BỘ
CÔNG AN - VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO - BỘ TƯ PHÁP- TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI
CAO
--------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
21/2004/TTLT-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTP
|
Hà
Nội, ngày 23 tháng 11 năm 2004
|
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
SỐ 21/2004/TTLT-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTP NGÀY 23/11/2004 CỦA BỘ
CÔNG AN, TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO, BỘ TƯ PHÁP HƯỚNG
DẪN TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC HÀNH VI MUA, BÁN, SỬ DỤNG TRÁI
PHÉP HOÁ ĐƠN GIÁ TRỊ GIA TĂNG
Để việc truy cứu trách nhiệm hình sự đúng và thống
nhất đối với các hành vi mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn giá trị gia tăng,
Bộ Công an, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm soát nhân dân tối cao, Bộ Tư
pháp thống nhất hướng dẫn như sau:
1. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi
mua và sử dụng trái phép hoá đơn giá trị gia tăng:
1.1. Người nào có hành vi mua hoá đơn giá trị
gia tăng và sử dụng trái phép hoá đơn đó để lập hồ sơ khống chiếm đoạt tiền
hoàn thuế giá trị gia tăng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về "tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo Điều 139
của Bộ Luật hình sự:
a. Tiền hoàn thuế giá trị gia
tăng từ năm trăm nghìn đồng trở lên;
b. Tiền hoàn thuế giá trị gia tăng dưới năm trăm
nghìn đồng, nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã xử phạt vi phạm hành chính về
hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, nhưng chưa được
xoá án tích mà còn vi phạm.
1.2. Người nào mua hoá đơn giá trị gia tăng và sử
dụng trái phép hoá đơn đó để lập chứng từ khống về việc mua nguyên liệu, nhiên
vật liệu, vật tư, hàng hoá,... chiếm đoạt tiền của cơ quan, tổ chức hoặc người
khác thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:
a. Nếu là người có chức vụ, tức là người do bổ
nhiệm, do bầu cử do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc
không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất
định trong khi thực hiện công vụ và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt
tiền của cơ quan, tổ chức mà mình có trách nhiệm quản lý thuộc một trong các
trường hợp sau đây thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội tham ô tài
sản" theo Điều 278 của Bộ luật hình sự:
a1. Tiền bị chiếm đoạt từ năm trăm nghìn đồng trở
lên;
a2. Tiền bị chiểm đoạt dưới năm trăm nghìn đồng,
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn
vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong số các tội quy định tại Mục A Chương XXI
của Bộ luật hình sự, nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
b. Nếu là người khác, không thuộc trường hợp hướng
dẫn tại điểm a tiểu mục 1.2 mục 1 này mà chiếm đoạt thuộc một trong các trường
hợp sau đây thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản" theo Điều 139 của Bộ luật hình sự:
b1. Tiền chiếm đoạt từ năm trăm nghìn đồng trở
lên;
b2. Tiền chiếm đoạt dưới năm trăm nghìn đồng,
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm
đoạt hoặc bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, nhưng chưa được xoá án tích mà
còn vi phạm.
1.3. Người nào có hành vi mua hoá đơn giá trị
gia tăng và sử dụng trái phép hoá đơn đó để hợp thức hoá chứng từ về việc buôn
bán trái phép hàng hoá thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:
a. Nếu chứng minh được là hành vi buôn bán trái
phép hàng hoá qua biên giới mà thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội buôn lậu" theo Điều 153 của Bộ
Luật hình sự:
a1. Hàng hoá có giá trị từ một trăm triệu đồng
trở lên;
a2. Hàng hoá có giá trị dưới một trăm triệu đồng,
nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều 153 hoặc tại một
trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự hoặc
đã bị kết án về một trong các hành vi này, nhưng chưa được xoá án tích mà còn
vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194, 195, 196,
230, 236, 238 của Bộ luật hình sự.
