyện phối hợp với các cơ quan chức năng của quận - huyện xác định các đối tượng
trẻ trong độ tuổi
phổ cập mới nhập cư trong thời điểm chuẩn bị năm học mới để xây dựng kế hoạch
tuyển sinh đầu năm học sát với tình hình thực tế.
Thành phố nghiên cứu ban hành văn bản
chỉ đạo cụ thể về việc thực hiện chế độ chính sách cho đội ngũ cán bộ chuyên
trách ở các quận- huyện, phường - xã, thị trấn để đội ngũ này yên tâm công tác.
Xây dựng hệ thống văn bản pháp quy đầy đủ và phù hợp để chủ trương xã hội hóa giáo dục được
phát huy mạnh mẽ ở cơ sở địa phương.
3. Mục tiêu MDG 3:
Bình đẳng giới
3.1. Kết quả thực hiện
3.1.1 Bình đẳng trong
giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông
Trong hơn 10 năm qua, Thành phố đã tập trung
thực hiện kế hoạch xóa mù chữ cho phụ nữ, triển khai nhiều chương trình khuyến
khích phụ nữ trong độ tuổi dưới 40 tham gia học tập với nhiều hình thức phù hợp
từng đối tượng, tổ chức tuyên truyền rộng rãi về lợi ích giáo dục cho phụ nữ và
trẻ em gái.
Với sự nỗ lực tích cực của ngành giáo
dục Thành phố, sự phối hợp tích cực, đồng bộ của các ban, ngành và đoàn thể các cấp, kết
quả tỷ lệ nữ giới được xóa mù chữ độ tuổi từ 15 tuổi đến 25 tuổi là 99,68%, độ
tuổi từ 25 tuổi đến 35 tuổi là 99,2% và độ tuổi từ 35 tuổi đến 45 tuổi là
98,43%, hoàn thành đạt và vượt chỉ tiêu về xóa mù chữ cho phụ nữ ở độ tuổi dưới
40 tuổi nhưng chỉ đạt 99,30% chỉ tiêu chương trình quốc gia. Nguyên nhân do số
lao động nữ phải kiếm sống thông qua các ngành lao động tự do như buôn bán nhỏ,
phụ bán hàng, phụ hồ, giúp việc nhà... giờ giấc không ổn định, một số khác sức
khỏe kém thường xuyên đau ốm do đó vẫn còn một tỷ lệ nhỏ không thể tổ chức học chữ.
Thành phố thực hiện nhiều biện pháp mở
rộng tiếp cận giáo dục, phấn đấu đến năm 2015 đạt 90% trẻ em trong độ tuổi mẫu
giáo được đến lớp, trong đó có 45,47% là trẻ em gái; 99,35% trẻ 5 tuổi vào mẫu
giáo; 100% trẻ em gái 6 tuổi vào lớp 1; 100% trẻ em gái tốt nghiệp chương trình
tiểu học và 98% được vào lớp 6. Tập trung đầu tư trường, lớp, đội ngũ giáo
viên, phát động toàn dân đưa trẻ đến lớp.
Như vậy, đối với lĩnh vực giáo dục,
Thành phố đã đạt được nhiều thành công trong công tác phổ cập giáo dục, tỷ lệ nữ
trong các cấp học tăng dần đến mức đảm bảo bình đẳng về giới.
3.1.2 Bình đẳng trong
các lĩnh vực khác (quản lý kinh doanh, công tác xã hội, hệ thống chính quyền, sở
hữu đất đai, lực lượng lao động...)
- Trong lĩnh vực chính trị:
Để chủ động chuẩn bị cho đội ngũ cán bộ
kế thừa có trình độ chuyên môn nghiệp vụ chuyên sâu về quản lý nhà nước, quản
lý kinh tế, đồng thời ngày càng chuẩn hóa các chức danh cán bộ nhất là cán bộ
chủ chốt diện Thành ủy quản lý, Thành phố đã thường xuyên tổ chức các lớp bồi
dưỡng kiến thức về chính trị, kỹ năng quản lý, lãnh đạo cho cán bộ chủ chốt từ
cấp sở, ngành, quận - huyện trong đó có cán bộ nữ.
Qua Đại hội Đảng bộ các cấp, tỷ lệ cán
bộ nữ tham gia cấp
ủy đều đạt và vượt chỉ tiêu quy định của Trung ương (cơ cấu nữ tham gia cấp ủy
ít nhất là 15%). Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy Đảng các cấp nhiệm kỳ 2010 -
2015 như sau:
+ Cán bộ nữ tham gia Ban chấp hành Đảng
bộ Thành phố khóa IX có 13/69 người đạt 18,8% (trong đó có 05 nữ là Ủy viên Ban
thường vụ Thành ủy);
+ Cán bộ nữ tham gia Ban chấp hành Đảng
bộ quận, huyện có 253/966 người đạt 26,6% (trong đó có 58 nữ trong Ban thường vụ);
+ Cán bộ nữ tham gia Ban chấp hành Đảng
bộ cấp trên cơ sở có 126/818 người đạt 15,4% (trong đó có 32 nữ trong Ban Thường
vụ);
+ Cán bộ nữ tham gia Ban chấp hành đảng
bộ cấp phường, xã, thị trấn có 1.253/3.785 người, đạt 33,1%.
Bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XI tại
Thành phố Hồ Chí Minh (2000 - 2005) nữ Đại biểu Quốc hội đạt 06/26 người (tỷ lệ
23,07%); nữ Đại biểu Quốc hội khóa XII (nhiệm kỳ 2006 - 2011) là 05/23 người (đạt
tỷ lệ 21,74%), đạt 88,4% so chỉ tiêu chương trình quốc gia và đạt 91,74% so với
chỉ tiêu chương trình hành động của Thành phố; nữ đại biểu Quốc hội khóa XIII
(nhiệm kỳ 2011 - 2016) là 08/30 người, chiếm tỷ lệ 26,7%;
Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp qua các nhiệm kỳ:
+ Nhiệm kỳ 2004 - 2011: Đạt 30,69%
(3.021 nữ/9.842 đại biểu Hội đồng nhân dân), trong đó: cấp Thành phố là 20 nữ/95
đại biểu, chiếm tỷ lệ 21,05%, đạt 91,5% so với chỉ tiêu chiến lược quốc gia; cấp
quận huyện là 262 nữ/925 đại biểu, chiếm tỷ lệ 28,32%, đạt 105,32% so với chỉ
tiêu chiến lược quốc gia; cấp phường xã, thị trấn là 2.379 nữ/8.882 đại biểu,
chiếm tỷ lệ 31,05%, đạt 113,05% so với chỉ tiêu chiến lược quốc gia;
+ Nhiệm kỳ 2011 - 2016: Nữ Đại biểu Hội
đồng nhân dân Thành phố có 21/94 người, chiếm tỷ lệ 22,3%; Nữ Đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp phường xã, thị trấn có 565/1.919 người, chiếm tỷ lệ 29,1%.
Song song đó, để tạo nguồn quy hoạch
cán bộ nữ tham gia cấp ủy Đảng các cấp nhiệm kỳ 2015 - 2020, hiện nay Thành phố
có 1.429 cán bộ trẻ tuổi (791 cán bộ nữ, chiếm tỷ lệ 53,4%) thuộc diện tạo nguồn
quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý trẻ tuổi được bố trí công tác ở sở, ban, ngành
Thành phố, quận - huyện và phường - xã, thị trấn. Thành phố tạo nguồn
quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất thân từ công nhân có 39 nữ/108 người,
chiếm 36,1%.
Công tác phát triển đảng viên mới là nữ
để bổ sung nguồn nhân sự cũng đã góp phần gia tăng số lượng đảng viên trên địa
bàn Thành phố, tính từ năm 2001 đến nay, tổng số đảng viên nữ được kết nạp là
33.753/84.329 người, chiếm tỷ lệ 40%.
- Trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc
làm:
Trong thời gian qua, công tác giải quyết
việc làm luôn được sự quan tâm chỉ đạo xuyên suốt của các cấp lãnh đạo từ Thành
phố đến cơ sở. Từ năm 2001 đến cuối năm 2014, Thành phố đã giải quyết việc
làm cho 3.525.849 lượt người, trong đó nữ 1.794.515 lượt người, chiếm 51%; số
chỗ việc làm mới tạo ra là 1.063.160 chỗ, trong đó nữ 535.804, chiếm 50%; tính đến
năm 2014 kéo giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống còn 4,67%; tổng số lao động đi làm việc
có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng là 20.293 người.
Trong những năm qua, với nhiều biện
pháp chủ động, sáng tạo của các ngành, các cấp, công tác đào tạo nghề và giới thiệu
việc làm của Thành phố đã đạt nhiều kết quả góp phần kéo giảm tỷ lệ thất nghiệp
hàng năm nói chung; đồng thời tỷ lệ này cũng tương đương với tỷ lệ thất nghiệp
của lao động nữ nói riêng, bình quân là 0,2 %/năm. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng
kinh tế - tài chính toàn cầu từ năm 2008 đến nay đã ảnh hưởng nhất định
đến chỉ tiêu kéo giảm tỷ lệ thất nghiệp chung của Thành phố, thời gian này tốc
độ giảm có chậm hơn, đến cuối năm 2010 tỷ lệ thất nghiệp nữ giảm còn
5%, tuy mức giảm có thấp hơn những năm trước nhưng so với chỉ tiêu chiến lược
quốc gia thì Thành phố đã thực hiện đạt và vượt mức quy định.
- Công tác tuyên truyền, tập huấn:
Thành phố tổ chức 211 lớp tập huấn, bồi
dưỡng kỹ năng tuyên truyền về bình đẳng giới và hội nghị triển
khai, hướng dẫn thực hiện các văn bản chỉ đạo của Trung ương và Thành phố liên
quan đến Chương trình quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2015 cho
18.876 người (6.317 nam chiếm 33,4 % và 12.559 nữ chiếm 66.6%) là báo cáo viên
pháp luật, tuyên truyền viên các sở, ban ngành, đoàn thể và quận huyện; phóng
viên, biên tập viên các cơ quan truyền thông và lãnh đạo, cán bộ và thành viên
Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ và Bình đẳng giới các Sở, ban ngành, đoàn thể và quận
huyện.
Biên soạn, in ấn 9.500 cuốn “Sổ tay
công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ phụ nữ”; 10.000 tờ rơi “Chương trình
thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh giai đoạn 2011 - 2020”; 12.000 cuốn tài liệu “Hỏi, đáp về Bình đẳng giới”;
10.000 cuốn tài liệu “Hỏi, đáp về Bình đẳng giới và quyền của phụ nữ
trong pháp luật Việt Nam”; 4.000 tờ rơi “Giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực
chính trị”; 10.000 tờ rơi “Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị và những lợi ích”; 650
tài liệu tập huấn kiến thức, kỹ năng về giới cho cán bộ nữ tham gia vị trí quản
lý, lãnh đạo”; 480 tài liệu tuyên truyền về phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới;
500 cuốn kỹ năng tư vấn “Hôn nhân và Gia đình nhìn từ góc độ bình đẳng giới”;
800 cuốn tài liệu hướng dẫn quy trình lồng ghép giới bền vững trong chương
trình/dự án; Tổ chức hội thi “Sáng tác sản phẩm truyền thông về Bình đẳng giới”
và “Tuyên truyền viên giỏi về Bình đẳng giới” thu hút 88.750 lượt người tham
gia;... Bộ tài liệu này là nguồn tư liệu phục vụ cho các ngành, các cấp, người
dân hiểu các quy định của pháp luật về bình đẳng giới; đồng thời là
nguồn tư liệu giúp cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin, dữ liệu để thực
hiện các chương trình tập huấn, truyền thông về giới, bình đẳng giới và Chương
trình Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới trên địa bàn Thành phố.
Tổ chức Hội thi tìm hiểu chính sách, pháp
luật về bình đẳng giới do Ban Vì sự
tiến bộ phụ nữ và Ban bình đẳng giới Thành phố phát động với chủ đề “Công dân Thành phố Hồ
Chí Minh với bình đẳng giới”; phát động và hưởng ứng Cuộc thi tìm hiểu chính sách,
pháp luật về bình đẳng giới do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức và
Cuộc thi sáng tác tranh cổ động tuyên
truyền về bình đẳng giới năm 2013 do Cục Văn hóa thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch phối hợp Vụ Bình đẳng giới thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
tổ chức. Tổ chức hội thi “Sáng tác sản phẩm truyền thông về Bình đẳng giới” và
“Tuyên truyền viên giỏi về Bình đẳng giới” năm 2014. Kết quả có
108.567 lượt người tham gia dự thi (trong đó có 55.249 nữ, chiếm 51%).
Song song đó, các sở, ban, ngành, đoàn
thể và Ủy ban nhân dân các quận, huyện, phường, xã, thị trấn đã tổ chức tuyên
truyền nhận thức về giới và bình đẳng giới qua panô, áp phích, băng rôn và
thông qua việc triển khai các chương trình, đề án “Giáo dục 5 triệu bà mẹ nuôi
dạy con tốt”; đề án “Tuyên truyền giáo dục phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước”; ngày Gia đình Việt Nam;
chương trình dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con; diễn đàn nét duyên bạn
gái; hội thi hái hoa dân chủ tìm hiểu về Luật bình đẳng giới; khát vọng tuổi trẻ;... với
hơn 10.000 lượt người tham dự.
3.2. Nguyên nhân đạt được những kết quả
Thành phố đã ban hành được hệ thống
văn bản chỉ đạo điều hành về bình đẳng giới, trong đó sớm khắc phục được tình
trạng thiếu thông tin dữ liệu tách biệt giới tính đối với các mục tiêu, chỉ
tiêu Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới bằng biện pháp xây dựng, ban hành hệ thống
“Biểu mẫu báo cáo thống kê Chương trình Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”
đây là điều kiện thuận lợi cho các ngành, các cấp ghi chép thống kê thông tin dữ
liệu tách biệt theo giới tính phục vụ cho công tác tham mưu quản lý nhà nước
về bình đẳng giới trong lĩnh vực của ngành mình. Việc này đã tạo sự chuyển biến
tích cực trong nhận thức và ý thức trách nhiệm của cấp ủy, lãnh đạo các cấp.
Thành phố đặc biệt chú trọng các giải pháp tăng cường công tác truyền thông các
Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước có liên quan đến
phụ nữ.
Công tác tuyên truyền pháp luật về
bình đẳng giới, về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước đã được các ngành, các cấp triển khai thực hiện với nhiều hình thức
phong phú, đa dạng và trong quá trình tuyên truyền đã quan tâm đến từng giới,
các nhóm dân cư. Qua công tác truyền thông, các ngành, các cấp đã nâng cao nhận
thức, thay đổi hành vi về bình đẳng giới, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý
nhà nước về bình đẳng giới và tập
trung triển khai thực hiện nhằm thay đổi căn bản và sâu sắc nhận thức về giới, ý thức
trách nhiệm thực
hiện bình đẳng giới
là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và từng gia đình, tiến
tới bình đẳng thực chất trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tiêu chí về bình đẳng giới, vì sự tiến
bộ phụ nữ phải được gắn liền với quá trình xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội, chủ động lồng ghép vào các chương trình khác như: chương trình phổ cập
giáo dục, chương trình giảm nghèo, tăng hộ khá, chương trình vệ sinh môi trường
nông thôn, chương trình chỉnh trang đô thị, cuộc vận động
xây dựng gia đình văn hóa... Bên cạnh đó, chú trọng xây dựng các cơ chế, chính sách,
huy động các nguồn lực nhằm đảm bảo cho việc lồng ghép được thực thi.
Hình thành và phát triển đội ngũ nhân
sự làm công tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ phụ nữ từ Thành phố đến quận-huyện,
phường-xã, thị trấn tuy còn mới nhưng đang dần ổn định, đi vào nề nếp và hoạt động
ngày càng có hiệu quả.
3.3. Các hạn chế, khó khăn và biện
pháp khắc phục
3.3.1 Các hạn chế, khó khăn
Tình trạng người dân đến nhập cư vào
Thành phố ngày càng tăng, gây sức ép đến tình hình an ninh, trật tự xã hội nói
chung và việc thực hiện các chương trình nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho phụ
nữ và trẻ em gái chưa đạt hiệu quả như mong muốn.
Công tác bình đẳng giới hiện nay là nội
dung tương đối mới, các
văn bản hướng dẫn còn thiếu và nhiều bất cập về các quy định trong pháp luật giữa
các ngành. Vấn đề giới và
công tác truyền thông chưa được chú trọng, trên thực tế các sản phẩm truyền
thông mang tính định kiến giới vẫn
còn tồn tại, nhiều quảng cáo trên báo chí, truyền hình, các phương tiện thông
tin đại chúng còn mang tính phân biệt đối xử giữa nam và nữ, đã tạo ra sự bất
bình đẳng dựa trên yếu tố giới trong việc tiếp cận các nguồn công việc hay nguồn
lợi khác trong xã hội.
Các mô hình làm thí điểm chưa có hướng dẫn cụ thể về chuyên môn của bộ, ngành
Trung ương nên khó khăn cho cơ sở trong quá trình triển khai thực hiện.
Hệ thống cơ sở dữ liệu về bình đẳng giới
và vì sự tiến bộ phụ nữ là yếu tố quan trọng trong việc đánh giá phân tích thực
thi chính sách bình đẳng giới và vì
sự tiến bộ của phụ nữ, nhưng hiện nay
chưa được triển khai thống nhất từ Trung ương xuống cơ sở.
Mặt khác, cán bộ làm công tác bình đẳng
giới và vì sự tiến bộ phụ nữ thường xuyên thay đổi, kiến thức về giới và bình đẳng
giới tuy có chuyển biến nhưng chưa đồng đều ở các địa phương. Trong nhiều trường
hợp, công tác bình đẳng giới chưa được coi là quan trọng như các lĩnh vực
chuyên môn khác tại các sở, ngành và ngay cả trong ngành Lao động - Thương binh
và Xã hội. Tại một số quận - huyện và phường - xã, Thủ trưởng đơn vị chưa quan
tâm đầu tư đúng mức cho công tác bình đẳng giới và hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Về đánh giá chỉ tiêu tỷ lệ học sinh nữ
trong tổng số học sinh bậc tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông so
với chỉ tiêu quốc gia, không đạt chỉ tiêu do mất cân bằng giới tính
khi sinh nên chỉ tiêu kế hoạch đặt ra của quốc gia chưa phù hợp với tình hình
thực tế tại các địa phương nói chung và Thành phố nói riêng.
3.3.2 Biện pháp khắc
phục
Trong quá trình triển khai kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội cần quan tâm thực hiện lồng ghép giới để đảm bảo vấn
đề giới được thể hiện một cách nhất quán từ các chỉ tiêu đến định hướng và giải
pháp của các ngành, các cấp tập trung:
- Rà soát thông tin, dữ liệu sẵn có về
người nhập cư để xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu theo từng nhóm người nhập cư
riêng biệt có tách biệt giới tính nhằm phối hợp liên ngành trong việc quản lý,
hỗ trợ người nhập cư, để thấy nguyên nhân sự khác biệt giới giúp cho việc xây dựng
chính sách liên quan đến người nhập cư thực sự hiệu quả.
- Xây dựng chiến lược ưu tiên về giáo
dục, đào tạo và dạy nghề cho lao động nữ, tạo cơ hội cho lực lượng lao động nữ
phát triển theo khả năng và sở trường nhằm tạo ra tính năng động và sự đa dạng
trong việc lựa chọn các công việc có thu nhập cao.
- Tập trung truyền thông, tuyên truyền,
thông tin về quan
điểm và chính sách về bình đẳng giới đến mọi tầng lớp trong xã hội nhằm nâng
cao nhận thức thành hành động thực tiễn để loại bỏ dần định kiến về giới
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
- Kiến nghị các bộ, ngành Trung ương cần
chỉ đạo các ngành, các cấp thuộc ngành dọc thực hiện lồng ghép giới trong xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật và lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng
chương trình, kế hoạch từ khi dự thảo đến khi ban hành triển khai thực hiện nhằm
có cơ sở dữ liệu về giới phục vụ cho tham mưu các giải pháp thúc đẩy bình đẳng
giới.
4. Mục tiêu MDG 4: Giảm
tử vong trẻ em
4.1. Kết quả đạt được
- Về giảm tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1
tuổi và dưới 5 tuổi
Để đạt được mục tiêu MDG 4, cả nước phải
phấn đấu giảm tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi xuống 19,3/1.000 sơ sinh sống, tỷ
lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi xuống 14/1.000 sơ sinh sống.
Tại Thành phố tỷ lệ tử vong trẻ em dưới
5 tuổi năm 2013 là 4,29/1.000 sơ sinh sống, năm 2014 là 4,9/1.000 sơ sinh sống;
tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi năm 2013 là 4,16/1.000 sơ sinh sống, năm 2014
là 4,7/1.000 sơ sinh sống. Dự kiến
trong năm 2015 không có biến động đáng kể ở số liệu này. Như vậy, có thể đánh giá
Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt Mục tiêu MDG 4 (giảm tử vong trẻ em).
So với mục tiêu giảm 2/3 tỷ suất tử
vong trẻ em dưới 5 tuổi thì từ năm 1990 đến nay, Thành phố đã đạt được chỉ tiêu
này (tỷ lệ hiện nay là 4,9/1.000 sơ sinh sống).
Trong thời gian qua, Thành phố đã kéo
giảm tình trạng suy
dinh dưỡng trẻ em ở mức thấp
nhất cả nước; tình hình tiêm chủng trẻ em đảm bảo đủ các loại vacxin, năm sau
cao hơn năm trước. Thành phố đạt kết quả này là do thực hiện các chương trình
tiêm chủng mở rộng, phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, đạt hiệu quả rất tốt,
vì vậy, tỷ lệ trẻ
suy dinh dưỡng trẻ em về cân nặng theo tuổi của Thành phố luôn thấp nhất nước.
Tỷ lệ tiêm chủng cho trẻ dưới 1 tuổi với
đầy đủ 8 loại vacxin, năm sau cao hơn năm trước với tỷ lệ đạt cao (bình quân là
>95%) đạt chỉ tiêu đề ra hằng năm là trên 90%.
Từ năm 2000 đến nay, tỷ lệ suy dinh dưỡng
trẻ em < 5 tuổi (cân nặng/tuổi) tại Thành phố giảm rõ rệt, từ 14,8 năm 2000
xuống 7,8% năm 2006 và giảm còn 4,1% năm 2013 thấp nhất trong 63 tỉnh thành của
cả nước, góp phần đáng kể vào việc giảm tỷ lệ chung của cả nước (tỷ lệ suy dinh
dưỡng trẻ em của Việt Nam năm 2013 là 15,3%, theo số liệu của Viện Dinh dưỡng),
đến cuối năm 2014, tỷ lệ này là < 5%. Tỷ lệ trẻ dưới 2 tuổi được cân định kỳ
3 tháng lần đạt 97%; tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng dưới 2 tuổi được theo dõi cân đo
bằng biểu đồ tăng trưởng hàng tháng đạt trên 95%.
4.2. Nguyên nhân đạt được những kết quả:
Mạng lưới hoạt động Chương trình chăm
sóc sức khỏe trẻ em và phòng, chống suy dinh dưỡng trẻ em của các quận - huyện
được triển khai với 322 chuyên trách viên dinh dưỡng tại các trạm y tế và 1984
cộng tác viên dinh dưỡng, đảm bảo 01 cộng tác viên/khu phố - ấp. Công tác quản
lý trẻ đã có nhiều cải thiện, các chỉ tiêu về quản lý trẻ, theo dõi tỷ lệ suy
dinh dưỡng luôn đạt kế hoạch đề ra.
Những hoạt động y tế dự phòng,
công cộng như tiêm chủng ngừa bệnh cho trẻ em với chương trình tiêm chủng mở rộng
và tiêm chủng ngoài chương trình, cùng với những đóng góp của hoạt động khám chữa
bệnh liên quan, giúp thực hiện tốt mục tiêu giảm tử vong trẻ em. Bên cạnh
đó, các khoa sơ sinh tại các bệnh viện Nhi Đồng 1, Nhi Đồng 2, Từ Dũ, Hùng
Vương đã thực hiện chăm sóc, cứu chữa với số lượng trẻ sơ sinh bệnh lý rất lớn;
đặc biệt là đã kéo giảm tỷ lệ tử vong trẻ em của Thành phố.