b. Nếu không chứng minh được hành vi buôn bán
trái phép hàng hoá qua biên giới (tức là chỉ trong nội địa), mà thuộc một trong
các trường hợp sau đây thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội trốn
thuế" theo Điều 161 của Bộ luật hình sự:
b1. Trốn thuế từ năm mươi triệu đồng trở lên;
b2. Tiền trốn thuế dưới năm mươi triệu đồng,
nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội trốn
thuế hoặc về một trong các tội quy định tại điều 153, 154, 155, 156, 157, 158,
159, 160, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 236 và 238 của Bộ luật hình sự,
chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
1.4. Người nào có hành vi mua hoá đơn giá trị
gia tăng mà không thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các tiểu mục
1.1, 1.2 và 1.3 của mục 1 này, thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:
a. Trường hợp chứng minh được khi mua hoá đơn
giá trị gia tăng mà hoá đơn giá trị gia tăng đó đã được ghi đầy đủ như đã mua
bán hàng hoá thì người mua bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội tàng trữ,
vận chuyển, lưu hành giấy tờ có giá giả" theo Điều 181 của Bộ luật hình sự;
b. Trường hợp không chứng minh được hoá đơn giá
trị gia tăng đã được ghi đầy đủ như đã mua hàng hoá (hoá đơn giá trị gia tăng
còn nguyên như khi phát hành) thì người mua bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
"tội mua bán tài liệu của cơ quan nhà nước" theo Điều 268 của Bộ luật
hình sự, nếu số lượng hoá đơn giá trị gia tăng từ năm mươi số trở lên (thông
thường mỗi số có 3 liên) hoặc dưới năm mươi số, nhưng đã bị xử phạt hành chính
hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ con dấu, tài liệu của cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
2. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi bán
trái phép hoá đơn giá trị gia tăng
2.1. Người nào có hành vi bán hoá đơn giá trị
gia tăng cho người khác, mà biết rõ mục đích sử dụng hoá đơn của người mua, nếu
người mua bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo hướng dẫn tại mục 1 của Thông tư
liên tịch này thì người bán bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tương ứng đối
với người mua với vai trò đồng phạm.
2.2. Người nào có hành vi bán hoá đơn giá trị
gia tăng cho người khác, mà không biết mục đích sử dụng hoá đơn của người mua,
nhưng không xác định được người mua, thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự như
sau:
a. Trường hợp chứng minh đương khi bán hoá đơn
giá trị gia tăng mà hoá đơn giá trị gia tăng đã được ghi đầy đủ như đã mua bán
hàng hoá thì người bán bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội tàng trữ, vận
chuyển, lưu hành giấy tờ có giá giả" theo Điều 181 của Bộ luật hình sự;
b. Trường hợp không chứng minh được hoá đơn giá
trị gia tăng đã được ghi đầy đủ như đã mua hàng hoá (hoá đơn giá trị gia tăng
còn nguyên như khi phát hành) thì người bán bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
"tội mua bán tài liệu của cơ quan nhà nước" theo Điều 268 của Bộ luật
hình sự, nếu số lượng hoá đơn giá trị gia tăng từ năm mươi số trở lên (thông
thường mỗi số có 3 liên) hoặc dưới năm mươi số, nhưng đã bị xử phạt hành chính
hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ con dấu, tài liệu của cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
3. Về thẩm quyền điều tra
Thẩm quyền điều tra các tội phạm
về các hành vi mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn giá trị gia tăng được thực
hiện theo quy định tại Điều 110 của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong trường hợp
có tranh chấp về thẩm quyền điều tra thì Viện kiểm sát có thẩm quyền giải quyết.
4. Hiệu lực thi hành của Thông tư
Thông tư này có hiệu lực thi
hành sau mười lăm ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Trong quá trình thực hiện, nếu
có vướng mắc hoặc chưa được hướng dẫn cần phải giải thích hoặc hướng dẫn bổ
sung, thì đề nghị phản ánh cho Bộ Công an, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp để có sự giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung kịp
thời./.
Đặng
Quang Phương
(Đã
ký)
|
Lê
Thế Tiệm
(Đã
ký)
|
Lê
Thị Thu Ba
(Đã
ký)
|
Trần
Thu
(Đã
ký)
|