4.3. Các hạn chế, khó khăn và biện
pháp khắc phục
4.3.1 Các hạn chế, khó khăn
Do đa số dân nhập cư chưa hiểu biết
nhiều về việc chăm sóc sức khỏe tại Thành phố và điều kiện kinh tế gia đình khó
khăn nên đã tác động nhiều đến sức khỏe và việc chăm sóc sức khỏe cho các thành
viên trong gia đình, trong đó đối tượng ảnh hưởng rõ rệt nhất là trẻ em.
Mạng lưới cộng tác viên khu phố chưa đồng
đều và thay đổi thường xuyên. Định mức chi cho các hoạt động còn thiếu và rất
thấp, chưa cân xứng với tình hình thực tế. Chính sách, chế độ đãi ngộ chưa thu
hút được nguồn nhân lực cho hệ thống y tế dự phòng, đặc biệt cho công tác dinh
dưỡng.
Chỉ tiêu tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5
tuổi và dưới 1 tuổi/1.000 sơ sinh sống năm 2010 đánh giá không đạt chỉ tiêu kế
hoạch do Bộ Y tế có hướng dẫn cách thu thập số liệu mới nhưng phương pháp thu
thập số liệu này chưa phù hợp với thực tế đã thực hiện tại địa phương.
4.3.2 Định hướng khắc phục
Triển khai công tác cải thiện tình trạng
dinh dưỡng góp phần nâng cao tầm vóc của người dân Thành phố, kéo giảm, duy trì
tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em < 5 tuổi ở mức < 5% vào năm 2015, đồng thời
kiểm soát có hiệu quả tình trạng thừa cân, béo phì.
Tăng cường truyền thông nâng cao kiến
thức chăm sóc sức khỏe trẻ em và thực hành dinh dưỡng hợp lý của người dân
Thành phố.
Nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động
của mạng lưới nhân viên y tế cộng đồng.
5. Mục tiêu MDG 5: Cải
thiện sức khỏe bà mẹ
5.1. Kết quả đạt được
- Về việc giảm tỷ suất chết của mẹ
liên quan đến thai sản từ năm 2000 đến nay:
Để đạt được MDG 5, cả nước phải phấn đấu
giảm tỷ suất chết của người mẹ trong thời kỳ thai sản xuống còn dưới
58,3/100.000 sơ sinh sống vào năm 2015.
Thành phố có tỷ suất tử vong mẹ năm
2013 là 6,00/100.000 sơ sinh sống, năm 2014 là 6,5/100.000 sơ sinh sống. Dự kiến
năm 2015 không có biến động đáng kể ở số liệu này. Như vậy, có thể đánh giá
Thành phố đã đạt Mục tiêu MDG 5.
- Về công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản:
Thành phố đã đầu tư chăm lo chất lượng
và mở rộng mạng lưới cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch
hóa gia đình, dịch vụ chăm lo chất lượng dân số giai đoạn đầu đời, đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng của xã hội. Ngoài hệ thống 55 bệnh viện chuyên khoa sản và cơ sở y tế
công có khoa sản, Thành phố có thêm 16 bệnh viện tư có dịch vụ sản khoa và gần
500 cơ sở hành nghề y dược tư nhân có thực hiện khám chăm sóc sức khỏe sinh sản,
khám phụ khoa, góp phần lớn trong việc cải thiện sức khỏe bà mẹ trẻ em của
Thành phố.
Mạng lưới chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ
em trải rộng và đều khắp toàn Thành phố và hoạt động có hiệu quả qua nhiều năm.
5.2. Nguyên nhân của thành tựu
Hoạt động khám thai được cung cấp đầy
đủ từ tuyến phường- xã đến các cơ sở y tế chuyên khoa sản phụ khoa với chất lượng
chăm sóc thai nghén ngày càng được
quan tâm thông qua các chương trình sàng lọc trước sinh, sơ sinh. Tất cả trạm y tế
tuyến phường-xã đều có dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản.
Chương trình sức khỏe bà mẹ - trẻ em,
phòng, chống suy dinh dưỡng, phòng chống dịch... tại Thành phố luôn được sự quan tâm của
các cấp lãnh đạo trong việc chỉ đạo triển khai các hoạt động. Ban điều
hành Chương trình vận dụng tốt chủ trương xã hội hóa, kêu gọi tài trợ trong các hoạt động
giáo dục sức khỏe, công tác quản lý,... góp phần tăng hiệu quả
hoạt động và giảm chi ngân sách của Nhà nước.
5.3. Các hạn chế, khó khăn và biện
pháp khắc phục
5.3.1 Các hạn chế, khó khăn
Đa số dân nhập cư chưa thay đổi thói
quen hoặc chưa hiểu biết nhiều về điều kiện thuận lợi trong chăm sóc sức khỏe
sinh sản tại Thành phố; điều kiện kinh tế khó khăn tác động nhiều đến sức khỏe
và việc chăm sóc sức khỏe cho các bà mẹ và trẻ em.
5.3.2 Biện pháp khắc
phục
Tăng cường truyền thông giáo dục sức
khỏe có trọng điểm, đặc biệt chú trọng các đối tượng nguy cơ cao như dân nhập
cư, người lao động nghèo... trong công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản, nhằm
tạo chuyển biến tích cực trong việc thay đổi từ nhận thức đến hành động của người
dân ngày càng chủ động trong việc tham gia các chương trình sức khỏe của quốc
gia, Thành phố.
6. Mục tiêu MDG 6:
Phòng chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh dịch khác
6.1. Kết quả đạt được
6.1.1 Phòng chống
HIV/AIDS
Tính từ trường hợp nhiễm HIV đầu tiên
vào tháng 12 năm 1990, đến hết năm 2014, Thành phố đã có 60.547 người nhiễm
HIV, trong đó có 34.244 người đã chuyển qua AIDS, và 10.130 người đã tử vong do
HIV/AIDS. Số trường hợp nhiễm HIV hiện còn sống là 50.417 trường hợp, số bệnh
nhân AIDS còn sống là 24.114 trường hợp. Trong năm 2014, có 1.722 trường hợp
nhiễm mới HIV được phát hiện, 1.080 trường hợp chuyển sang AIDS, 219 trường hợp
tử vong do AIDS. Ước tính năm 2015, Thành phố có 1.672 người nhiễm mới HIV (giảm
3% so với 2014), có 810 người chuyển sang giai đoạn AIDS, và 119 người tử vong
do HIV/AIDS.
Năm 1993, Thành phố là tỉnh/thành đầu
tiên triển khai thí điểm chương trình can thiệp giảm tác hại tại 2 quận. Năm
2005, có 13 quận và đến nay chương trình đã mở rộng hoạt động trên địa bàn
24/24 quận - huyện với 100% phường - xã. Việc đầu tư mở rộng này góp phần làm
giảm tỷ lệ lây nhiễm HIV trên các nhóm nguy cơ cao: trước khi mở rộng, tỷ lệ
nhiễm HIV trên nhóm nghiện chích ma túy tăng nhanh từ 34,1% năm 1994 lên 81,1%
năm 2001; sau khi mở rộng tỷ lệ này giảm dần từ 47,5% năm 2005, còn 16,7% vào năm 2014.
Trên nhóm phụ nữ mại dâm, tỷ lệ này tăng nhanh từ 0,6% năm 1994 lên 23,6% năm
2001 và giảm dần còn 3,7% năm 2014.
Năm 2005, chương trình dự phòng lây
truyền HIV từ mẹ sang con được triển khai đầu tiên trên cả nước, với 24 cơ sở cung cấp dịch
vụ tư vấn xét nghiệm
cho thai phụ, năm 2008 đã tăng lên 56 cơ sở và duy trì đến nay. Tỷ lệ lây truyền
HIV từ mẹ sang con liên tục giảm từ 5,3% năm 2008 còn dưới 3% năm 2014. Ước
tính tỷ lệ này vẫn duy trì ổn định trong năm 2015. Như vậy, so với mục tiêu của
quốc gia (giảm tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con xuống dưới 5%
vào năm 2015), Thành phố đã vượt chỉ tiêu đề ra.
Hàng năm đều có hơn 100.000 thai phụ
được tư vấn xét nghiệm HIV, tỷ lệ thai phụ nhiễm HIV được điều trị ARV tăng từ
53% năm 2005 lên 92% năm 2014, và mỗi năm, gần 100% trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm được
điều trị dự phòng sau sinh.
Chương trình điều trị thuốc kháng
virus HIV (ARV) cũng được triển khai đầu tiên của cả nước vào năm 2005 trên diện
rộng, số phòng khám ngoại trú tăng từ 20 phòng vào năm 2005 lên 33 phòng năm
2014. Số lượng bệnh nhân đang được điều trị ARV cũng tăng từ 333 bệnh nhân năm
2005 lên 24.638 bệnh nhân năm 2014. Với tỷ lệ bệnh nhân còn sống sau 12 tháng
điều trị, chương trình đã đạt hiệu quả cao hơn (86%) so với
yêu cầu của Tổ chức Y tế thế giới (80%). Tính đến tháng 3/2015, số người nhiễm
HIV đủ tiêu chuẩn điều trị thuốc kháng virus HIV (ARV) được điều trị ARV là
24.944 người, đạt tỷ lệ 92,9% (24.944 người được điều trị trong tổng số 26.849
người đủ tiêu chuẩn), vượt chỉ tiêu của quốc gia (70% đến năm 2015).
Với những thành quả đạt được,
Thành phố đã từng bước khống
chế được sự phát triển của đại dịch HIV/AIDS, tiến đến đẩy lùi dịch trong các
nhóm đối tượng nguy cơ cao và nhất là từ năm 2008 đã liên tục hạ thấp số người
nhiễm HIV mới, số bệnh nhân
AIDS mới và số tử vong do AIDS qua việc giảm nhanh số người nhiễm HIV mới hàng
năm, số người chuyển sang giai đoạn AIDS và tử vong do AIDS.
Liên tục trong các năm, từ năm 2000 đến
năm 2007, số trường hợp nhiễm HIV được phát hiện hàng năm không ngừng gia tăng,
và lên đến mức khoảng 10.000 ca nhiễm HIV mới/năm trong các năm 2006 - 2007.
Tuy nhiên, số ca nhiễm HIV mới được phát hiện đã giảm nhanh từ 2008 đến nay.
Năm 2014, số trường hợp
nhiễm mới HIV được phát hiện là 1.722 trường hợp, giảm 3.729 trường hợp so với
năm 2008 (5.451 trường hợp). Năm 2014, số ca nhiễm mới HIV đã giảm 47% so với
năm 2010. Nếu so với chỉ tiêu quốc gia thi vẫn chưa đạt (đến năm 2015, giảm 50%
số ca nhiễm mới HIV). Tuy nhiên theo ước tính, năm 2015, Thành phố sẽ đạt chỉ
tiêu này.
Số bệnh nhân AIDS ghi nhận được cũng
gia tăng dần qua các năm, đặc biệt tăng nhanh trong các năm 2005-2007 từ khi
Thành phố mở rộng chương trình chăm sóc chữa trị toàn diện, miễn phí cho người
nhiễm HIV và bệnh nhân AIDS năm 2005. Từ năm 2008, số bệnh nhân AIDS mới cũng
đã giảm dần: năm 2014 là 1.080 trường hợp, giảm 2.227 trường hợp so với năm
2008 (3.307 trường hợp)
Số tử vong do AIDS cũng liên tục gia
tăng từ năm 1993, tuy nhiên đã bắt đầu giảm nhanh từ năm 2006, cho thấy hiệu quả
rõ rệt của chương trình chăm sóc điều trị. Năm 2014 là 219 trường hợp, giảm 422
trường hợp so với năm 2008.
Số phường - xã không có người nhiễm mới
và không có người tử vong: năm 2008 có 3 phường - xã không có người nhiễm
mới và 97 phường - xã không có người tử vong, năm 2014 có 11 phường - xã không
có người nhiễm mới và đến 150 phường - xã không có người tử vong.
Thành quả phòng, chống AIDS đã góp phần
quan trọng trong sự
phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố, giảm quá tải cho hệ
thống các bệnh viện của Thành phố.
Về tốc độ lây nhiễm HIV và các bệnh
khác: Trong thời gian qua, Thành phố đã khống chế và đẩy lùi được sự phát triển
của đại dịch HIV/AIDS, tốc độ lây nhiễm HIV và các bệnh khác đã được kéo giảm
qua các năm, giảm tỷ lệ mắc và chết do HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh khác gây
ra, cụ thể: số bệnh nhân AIDS mới đã giảm (năm 2014 là 1.722 trường hợp, giảm
1.585 trường hợp so với năm 2008 (3.307 trường hợp)); số bệnh nhân tử vong do
AIDS giảm dần (năm 2014 là 219 trường hợp, giảm 422 trường hợp so với năm
2008).
Về công tác chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân
HIV/AIDS và các bệnh khác: Năm 2000 - 2005, Thành phố đã tập trung thực hiện
chương trình 3 giảm. Bên cạnh các biện pháp truyền thông giáo dục phòng chống
ma túy và các biện pháp triệt phá các đường dây mua bán ma túy, Thành phố đã
xây dựng và đưa vào
hoạt động 20 trung tâm, tập trung hơn 30.000 người nghiện ma túy để điều trị cai
nghiện, chăm sóc sức khỏe, giáo dục dạy nghề và phục hồi nhân cách...Chiến lược
phòng chống AIDS trong thời kỳ này là lồng ghép, phối hợp hoạt động phòng chống
AIDS với phòng chống ma túy, mại dâm; xây dựng các mô hình can thiệp toàn diện
phòng, chống AIDS tại cộng
đồng và trong các trung tâm.
Năm 2005 - 2010, được sự hỗ trợ mạnh mẽ
từ PEPFAR, Thành phố đã tập trung đầu tư cho nhiều hoạt động từ dự phòng đến
chăm sóc điều trị và mang lại những thành quả nhất định, cụ thể:
+ Chương trình điều trị nghiện các chất
dạng thuốc phiện bằng Methadone được triển khai thí điểm đầu tiên tại Thành phố
(cùng với Hải Phòng) vào năm 2008.
+ Chương trình dự phòng lây truyền HIV
từ mẹ sang con và Chương trình điều trị ARV được triển khai đầu tiên trên cả nước
vào năm 2005;
+ Cuối năm 2011, chương trình triển
khai thí điểm việc chuyển bệnh nhân ARV về điều trị tại phường, xã, thị trấn, lồng
ghép vào hoạt động của trạm y tế địa phương5.
6.1.2 Phòng, chống sốt
rét và các bệnh dịch khác
Ngăn chặn sốt rét và các dịch bệnh
khác: Chặn đứng và bắt đầu giảm số trường hợp mắc bệnh sốt rét và các bệnh phổ
biến khác vào năm 2015.
Trong những năm qua, bằng những nỗ lực
của ngành y tế Thành phố nói chung và chương trình phòng chống sốt rét nói riêng đã đạt được
những thành công lớn trong việc giảm tỷ lệ mắc và chết do sốt rét. Nếu như trong
năm 2000 Thành phố có 718 bệnh nhân mắc sốt rét thì đến năm 2013 số bệnh nhân mắc
bệnh sốt rét chỉ còn 68 bệnh nhân và trong năm 2014 số bệnh nhân mắc sốt rét là
57 người. Vì vậy, dự kiến đến năm
2015 số bệnh nhân mắc
sốt rét tại Thành phố duy trì mức thấp. Như vậy, có thể đánh giá Thành phố đã đạt
mục tiêu về ngăn chặn sốt rét.
Tình hình dịch bệnh của Thành phố trong những năm
qua có diễn tiến
chung với tình hình dịch bệnh của cả nước và luôn nằm trong tầm kiểm soát của
ngành y tế. Mặc dù tỷ lệ người dân mắc các bệnh nhiễm gây dịch như: sốt xuất
huyết, sởi, tay chân miệng... còn ở mức cao nhưng trong những năm qua ngành y tế
Thành phố luôn giữ vững thành quả khống chế dịch và không để xảy ra dịch lớn
trên diện rộng.
Ngoài ra, ngành y tế đã tổ chức tốt hoạt
động phòng chống dịch cúm SARS, cúm A H1N1, H5N1, ứng phó kịp thời và triển khai
mô hình bệnh viện dã chiến, khoa cách ly... góp phần rất lớn trong việc ngăn
chặn và kiểm soát tốt dịch bệnh, không gây tử vong cao.
Về công tác khống chế bệnh lao: Việt
Nam hiện vẫn là nước có tỷ lệ bệnh nhân lao cao, đứng thứ 12 trong 22 nước có
tình hình dịch tễ lao cao nhất trên toàn cầu, đồng thời đứng
thứ 14 trong số 27 nước có gánh nặng bệnh lao kháng đa thuốc cao nhất thế giới
(báo cáo WHO 2013).
Tại Thành phố, số bệnh nhân mắc lao phổi
AFB (+) mới thu nhận giai đoạn 2000-2013:
Năm
|
2000
|
2010
|
2011
|
2012
|
2013
|
Dân số
|
5.165.148
|
7.302.964
|
7.460.435
|
7.635.937
|
7.829.984
|
Số bệnh nhân lao (+) mới thu nhận
|
10.286
|
7.411
|
7.456
|
6.691
|
6.829
|
Số bệnh nhân lao (+) mới/100.000 dân
|
199
|
101
|
100
|
88
|
87
|
* Nhận xét: Lao phổi AFB(+) mới thu nhận
điều trị chung toàn TP. HCM có xu hướng giảm 2,3%/năm và dao động từ
199/100.000 dân vào năm 2000 và giảm xuống còn 87/100.000 dân vào năm 2013.
Nhìn chung trong giai đoạn 2010 - 2013, lao phổi AFB(+) mới ở nhóm
tuổi từ 15 - 54 tuổi của toàn TP. HCM có xu hướng giảm khoảng 3,6%/năm. Như vậy,
sự can thiệp của chương trình chống lao đã có hiệu quả, đây là tín hiệu đáng mừng
vì đã kéo giảm tỷ lệ người dân tuổi lao động mắc bệnh. Theo tốc độ giảm hiện
nay, Thành phố có thể khống chế lao vào năm 2015.
6.2. Nguyên nhân của những kết quả
- Về chương trình mục tiêu quốc gia
HIV/AIDS:
Những thành quả trên có được nhờ sự
quyết tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Thành phố; sự chỉ đạo và hỗ trợ của Bộ Y tế, Cục
phòng chống HIV/AIDS, sự nỗ lực, phấn đấu khắc phục khó khăn của Ủy ban phòng
chống AIDS Thành phố, sự tham gia tích cực của các sở, ngành, đoàn thể, các tổ chức
xã hội, đặc biệt là sự tham gia của Ủy ban nhân dân các quận - huyện, phường -
xã, Trung tâm Y tế dự phòng quận - huyện... bên cạnh sự hỗ trợ kỹ thuật và tài
chính rất lớn từ các tổ chức quốc tế, đặc biệt là PEPFAR, CDC, USAID.
Thành phố luôn nhạy bén, kịp thời
trong xác định chiến lược can thiệp, mô hình cụ thể trong từng giai
đoạn và vận động được sự đồng thuận của các cấp, các ngành và của toàn hệ thống
phòng, chống AIDS để đảm bảo hiệu quả trong quá trình hoạt động. Ngay từ khi
xây dựng kế hoạch hành động phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn 2011 - 2015, Thành phố đã xác
định và từng bước lồng ghép, gắn trách nhiệm của ngành y tế vào công tác phòng,
chống HIV/AIDS, trong việc đảm bảo tiếp cận điều trị cho bệnh nhân HIV/AIDS. Đồng
thời cũng thực hiện cam kết của các cấp chính quyền qua sự đầu tư ngân sách
ngày càng nhiều hơn cho hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, trên cơ sở xác định
nhu cầu hoạt động thiết yếu và khả năng đáp ứng của Thành phố. Từ năm 2010 đến
nay, Ủy ban nhân dân Thành phố đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo tổ chức thực
hiện các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, nhất là các biện pháp
can thiệp giảm tác hại, từng bước giảm dần sự kỳ thị và phân biệt đối xử với
người nhiễm HIV/AIDS.
Năm 2014, Ủy ban nhân dân Thành phố đã
phê duyệt đề án “Thực
hiện mở rộng và xã hội
hóa chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại
Thành phố Hồ Chí Minh, giai đoạn 2014 - 2016”.
Với mục tiêu hướng tới kết thúc đại dịch
HIV/AIDS vào năm
2030, Ủy ban nhân dân Thành phố đã phê duyệt đề án thí điểm “Điều trị ARV sớm
cho người nhiễm HIV theo phương thức xã hội hóa”. Đề án này cũng đã được Cục
phòng chống HIV/AIDS đồng ý về chuyên môn, cho phép Thành phố triển khai thí điểm
điều trị ARV sớm.
- Về các chương trình y tế dự phòng,
phòng chống dịch bệnh:
Có phối hợp chặt chẽ với các sở, các
quận - huyện kiểm soát các dịch bệnh. Triển khai dự phòng tích cực, không để xảy
ra đại dịch, đảm bảo dự trữ đủ thuốc và hóa chất, vật tư phòng chống dịch, thiết
lập và duy trì hệ thống cảnh báo sớm, tổ chức xử lý dịch kịp thời, ứng phó với
các trường hợp bệnh tập trung trong nhóm nhỏ, trong cộng đồng, tổ chức khoanh
vùng và xử lý ổ dịch.
Trong điều kiện nguồn nhân lực có hạn,
cơ sở vật chất còn hạn chế so với nhu cầu, các cán bộ y tế dự phòng từ y tế cơ
sở, trạm y tế đến trung tâm y tế dự phòng tuyến quận - huyện và
Thành phố đã nỗ lực làm việc không kể thời gian, nguy hiểm, nắm vững khu vực
quản lý và từng hộ dân để ngăn chặn kịp thời và kiểm soát, giám sát ổ dịch tốt,
góp phần rất lớn trong việc khống chế dịch bệnh.
Nhiều hình thức tổ chức đạt hiệu quả
trong truyền thông, trong tổ chức phun thuốc sát khuẩn tại nơi xảy ra ổ dịch, phòng chống dịch ở từng
hộ gia đình và những nơi có nguy cơ cao đã giúp cho công tác dự phòng có thêm
nhiều kinh nghiệm thực tiễn phong phú và sinh động.
Hoạt động phối hợp giữa các đơn vị y tế
và các đơn vị khác trong bảo vệ môi trường, trong truyền thông giáo dục sức khỏe,
giữa nhân viên y tế và người dân trên địa bàn là những bài học quý giá về công
tác phối hợp, về trách nhiệm của mọi người, của cộng đồng trong phòng chống dịch
bệnh. Hoạt động gắn kết chặt chẽ giữa các đơn vị dự phòng và các
cơ sở điều trị là một nhân tố không thể thiếu trong công tác giám sát, điều tra
dịch tễ. Ngành đã
xây dựng phần mềm báo cáo để kết nối giữa cơ sở điều trị và cơ sở dự phòng để từng
bước quản lý tốt bệnh nhân bị mắc các dịch bệnh.
Ý thức trách nhiệm của các cấp ủy,
chính quyền và vai trò của các đoàn thể địa phương ngày càng được nâng
lên trong hoạt động dự phòng. Từ đó, các kết quả đạt được ngày càng tốt hơn.
Vai trò của người dân trong việc tự bảo
vệ chính mình, bảo vệ gia đình và cộng đồng thể hiện tốt hơn. Người dân thông
qua các hoạt động của địa phương và của mỗi gia đình đã có ý thức trong việc tự
bảo vệ, từ đó, giúp cho hoạt động kiểm soát và giám sát dịch bệnh thuận tiện và
dễ dàng hơn.
6.3. Các hạn chế, khó khăn và biện
pháp khắc phục
6.3.1 Hạn chế khó
khăn
- Về phòng chống HIV/AIDS:
Tuy bị khống chế được nhưng dịch HIV tại
Thành phố vẫn đang ở mức cao trong các nhóm đối tượng (tiêm chích ma túy, mại
dâm, nam có quan hệ tình dục đồng giới); trong đó, nhóm nam có quan hệ tình dục đồng giới (MSM)
đang có xu hướng tăng. Tệ nạn sử dụng ma túy vẫn còn phức tạp, tệ nạn mại dâm
có xu hướng phát triển và biến tướng.
Kinh phí từ các tổ chức quốc tế tài trợ
chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng kinh phí cho hoạt động phòng chống HIV/AIDS của
Thành phố, cũng giảm nhanh từ năm 2010, trong khi nguồn lực từ ngân sách Nhà nước
không bù đắp kịp là thách thức lớn trong bối cảnh phải mở rộng chương trình điều
trị, chương trình Methadone để hướng tới kết thúc đại dịch HIV/AIDS vào năm
2030.
- Về phòng chống sốt rét và các bệnh dịch
khác:
Cơ sở vật chất của các Trung tâm Y tế
dự phòng đặc biệt là tuyến quận - huyện dù đang được cải tạo nâng cấp dần. Tuy nhiên
vẫn còn nhiều nơi chưa đủ điều kiện cho các đơn vị có thể triển khai chương
trình hoạt động phù hợp. Nhân lực của hệ thống y tế dự phòng hiện nay còn thiếu
và chưa tương xứng với nhu cầu và nhiệm vụ của Thành phố giao.
6.3.2 Biện pháp khắc
phục
- Về phòng chống HIV/AIDS:
Thành phố chủ động đưa ra các giải
pháp để duy trì tính bền vững và từng bước tiếp nhận sự chuyển giao các hoạt động
của chương trình PEPFAR, qua đó tăng tốc, hướng đến kết thúc đại dịch HIV/AIDS
vào năm 2030, cụ thể: Xây dựng kế hoạch hành động phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn
2011 - 2015, với phương châm “Chất lượng và bền vững” với những giải
pháp mang tính khả thi cao, đặc biệt chú trọng:
- Về hoạt động dự phòng:
Huy động nguồn lực từ sự tham gia,
đóng góp của các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và người dân, kể cả những người
có hành vi nguy cơ cao, người nhiễm HIV và gia đình của họ; tăng cường hoạt động
can thiệp giảm tác hại cho các nhóm đối tượng nguy cơ cao bằng nhiều phương thức
khác nhau phù hợp với từng nhóm đối tượng, cụ thể qua các kế hoạch:
+ Xây dựng mạng lưới liên kết một cách
hệ thống nhằm phòng ngừa lây nhiễm HIV với viêm gan B (HBV), viêm gan C (HCV),
các bệnh lây
truyền qua đường tình dục (STIs) trên nhóm đối tượng nguy cơ cao.
+ Nâng cao ý thức sử dụng bao cao su,
chất bôi trơn, bơm kim tiêm và tự chi trả của nhóm nguy cơ cao. Vận động kênh
thương mại thông qua chương trình tiếp thị xã hội bao cao su, bơm kim tiêm đảm
bảo tính sẵn có và tính dễ tiếp cận của bao cao su, chất bôi trơn, bơm kim tiêm
cho nhóm nguy cơ cao.
+ Triển khai các mô hình với chi phí
thấp, hiệu quả cao như: mô hình tiếp cận online, tiếp cận thông qua 1 “thủ
lĩnh” của 1 nhóm, tiếp cận đối tượng “ẩn” chưa từng sử dụng dịch vụ theo cách
phân nhánh, tiếp cận thông qua mạng lưới xã hội, mô hình “dùng người hưởng lợi
- đang sử dụng Methadone”, các tổ chức tôn giáo, thiện nguyện,... tiếp cận đối
tượng nguy cơ cao để hướng dẫn đến sử dụng dịch vụ tham vấn xét nghiệm
HIV, chăm sóc điều trị HIV/AIDS, điều trị nghiện thay thế bằng Methadone...
+ Triển khai đề án “Thực hiện mở rộng
và xã hội hóa chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc
Methadone tại Thành phố Hồ Chí Minh, giai đoạn 2014 - 2016” và xã hội hóa
chương trình điều trị
nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại Thành phố, giai đoạn
2014 - 2015”, với mục tiêu cung cấp dịch vụ cho 8.000 bệnh nhân trong bối cảnh
nguồn lực đầu tư hạn chế. Việc mở rộng
các cơ sở điều trị Methadone sẽ triển khai tại các quận, huyện hiện chưa có cơ
sở điều trị Methadone, tận dụng cơ sở vật chất hiện có của ngành y tế ở các địa
phương và thực hiện thí điểm mở các điểm phát thuốc Methadone tại Trạm y tế các phường thuộc các
quận hiện đã có cơ sở điều trị Methadone để tăng cường công tác quản lý của địa phương đối
với bệnh nhân. Đồng thời có sự đóng góp của người hưởng dịch vụ qua việc đóng
phí theo lộ trình để đảm bảo tính bền vững của chương trình.
+ Triển khai thí điểm điều trị
Suboxone tại quận Gò vấp. Việc đưa Suboxone vào điều trị nhằm đem lại sự lựa chọn
khác (bên cạnh Methadone)
cho người sử dụng ma túy, đặc biệt với những người đang điều trị ARV và lao.
- Về chăm sóc điều trị:
Kết nối và lồng ghép chương trình
phòng, chống AIDS với các chương trình sức khỏe của mạng lưới y tế để triển
khai các hoạt động liên quan như tham vấn xét nghiệm tự nguyện, phòng lây truyền
mẹ con, điều trị ARV, chăm sóc điều trị. Cụ thể qua các kế hoạch:
+ Mở rộng hoạt động tư vấn xét nghiệm
HIV trong hệ thống y tế công và tư. Triển khai các mô hình tham vấn xét nghiệm
HIV cho nhiều nhóm đối tượng khác nhau: mô hình hoạt động miễn phí dành cho đối
tượng nguy cơ cao; mô hình thu phí dành cho các bệnh nhân tại các cơ sở y tế
trong và ngoài công lập đủ điều kiện hoạt động; mô hình có thu phí dành cho đối
tượng là người dân có ít nguy cơ trong cộng đồng như: sinh viên, học sinh, người
chuẩn bị kết hôn,....
+ Triển khai điều trị dự phòng lây
truyền HIV từ mẹ sang con sớm (bằng phác đồ 3 thuốc AZT/3TC/EFV) cho phụ nữ
mang thai nhiễm HIV bất kể giai đoạn lâm sàng và CD4 nhằm làm giảm tỷ lệ lây
nhiễm HIV từ mẹ sang con, hướng tới không còn trẻ nhiễm mới HIV sinh ra từ mẹ
nhiễm HIV.
+ Đưa bệnh nhân điều trị ARV từ quận -
huyện về tuyến phường - xã nhằm giảm tải việc điều trị ARV cho các phòng khám
tuyến trên, mặt khác bình thường hóa, giảm kỳ thị phân biệt đối xử với người
nhiễm HIV.
+ Triển khai Đề án thí điểm “Điều trị
ARV sớm cho người nhiễm HIV theo phương thức xã hội hóa”. Đề án này dành cho
người nhiễm HIV có CD4 >350 tế bào/mm3 tự nguyện tham gia điều trị
ARV sớm theo phương thức tự chi trả một phần chi phí điều trị.
+ Đẩy mạnh việc bệnh nhân sử dụng bảo
hiểm y tế trong chi trả các dịch vụ chăm sóc điều trị HIV/AIDS đã có trong quy
định thay cho nguồn tài trợ bị cắt giảm, đồng thời chuẩn bị cho việc sử dụng bảo hiểm y tế trong
điều trị ARV. Đồng thời tiếp
tục tăng số lượng bệnh nhân được điều trị ARV miễn phí theo quy định của Bộ Y tế
để đảm bảo dự phòng lây nhiễm cho cộng đồng.
- Về phòng chống
sốt rét và các bệnh dịch khác:
+ Thực hiện tốt các Chương trình mục
tiêu quốc gia. Đẩy mạnh truyền thông giáo dục sức khỏe cộng đồng. Chú trọng phối
hợp với báo, đài, sở ngành, quận - huyện để thực hiện tốt hoạt động truyền
thông trong lĩnh vực dự phòng.
+ Phối hợp tốt với chính quyền các
cấp, các ngành, đoàn thể quần chúng tại địa phương, thực hiện tốt việc đôn đốc,
theo dõi, kiểm tra công tác quản lý môi trường y tế, sức khỏe môi trường, triển
khai có hiệu quả Phong trào vệ sinh yêu nước nâng cao sức khỏe nhân dân; giám
sát môi trường y tế, môi trường lao động. Tăng cường trách nhiệm của chính quyền
các cấp trong hoạt động y tế dự phòng.
+ Tổ chức dự phòng toàn diện những dịch
bệnh nguy hiểm. Chủ động trong hoạt động phòng chống các dịch bệnh: tay chân miệng,
sốt xuất huyết, cúm A H5N1....
+ Tiếp tục có kế hoạch hỗ trợ chuyển
giao kỹ thuật, trang thiết bị cho tuyến y tế cơ sở và các tỉnh nhằm hỗ trợ tốt
cho việc ngăn chặn dịch bệnh từ xa. Tăng cường đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật
chất, nâng cao năng lực cho hệ thống y tế dự phòng.
7. Mục tiêu MDG 7: Đảm
bảo bền vững về môi trường
7.1. Kết quả đạt được trong lĩnh vực
môi trường
7.1.1 Các chương
trình, dự án bảo vệ môi trường trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố
Thông qua việc triển khai thực hiện
Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; thực hiện tiêu chí môi
trường thông qua chương trình xây dựng nông thôn mới tại 56 xã ngoại thành; Xây
dựng, triển khai có hiệu quả nhiều chính sách hỗ trợ hộ dân vay vốn đầu tư các
công trình xử lý chất thải, nước thải từ hoạt động sản xuất nông nghiệp, góp phần
bảo vệ môi trường,... đã góp phần thực hiện tốt mục tiêu phát triển Thiên niên
kỷ trong lĩnh vực vệ sinh môi trường nông thôn, cụ thể:
- Tỷ lệ che phủ rừng và cây phân tán:
tổng diện tích đất lâm nghiệp trên địa bàn Thành phố năm 2014 đạt 36.727 ha,
trong đó diện tích rừng là 34.411 ha, đạt tỷ lệ che phủ là 16,42%; tỷ lệ diện
tích che phủ rừng và cây xanh phân tán quy đổi trên diện tích đất tự nhiên đạt
39,8%.
- Tỷ lệ hộ dân nông thôn được chuyển đổi
xong nguồn nước hợp vệ sinh đến cuối năm 2014: 349.454 hộ, đạt tỷ lệ 97% (thực
tế đã đạt 100%, tuy nhiên, việc đáp ứng yêu cầu của người dân về chất lượng nguồn
nước cho nhu cầu sinh hoạt cần có sự tham gia kiểm tra, đánh giá của các cơ
quan chuyên môn như Sở Y tế Thành phố, Trung tâm Y tế dự phòng Thành phố và các
quận, huyện).
- Tỷ lệ nhà vệ sinh hợp vệ sinh: Số hộ
gia đình có nhà vệ sinh năm 2014 là 368.878/371.420 hộ (đạt 99,32%), tăng
20.919 hộ so với năm 2013. Số hộ gia đình có nhà vệ sinh hợp vệ sinh năm 2014
là 366.373/371.420 hộ (đạt 98,64%), tăng 21.171 hộ so với năm 2013.
- Tỷ lệ trường học và trạm y tế có nhà
vệ sinh hợp vệ sinh: Đạt 100%, trong đó bao gồm 555 trường học và 63 trạm y tế
đều có nước và nhà vệ sinh hợp vệ sinh.
- Tỷ lệ hộ chăn nuôi có chuồng trại
chăn nuôi hợp vệ sinh: số hộ chăn nuôi hợp vệ sinh năm 2014 là 20.757/21.883 hộ
(đạt 94,85%), tăng 77 hộ so với
năm 2013. Số hộ chăn nuôi có hầm biogas 2014 là 4.048/21.883 hộ (đạt 18,5%),
tăng 277 hộ so với năm 2013.
- Kết quả thực hiện tiêu chí môi trường
tại 56 xã xây dựng nông thôn mới: trong năm 2014, có thêm 19 xã hoàn thành tiêu
chí môi trường. Lũy tiến từ khi thực hiện chương trình đến nay đã có 52/56 xã đạt
tiêu chí; còn lại 04/56 xã chưa đạt.
7.1.2 Tình hình cải thiện về nước
sạch cho người dân
Tính từ năm 2006 đến nay, Thành phố đã
phát triển nguồn nước và tăng dần công suất cấp nước qua các năm, nếu như trong năm 2006 tổng công suất cấp nước sạch
là 1.120.400 m3 /ngày thì đến
năm 2010 tổng công suất
là 1.536.000 m3/ngày; đến năm
2013 là 1.750.000 m3/ngày, đến cuối năm 2014 là 1.760.000 m3/ngày
và trong năm 2015 là 2.420.000 m3/ngày (chưa tính theo Quy hoạch cấp
nước còn có thêm Nhà máy nước Kênh Đông 2 công suất 150.000m3/ngày).
Khu vực đô thị: Đến cuối năm 2014, tổng
số hộ dân đô thị là 1.497.503 hộ (tăng thêm so năm 2013 là 68.684 hộ), số hộ
dân đô thị được cấp nước sạch (gồm 19 quận nội thành và 05 thị trấn) là 1.419.625
hộ, đạt tỷ lệ 94,80%, số hộ dân đô thị được cấp nước sạch tăng thêm trong năm
2014 là 115.437 hộ; trong đó có 13/19 quận nội thành và 02/05 thị trấn đạt tỷ lệ
100% hộ dân đô thị được cấp nước sạch.
Chương trình nước sinh hoạt cho nhân
dân ngoại thành: Đến cuối năm 2014, tổng số hộ dân khu vực nông thôn (58 xã ngoại
thành) là 349.454 hộ (tăng thêm so năm 2013 là 44.655 hộ), số hộ dân nông thôn
được cấp nước sạch thay thế cho nguồn nước hợp vệ sinh là 110.186 hộ, đạt tỷ lệ
32,53%; số hộ dân nông thôn được cấp nước sạch tăng thêm trong năm 2014 là
22.357 hộ; trong đó có 06/06 xã của huyện Nhà Bè và 06/06 xã của huyện Cần Giờ được cấp
nước sạch 100%.
7.1.3 Bảo vệ môi
trường trong các khu công nghiệp
Hiện nay, đa số các doanh nghiệp đầu
tư trong các khu công nghiệp đã có đủ hồ sơ pháp lý về môi trường, chấp hành
các quy định về môi trường như đánh giá tác động môi trường, lập đề án bảo vệ
môi trường, số chủ nguồn thải,
hợp đồng thu gom chất thải rắn
với đơn vị thu gom có chức năng. Tất cả các Khu công nghiệp - Khu chế xuất đã xây
dựng và vận hành hiệu quả trạm xử lý nước thải tập trung.
Đối với những cụm khu công nghiệp có
chủ đầu tư hạ tầng thì công tác bảo vệ môi trường được chủ đầu tư phối hợp cùng
các sở, ban, ngành (Sở Công thương, Sở Tài nguyên và Môi trường, Cảnh sát phòng
chống tội phạm về
môi trường, Ủy ban nhân dân quận - huyện) triển khai thường xuyên công tác kiểm
tra, xử lý các đơn vị vi phạm.
7.2. Nguyên nhân đạt được những kết quả
Sự phối hợp tích cực giữa các cơ quan
chức năng và tổ chức chính trị - xã hội như Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội Liên
hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên,.... đã giúp cho việc triển khai
chương trình, chính sách liên quan đến nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn
được thực hiện tốt hơn.
Công tác tuyên truyền về sử
dụng nước sạch và giữ gìn vệ sinh môi trường nông thôn được thường xuyên thực
hiện thông qua các kênh truyền thông cộng đồng trên các hệ thống truyền thanh tại
các xã, phường; truyền thông đại chúng trên Đài Tiếng nói nhân dân Thành phố,
Đài Truyền hình Thành phố cũng góp phần nâng cao nhận thức của người dân nông
thôn về sử dụng nước sạch, nhà vệ sinh hợp vệ sinh, thực hành các hành vi vệ sinh và bảo
vệ môi trường như.
Các mô hình xử lý chất thải áp dụng kỹ
thuật, công nghệ đơn giản, dễ áp dụng. Vì vậy, người dân có thể tự làm lấy dưới
sự hướng dẫn của cán bộ chuyên môn.
Các mô hình tái chế nguồn chất thải hữu
cơ đưa vào phục vụ sản xuất nông nghiệp (làm phân bón) đã giúp hộ nông dân giảm
chi phí sản xuất, tăng thu nhập. Vì vậy được người dân tích cực hưởng ứng tham
gia thực hiện.
Hàng năm tổ chức tuần lễ nước sạch và
vệ sinh môi trường nông thôn (trong năm 2014, đã tổ chức tại huyện Cần Giờ) nhằm
nêu cao tinh thần và ý thức của người dân trong việc sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh và
bảo vệ môi trường sinh thái.
7.3. Các hạn chế, khó khăn và biện
pháp khắc phục
7.3.1. Hạn chế, khó khăn
Là Thành phố lớn, dân số tăng nhanh do
lượng dân nhập cư đông, quá trình đô thị hóa nhanh nên cũng ảnh hưởng đến môi
trường, chất lượng cuộc sống.
Trong thời gian qua chỉ mới chú trọng
triển khai thực hiện các mô hình xử lý chất thải đối với đối tượng chăn nuôi
quy mô hộ gia đình.
Việc xử lý chất thải sinh hoạt tại chỗ
của các khu dân cư nông thôn hiện chưa được thực hiện nghiêm túc.
Các quận ven mới đô thị hóa như quận
9, 12, Bình Tân, Thủ Đức do còn
nhiều khu vực dân cư sống rải rác hoặc khu dân cư nằm trong khu quy
hoạch.
Giá nước mới theo lộ trình 2014 - 2018 chưa được
phê duyệt đã ảnh hưởng tới kế hoạch vốn của đơn vị cung cấp.
7.3.2. Biện pháp khắc
phục:
- Về nước sạch:
Nhằm đạt 100% kế hoạch hộ dân đô thị
được cấp nước sạch trong năm 2015 theo Nghị quyết số 28/NQ-HĐND ngày
12/12/2014 của Hội đồng nhân dân Thành phố, Tổng công ty cấp nước Sài Gòn đã
xây dựng kế hoạch cung cấp nước sạch năm 2015, trong đó đề ra các danh mục dự
án cụ thể, thời gian hoàn thành và số hộ dân được cấp nước từ các dự án để tổ
chức thực hiện và theo dõi tiến độ; danh mục các dự án xây dựng mới và cải tạo,
nâng cấp trạm cấp nước; xây dựng Đề án cung cấp nước sạch cho huyện Củ Chi giai
đoạn 2015 - 2020. Song song với việc
cung cấp mạng lưới cấp nước gắn đồng hồ nước đến từng hộ dân, đối với những
khu vực dân cư chưa tập trung, chưa thể phát triển ngay hệ thống cấp nước, Tổng
công ty cấp nước Sài Gòn có giải pháp khác như: lắp đặt bồn nước tập
trung, lắp đặt đồng hồ tổng ... để người dân được
tiếp cận nước sạch.
- Về vệ sinh môi trường nông thôn:
Định kỳ hàng năm, thực hiện bộ chỉ số
theo dõi - đánh giá nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, với mục tiêu
đánh giá thực trạng và cập nhật cơ sở dữ liệu về vệ sinh môi trường nông thôn
phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường
nông thôn tại Thành phố. Đồng thời nâng cao nhận thức cho người dân về bảo vệ
môi trường, bảo vệ nguồn nước sạch.
Tiếp tục tổ chức các buổi Lễ Mít tinh,
tuyên truyền như: Lễ Mít tinh hưởng ứng Tuần lễ quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường
nông thôn (từ ngày 29 tháng 4 đến ngày 06 tháng 5) và ngày môi trường thế giới
(ngày 05 tháng 6); tổ chức Lễ Mít tinh hưởng ứng Ngày toàn cầu rửa tay với xà
phòng (ngày 15/10); tổ chức Lễ phát động ra quân làm tổng vệ sinh ở
khu vực nông thôn;....góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân về giữ
gìn bảo vệ môi trường.
Tăng cường thời lượng phát sóng trên
Đài Truyền hình, Đài Tiếng nói nhân dân Thành phố, đài phát thanh của xã - phường
và phát hành các tờ bướm, sổ tay tuyên truyền về các chuyên đề về các biện pháp bảo vệ
nguồn nước, bảo vệ môi trường trong sản xuất và trong cộng đồng; quản lý thu
gom, phân loại và xử lý chất thải rắn sinh hoạt vùng nông thôn,…
Tổ chức thêm các lớp tập huấn, huấn
luyện, hướng dẫn như: huấn luyện kỹ năng phát triển cộng đồng; giữ gìn vệ sinh
cá nhân, cộng đồng và quản lý rác thải; tập huấn vận hành và bảo dưỡng thiết bị
khí sinh học an toàn và hiệu quả; sử dụng hóa chất trong sản xuất nông nghiệp
an toàn và hiệu quả;... giúp cho người dân nhận thức hơn trong việc thực hiện
các biện pháp giữ gìn vệ sinh môi trường nông thôn.
Chú trọng triển khai thực hiện các mô
hình xử lý chất thải đối với các làng nghề nông thôn, các đối tượng chăn nuôi
trang trại, cơ sở tập trung vì đây là nguồn gây ô nhiễm lớn.
8. Mục tiêu MDG 8: Hợp
tác đối tác vì phát triển
8.1. Kết quả đạt được
8.1.1 Xuất nhập khẩu
- Xuất khẩu:
+ Giai đoạn 2000 - 2010:
Kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đạt 8,17
tỷ USD, năm 2010 đạt 22,55 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2000
- 2010 đạt 10,68%/năm, góp phần quan trọng vào tăng trưởng chung của nền kinh tế. Cơ cấu
xuất khẩu đã có xu hướng chuyển dịch tích cực, gắn chuyển dịch cơ cấu mặt hàng
với cơ cấu thị trường xuất khẩu, xây dựng được nhóm hàng xuất khẩu chủ lực và gặt
hái được thành công ở một số khâu đột phá tăng trưởng xuất khẩu.
Sau khi gia nhập WTO năm 2007, thị trường
và thị phần xuất khẩu được mở rộng, hàng Việt Nam thâm nhập vào thị trường các
nước đạt hiệu quả cao hơn.
Kim ngạch xuất khẩu năm
2010 đạt 22,55 tỷ USD, đạt 99,64% kế hoạch (do xuất khẩu dầu thô giảm nhưng đây
là kết quả chủ động, theo định hướng phát triển, thể hiện được xu hướng phát
triển của nền kinh tế là giảm mạnh xuất khẩu sản phẩm thô, trong đó có dầu thô; tăng cường
xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp đã qua chế biến)
Mặt khác, môi trường đầu tư, đặc biệt
hạ tầng giao thông, cảng biển, kho bãi,... của các địa phương khác đang được đầu
tư phát triển, tạo nhiều thuận lợi cho các hoạt động xuất nhập khẩu. Từ đó, thu
hút một bộ phận doanh nghiệp chuyển hoạt động xuất khẩu sang các cảng biển khác
gần nguồn nguyên liệu, tiết kiệm thời gian và chi phí. Hay nói cách khác, lợi
thế so sánh về hạ tầng, dịch
vụ dẫn đến hoạt động xuất nhập khẩu của Thành phố tăng chậm hơn bình quân chung
của cả nước; tỷ trọng xuất khẩu giảm dần so với cả nước.
+ Giai đoạn 2011 đến nay:
Cơ cấu thị trường đã có sự chuyển dịch
đáng kể, về cơ bản phù hợp với định hướng điều chỉnh chiến lược thị trường,
hình thành cơ cấu hợp lý. Thị trường xuất khẩu đến cuối năm 2014 như sau:
Khu vực châu Á chiếm tỷ trọng 57,6 %;
kim ngạch ước đạt 14,1 tỷ USD, tăng 25%. Trong đó, thị trường Đông Nam Á kim ngạch
ước đạt 3,8 tỷ USD, tăng 2,7%, Đông Bắc Á ước đạt 9,2 tỷ USD, tăng 38% (trong đó
thị trường Trung Quốc tăng 9,5%). Điều này, cho thấy thị trường xuất khẩu của
Thành phố đã phát triển theo hướng đa dạng hóa, giảm sự lệ thuộc quá lớn vào 1
thị trường là Trung Quốc.
Khu vực châu Âu chiếm tỷ trọng
18,1%; kim ngạch ước đạt 4,45 tỷ USD, giảm 1,6%. Riêng EU ước đạt 3,95 tỷ USD,
tăng 10,6% so với cùng kỳ. Trong đó, hầu hết các thị trường lớn của khu vực EU
đều có kim ngạch tăng so với cùng kỳ. Cụ thể: Pháp tăng 20,1%; Anh tăng 21%; Ý
tăng 4,3%; Bỉ tăng 10,6%... Các nước có kim ngạch giảm gồm: Hà Lan giảm 12,7%,
Tây Ban Nha giảm 13,2%...
Khu vực châu Mỹ chiếm tỷ trọng 21%;
kim ngạch ước đạt 5,16 tỷ USD, tăng 0,5%. Trong đó, Hoa Kỳ đạt 4,33 tỷ USD,
tăng 1,8% so với năm 2013.
Khu vực châu Phi chiếm tỷ trọng 1,69%;
kim ngạch ước đạt 415 triệu USD, giảm
27% so với năm 2013.
Khu vực châu Đại Dương chiếm tỷ trọng
1,54%; kim ngạch ước đạt 378 triệu USD, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm 2013.
Cơ cấu thị trường vẫn tiếp tục mở rộng
ở châu Phi và chuyển dịch sang khu vực châu Á (nhất là ASEAN, Trung Quốc, Hồng
Kông) do tác động của việc cắt giảm thuế theo Hiệp định CEPT/AFTA+3. Nhìn
chung, qua 2 năm 2011 và năm 2012, tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường chính, trọng
điểm (EU, Nhật Bản) vẫn tăng trưởng nhưng mức tăng thấp giảm do tác động của việc
suy giảm kinh tế thế giới đã ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ hàng hóa của các
thị trường này nhưng Hoa Kỳ và Trung Quốc vẫn giữ mức tăng trưởng năm sau cao
hơn năm trước, đóng góp vào sự tăng trưởng chung của kim ngạch xuất khẩu Thành
phố.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2014 đạt 32,08
tỷ USD, xuất khẩu năm 2014 bằng 3,92 lần năm 2000. Tăng trưởng xuất khẩu đạt
khá vào năm 2011 (tăng 19,1%), tuy nhiên, thị trường xuất khẩu bắt đầu gặp khó
khăn từ năm 2012. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ
trọng xuất khẩu sản phẩm công nghiệp đã qua chế biến, sản phẩm
có hàm lượng công nghệ
cao; giảm tỷ trọng
xuất khẩu tài nguyên, nông sản thô. Tăng trưởng xuất khẩu thấp chủ yếu do nguyên
nhân suy giảm kinh tế thế giới. Hàng xuất khẩu Việt Nam vẫn đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu nhập khẩu của hầu hết các đối tác, nhờ đó có đóng góp nhất định đối
với tăng trưởng kinh tế.
- Nhập khẩu:
+ Giai đoạn 2000 - 2010:
Theo số liệu thống kê, tốc độ tăng trưởng
bình quân giai đoạn 2000 - 2005 tăng là 11,83%/năm, giai đoạn 2006 - 2010 tăng
12,1%/năm. Tính chung cho cả giai đoạn 2001 - 2010, tốc độ tăng trưởng bình
quân là 11,29%/năm. Kim ngạch nhập khẩu năm 2000 là 7,08 tỷ USD, đến năm 2010
là 21,95 tỷ USD. Nhập siêu tăng cao vào năm 2008 (23,28 tỷ USD) nhưng đã giảm
xuống còn 19,47 tỷ USD vào năm 2009 do Thành phố triển khai các biện
pháp kiềm chế nhập khẩu, hạn chế nhập siêu đã phát huy tác dụng.
Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu giai đoạn
2007-2010 (giai đoạn sau khi gia nhập WTO) đã có chuyển biến theo hướng tăng tỷ trọng
nhóm hàng cần nhập khẩu, giảm tỷ trọng nhóm hàng cần kiểm soát và cần hạn chế
nhập khẩu
+ Giai đoạn 2011 đến nay:
Từ năm 2001 đến năm 2014, kim ngạch xuất
nhập khẩu của Thành phố trung bình mỗi năm tăng 10,58%. Tổng nhập khẩu qua các
năm như sau: năm 2000 là 7,088 tỷ USD, năm 2010 là 21,955 tỷ USD và năm 2014 là
30,3 tỷ USD. Nhập khẩu năm 2014 bằng 4,27 lần năm 2000.
Bảng 1: Chỉ
tiêu đánh giá tình hình thực hiện Mục tiêu MDG
ĐVT: Tỷ USD
|
Chỉ tiêu,
chỉ số
|
Năm 2000
|
Năm 2010
|
Năm 2014
|
Khả năng đạt
mục tiêu vào 2015
|
|
MDG 8: Thiết
lập quan hệ đối tác toàn cầu vì bền vững
|
1
|
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
|
15,265
|
44,508
|
62,383
|
68,4
|
8.1.2 Đầu tư trực tiếp
nước ngoài
Trong thời gian từ năm 2000 đến nay,
Thành phố đã thu hút được nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
ngày càng tăng. Nếu như trong năm 2001, Thành phố đã cấp mới và cấp tăng vốn với
tổng mức đầu tư là 854,5 triệu USD, trong đó cấp mới 182 dự án với tổng mức đầu
tư là 619,3 triệu USD, cấp điều chỉnh tăng vốn 61 dự án với tổng mức đầu tư là 235,2 triệu
USD; đến năm năm 2005, Thành phố cấp mới và cấp tăng vốn với tổng mức đầu tư là
1.031,2 triệu USD (tăng 20,7% so với năm 2001), trong đó cấp mới 314 dự án với
tổng mức đầu tư là 641,7 triệu USD, cấp điều chỉnh 151 dự án với tổng mức đầu
tư là 389,5 triệu USD. Đến năm 2013, Thành phố cấp mới và cấp tăng vốn là
2.083,8 triệu USD (đạt 202,1% so với năm 2005), trong đó cấp mới 477 dự án với
tổng mức đầu tư là 1.048 triệu USD, cấp điều chỉnh tăng vốn là 137 dự án với tổng
mức đầu tư là 1.035,8 triệu USD.
Tính riêng trong năm 2014, tình hình đầu
tư trực tiếp nước ngoài đạt kết quả khả quan: có 457 dự án được cấp mới Giấy chứng
nhận đăng ký đầu tư với 2,88 tỷ đô-la Mỹ; có 138 dự án điều chỉnh tăng vốn với
383,4 triệu đô-la Mỹ. Tính chung, tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và điều chỉnh
tăng vốn là 3,26 tỷ đô-la Mỹ, đạt
156,73% so cùng kỳ 2013.
8.1.3 Hỗ trợ chính thức
(ODA)
Trong giai đoạn 2010 - 2014, TP. HCM
đã vận động được 17 dự án với tổng vốn ODA trong giai đoạn này là 71.389,246 tỷ
đồng.
Tính đến cuối năm 2014, Thành phố đang
quản lý 03 dự án đã hoàn thành, đang theo dõi trả nợ và 20 dự án đang triển
khai thực hiện với 130.946 tỷ đồng vốn đầu tư (108.027 tỷ đồng vốn ODA, 22.918
tỷ đồng vốn đối ứng). Giải ngân năm 2014 là 7.620 tỷ đồng (6.580 tỷ đồng vốn
ODA; 1.040 tỷ đồng vốn đối ứng).
8.2. Nguyên nhân đạt được những kết quả
8.2.1 Xuất nhập khẩu
- Những đổi mới trong cơ chế quản lý
xuất nhập khẩu, mở cửa thị trường,... cũng như những chính sách nhằm mở rộng
quyền kinh doanh cho các doanh nghiệp trong nước đã góp phần quan trọng và tạo
ra sự chuyển biến tích cực trong hoạt động đầu tư, sản xuất và xuất khẩu hàng
hóa của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010.
- Huy động được một lượng lớn vốn đầu
tư phục vụ sản xuất, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài để phát triển sản
xuất và gia tăng lượng hàng hóa để xuất khẩu.
- Môi trường kinh doanh thuận lợi hơn
cho xuất nhập khẩu hàng hóa thông qua việc Việt Nam gia nhập WTO và ký kết các
hiệp định khác,...đã đóng góp cho tăng trưởng xuất nhập khẩu.
8.2.2 Đầu tư trực tiếp
nước ngoài
- Thành phố đẩy mạnh hoạt động xúc tiến,
thu hút đầu tư: tuyên truyền, vận động, quảng bá môi trường đầu tư của Thành phố
dưới nhiều hình thức
nhằm khẳng định cho
các nhà đầu tư trong và ngoài nước Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục là môi trường
đầu tư an toàn và hấp dẫn.
- Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành
chính, tạo môi trường đầu tư thông thoáng cho nhà đầu tư: đơn giản hóa và công
khai quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài. Áp dụng mạnh mẽ
các giải pháp công nghệ thông tin nhằm nâng cao mức độ công khai, minh bạch, đẩy
mạnh sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước và tăng cường việc công bố
thông tin cho doanh nghiệp, nhà đầu tư
- Thực hiện công khai bộ thủ tục hướng
dẫn đầu tư trên trang web của Sở Kế hoạch và Đầu tư với nội dung chi tiết từ việc
hướng dẫn trình tự thực hiện thủ tục đầu tư, thành phần hồ sơ, các quy định
pháp luật có liên quan và các mẫu biểu cần thiết. Bộ thủ tục được soạn thảo với
mục đích hỗ trợ Nhà đầu tư tối đa trong việc soạn thảo hồ sơ đề nghị cấp Giấy
chứng nhận đầu tư.
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước
về đầu tư theo hướng chuyển trọng tâm từ công tác kiểm tra khi cấp phép sang kiểm
tra sau cấp phép. Theo đó, tinh gọn thủ tục cấp phép nhưng siết chặt việc tuân
thủ các quy định của pháp luật trong quá trình triển khai dự án.
8.2.3 Hỗ trợ chính thức ODA
Trong quá trình triển khai thực hiện dự
án, Thành phố đã tập trung chỉ đạo thực hiện các nội dung đã cam kết với các
nhà tài trợ và chỉ đạo xử lý các khó khăn, vướng mắc liên quan đến vấn đề giải
phóng mặt bằng, tái định cư và các thủ tục trong quá trình đầu tư..., đồng thời
đảm bảo cân đối đầy đủ và kịp thời vốn đối ứng theo tiến độ thực hiện của các dự
án ODA và từng bước tăng cường năng lực cho các ban quản lý dự án, chủ đầu tư.
Mặc dù một số dự án giải ngân trong
giai đoạn này còn chậm so với tiến độ của dự án tuy nhiên việc thu hút và sử dụng
nguồn vốn ODA của Thành phố trong giai đoạn này nhìn chung là có hiệu quả và
góp phần thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của Thành
phố, thể hiện trên một
số mặt chính sau:
- Bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu
tư phát triển, nhất là cơ sở hạ tầng, vốn ODA đóng góp bình quân từ 10-20%
trong tổng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Một số dự án đã hoàn thành góp phần
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển kinh tế - xã hội và cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Thành phố như Đại lộ Đông
- Tây; Dự án vệ sinh môi trường Thành phố lưu vực Nhiêu Lộc - Thị Nghè; Dự án
nâng cấp đô thị Thành phố Hồ Chí Minh;
Dự án xử lý rác y tế; Dự án đầu tư xây
dựng trung tâm điều khiển hệ thống chiếu sáng công cộng Thành phố; Dự án đầu tư
xây dựng hệ thống đèn tín hiệu giao thông...
8.3. Các hạn chế, khó khăn và biện
pháp khắc phục
8.3.1 Các hạn chế, khó khăn về xuất
nhập khẩu:
- Xuất khẩu tăng trưởng chủ yếu ở những
nhóm mặt hàng dựa vào nguồn lao động rẻ và gia công hơn là những mặt
hàng có giá trị gia tăng cao. Tăng trưởng xuất khẩu nhìn chung chậm cải thiện
do cơ cấu hàng hóa xuất khẩu chuyển dịch chậm, tỷ trọng nhóm hàng công
nghiệp, chế biến, nhóm hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao vẫn chưa có sự
chuyển biến đáng kể.
- Tỷ nhập khẩu lớn về nguyên, nhiên liệu,
nhất là nguyên liệu gia công sản xuất,... thể hiện tính gia công trong ngành còn lớn, phụ
thuộc nhiều vào thị trường cung cấp ở nước ngoài, làm tăng chi phí sản xuất
trong nước, giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu.
- Dịch vụ hậu cần (logistics) hỗ trợ
cho xuất khẩu chưa phát triển làm tăng thêm chi phí, giảm tính cạnh tranh của
hàng hóa xuất khẩu.
- Giá và lượng xuất khẩu của nhiều
hàng hóa giảm, các mặt hàng xuất chủ lực chủ yếu là các mặt hàng gia công, vì vậy
giá trị gia tăng thấp, chưa thực sự tham gia vào chuỗi sản xuất và lưu thông sản
phẩm của các tập đoàn đa quốc gia trong khu vực và thế giới.
- Nhập khẩu tăng chịu tác động của một
số nhân tố: tăng tỷ giá VNĐ/USD danh nghĩa cũng có tác động làm tăng kim ngạch nhập khẩu,
do việc tăng tỷ giá này đi kèm với việc tăng giá (theo giá thực tế tính bằng nội
tệ) của hàng hóa Việt Nam. Trong khi đó, lượng vốn FDI thực hiện cũng làm tăng
nhu cầu đối với hàng nhập khẩu. Tăng trưởng GDP cao cũng góp phần làm tăng nhu
cầu đối với hàng nhập khẩu, nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng và sản xuất. Đáng
lưu ý là việc gia nhập WTO song hành với giảm thuế quan cũng làm tăng nhu cầu đối
với nhập khẩu, nếu không có các biện pháp kỹ thuật để kiềm chế nhập khẩu.
Về đầu tư trực tiếp nước ngoài:
- Thời gian cấp Giấy chứng nhận đầu tư
thường không đảm bảo đúng hạn, chủ yếu là do các cơ quan được hỏi ý kiến thẩm
tra hồ sơ theo quy định pháp luật đầu tư thường trả lời quá thời hạn quy định
là 15 ngày làm việc; ý kiến của các Bộ nhiều lúc còn chung chung, đôi khi yêu cầu giải
trình hoặc từ chối nhưng lại không nêu rõ cơ sở pháp lý đã ảnh hưởng đến công
tác thẩm tra, làm chậm thời gian cấp giấy chứng nhận đầu tư cho nhà đầu tư.
- Chưa có văn bản quy định cụ thể việc
thẩm định trình độ công nghệ dẫn đến tình trạng nhập các công nghệ lạc hậu, gây
ô nhiễm môi trường
- Một số nội dung quy định pháp luật
còn thiếu nhất quán, còn có sự chồng chéo giữa các Luật chuyên ngành; một số vấn
đề tồn tại trên thực tế nhưng lại chưa được quy định pháp luật điều chỉnh cũng
dẫn đến nhiều khó khăn cho công tác quản lý nhà nước và quản lý cấp
phép cho các doanh nghiệp FDI (hệ
thống mã ngành kinh tế quốc dân chưa đầy đủ, chưa phù hợp
thông lệ quốc tế; việc chuyển nhượng vốn góp của nhà đầu tư dẫn đến có sự thay
đổi chủ đầu tư
dự án bất động sản trong khi dự án chưa đảm bảo
điều kiện được chuyển nhượng; việc góp vốn bằng quyền sử dụng
đất và chuyển nhượng vốn
góp bằng giá trị quyền sử
dụng đất - thực chất là chuyển nhượng quyền sử dụng
đất...).
- Các quy định về kiểm tra, thanh tra
sau phép còn thiếu, chưa đồng bộ, chưa hiệu quả; thiếu các biện pháp chế tài chặt
chẽ hoặc các biện pháp chế tài còn nhẹ như đối với việc không báo cáo định kỳ về
hoạt động đầu tư của doanh nghiệp FDI; không thực hiện góp đủ vốn điều lệ, đúng
thời hạn cam kết...
Về hỗ trợ chính thức ODA:
- Việc thực hiện dự án ODA chậm làm
cho tình hình giải ngân vốn ODA chậm được cải thiện. Do giải ngân chậm nên hiệu
quả và hiệu suất của nguồn vốn ODA đối với nhiều dự án bị giảm sút và phải trả
phí cam kết cho số vốn chưa giải ngân. Ngoài ra, giải ngân chậm làm ảnh hưởng đến
khả năng cam kết vốn ODA mới của các nhà tài trợ dành cho Việt Nam nói chung và
Thành phố nói riêng.
- Quy trình và thủ tục quản lý, sử dụng
ODA của Chính phủ và nhà tài trợ đã được cải thiện. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại
những sự khác biệt chậm được xử lý đã tác động đến tình hình thực hiện các
chương trình, dự án ODA.
- Năng lực một số nhà thầu, các nhà tư
vấn trong nước còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng lẫn chất
lượng để hỗ trợ việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA. Một số chuyên gia tư vấn
nước ngoài thiếu kinh nghiệm và chưa am hiểu tình hình thực tế Việt Nam.
- Công tác theo dõi, đánh giá
chương trình dự án ODA và hoạt động của các Ban quản lý dự án chưa quan tâm
đúng mức; chế độ báo cáo, thanh quyết toán tài chính chưa được thực hiện nghiêm
túc và thiếu các chế tài cần thiết.
- Công tác đền bù giải phóng mặt bằng
và di dời các công trình tiện ích ngầm vẫn gặp nhiều khó khăn làm ảnh hưởng đến
tiến độ thực hiện dự án. Ngoài ra, việc thi công một số gói thầu gặp khó khăn
do việc phân luồng giao thông, thi công trong khu vực hiện hữu hẹp và phải xử
lý các công trình ngầm.
8.3.2. Biện
pháp khắc phục
Về xuất nhập khẩu:
- Đa dạng hóa và mở rộng các hình thức
xúc tiến thương mại. Đẩy mạnh công tác tiếp thị một cách thường xuyên thông qua
việc tham gia các kỳ hội chợ, triển lãm tại nước đối tác, tiếp thị qua mạng
internet, đặt văn phòng đại diện. Tập
trung nguồn lực xúc tiến thương mại vào các thị trường lớn và các thị trường
mang tính đột phá.
- Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu
theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng sản
phẩm chế biến và chế tạo có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng
hàng thô và sơ chế.
- Tiếp tục thực hiện các giải pháp đẩy
mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu đối với các mặt hàng không khuyến
khích và các mặt hàng trong nước đã sản xuất được.
- Thường xuyên cập nhật, phổ biến kịp
thời thông tin về thị trường thế giới, nhất là những thị trường và mặt hàng xuất
khẩu trọng điểm,
những thay đổi về chính sách, việc
áp dụng biện pháp bảo hộ của nước ngoài. Hoàn thiện tổ chức và nâng cao năng lực
dự báo cung cầu và giá cả trên thị trường thế giới, tập trung vào những mặt
hàng cung cầu thường biến động và doanh nghiệp Thành phố có khối lượng xuất khẩu
lớn.
Tăng
cường công tác cung cấp thông tin về các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật, cảnh
báo về vệ sinh an toàn thực phẩm và
nguy cơ bị kiện chống bán phá giá tới cộng đồng doanh nghiệp.
- Xây dựng chiến lược phát triển các
loại hình dịch vụ logistics, thu hút đầu tư vào kinh doanh dịch vụ logistics,
giảm chi phí logistics để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu.
- Đẩy mạnh triển khai Chương trình
chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu giai đoạn 2011 - 2015, tầm nhìn đến năm 2020;
trong đó, tập trung triển khai các chương trình: Chương trình phát triển ngành
công nghiệp hỗ trợ trong khu Công nghệ cao, Chương trình hỗ trợ xuất nhập khẩu
giai đoạn 2014-2015, Chương trình nâng cao tỷ trọng sản phẩm giá trị gia tăng
ngành chế biến tinh lương thực, thực phẩm và xây dựng sản phẩm nông sản chế biến
cao cấp xuất khẩu với giá trị gia tăng cao, Chương trình hỗ trợ đào tạo công
nhân, chuyên gia kỹ thuật ngành gỗ.
Về đầu tư trực tiếp nước ngoài:
- Chính sách thu hút FDI phải nằm
trong thể thống nhất, chuyển động nhịp nhàng và có tính bổ trợ với các chính sách phát
triển kinh tế - xã hội của Thành phố, cụ thể là tập trung phát triển 9 nhóm
ngành dịch vụ là tài chính - ngân hàng - bảo hiểm; thương mại; du lịch; vận tải,
cảng và kho bãi; bưu chính, viễn thông, thông tin và truyền thông; kinh doanh
tài sản bất động sản; tư vấn; khoa học công nghệ, y tế; giáo dục và đào tạo và
4 ngành công nghiệp trọng yếu là cơ khí, điện tử - công nghệ thông tin, hóa chất
- nhựa - cao su, chế biến tinh lương thực thực phẩm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
lĩnh vực nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị.
- Đặt trọng tâm thu hút các dự án đầu
tư vào sản xuất năng lượng - vật liệu xanh và các dự án có cam kết sử dụng năng
lượng tái tạo, năng lượng mới mà trọng tâm là lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng
và lĩnh vực kinh doanh bất động sản, hạn chế phát triển những ngành kinh tế phát sinh chất
thải lớn, gây ô nhiễm, suy thoái môi trường. Điều này có ý nghĩa quan trọng khi Việt
Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng là một trong số những nơi chịu
tác động lớn nhất của quá
trình biến đổi khí hậu toàn cầu.
- Khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực
góp phần đào tạo lao động có chất lượng cao và các dự án có chuyển giao các
công nghệ mới, công nghệ nguồn và các dự án có xây dựng các trung tâm nghiên cứu
- phát triển (R&D) bằng việc xây dựng các gói chính sách ưu đãi, đặc biệt
là tại các địa điểm đã được quy hoạch của Thành phố như: Khu Công nghệ cao, Khu
Công viên phần mềm Quang Trung, Khu Nông nghiệp công nghệ cao,...
- Việc thu hút FDI phải tính tới hình
thành các liên kết giữa các loại hình doanh nghiệp có vốn FDI và đầu
tư trong nước từ đó tạo ra các chuỗi giá trị và nâng cao giá trị thành phẩm sau
cùng phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Đó là quá trình khép kín từ
khâu sản xuất, cung ứng vật liệu thô đến các nhà máy sản xuất bộ phận, bán
thành phẩm và cuối cùng là khâu sản xuất thành phẩm, trong đó, có sự tham gia của
các trung tâm nghiên cứu, thiết kế, các nhà phân phối và người lao động. Một
trong những yếu tố quan trọng của quá trình này là sẽ tạo ra một hệ thống các
ngành công nghiệp phụ trợ trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, từ đó
tăng sức cạnh tranh và tính độc lập của kinh tế Việt Nam nói chung và Thành phố
Hồ Chí Minh nói
riêng trên thế giới.
Về hỗ trợ chính thức ODA:
- Tăng cường công tác tập huấn các quy
định về quản lý ODA, đặc biệt là các văn bản quy định mới và hướng dẫn thực hiện
công tác lập, phê duyệt Báo cáo đánh giá giữa kỳ và kết thúc dự án;
- Tiếp tục vận động nguồn ODA tài trợ
cho các dự án ưu tiên đầu tư vào lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông,
môi trường có quy mô lớn như dự án đầu tư xây dựng tuyến đường sắt đô thị, dự
án đầu tư xây dựng Nhà ga trung tâm Bến Thành và dự án Quản lý rủi ro ngập nước
khu vực Thành phố Hồ Chí Minh,...
- Tiếp tục chủ động phối hợp với các bộ,
ngành Trung ương nghiên cứu để tiếp tục điều chỉnh các quy định nhằm thực hiện
hài hòa thủ tục giữa quy định của Việt Nam và chính sách của nhà tài trợ (trọng
tâm là những vấn đề cụ thể trong các quy định về đấu thầu, nghiệm thu
kỹ thuật, giải ngân và bồi thường giải
phóng mặt bằng).
- Tiếp tục rà soát các vướng mắc trong
quá trình triển khai thực hiện các dự án đầu tư bằng nguồn vốn hỗ trợ chính thức
ODA kiến nghị Trung ương tháo gỡ kịp thời nhằm tạo điều kiện cho các chủ đầu tư
trong việc thực hiện dự án.
- Tăng cường nghiên cứu các văn bản Luật
và các quy định dưới Luật về quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính
thức (ODA) và nguồn vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ cho phù hợp với Luật Đầu
tư công và các quy định hiện hành.
- Hoàn thiện chương trình phần mềm tin
học để tạo thuận lợi cho công tác báo cáo của các đơn vị từ cấp ban quản lý dự
án, cấp cơ quan chủ quản và cấp Bộ./.
Nơi nhận:
-
Chính
phủ “để báo cáo”;
- Văn phòng Chính phủ (a - b);
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
- Thường trực Thành ủy;
- Đoàn Đại biểu Quốc hội TP;
- Thường trực HĐND. TP;
- Thành viên UBND TP;
- Các sở - ban - ngành TP;
- VPUB: CPVP; các phòng NCTH, THKH (2b);
- Lưu: VT,
(THKH/TA)
|
CHỦ TỊCH
Lê
Hoàng Quân
|