BỘ
TÀI CHÍNH
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
36-TC/TCT
|
Hà
Nội, ngày 11 tháng 6 năm 1991
|
THÔNG TƯ
SỐ 36-TC/TCT NGÀY 11-6-1991 CỦA BỘ TÀI CHÍNH HƯỚNG DẪN THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH THUẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG LAO ĐỘNG SẢN XUẤT VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CỦA NHÀ TRƯỜNG
Thi hành công văn số 10-TB ngày
2-2-1991 và công văn số 471-KG ngày 23-2-1991 của Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng,
thông báo ý kiến của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về vấn đề thuế đối với các cơ
sở sản xuất kinh doanh của các trường học. Sau khi trao đổi thống nhất với Bộ
Giáo dục - đào tạo, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện như sau:
I- NHỮNG VẤN
ĐỀ CHUNG
1- Phạm vi áp dụng theo hướng dẫn
tại thông tư này là các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân trực thuộc các
bộ, các ngành và các địa phương như các trường đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp, trường phổ thông, trường bổ túc văn hoá, trường dạy nghề, trung
tâm dạy nghề và trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp v.v... (dưới dây được gọi
chung là trường).
2- Hoạt động lao động sản xuất
và nghiên cứu khoa khọc trong nhà trường là những hoạt động của giáo viên, công
nhân viên và học sinh tiến hành lao động sản xuất, thực hiện hợp đồng nghiên cứu
khoa học nhằm gắn việc học tập với thực hành lao động sản xuất để bồi dưỡng
nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ giáo viên, nâng cao chất lượng học tập
và rèn luyện tay nghề cho học sinh, đồng thời tạo nguồn để bổ sung thêm kinh
phí giáo dục - đào tạo và cải thiện đời sống cho giáo viên và học sinh. Các loại
hoạt động này phải bảo đảm mục tiêu giáo dục và hiệu quả kinh tế đồng thời thực
hiện theo các quy định của Pháp luật Nhà nước.
II- NỘI DUNG
CHÍNH SÁCH THUẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG LAO ĐỘNG SẢN XUẤT VÀ HỢP ĐỒNG NGHIÊN CỨU KHOA
HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG.
1- Các trường hợp sau đây không
coi là hoạt động kinh doanh nên khong phải xin cấp giấy phép kinh doanh, không
phải đăng ký nộp thuế.
- Các cơ sở thí nghiệm, sản xuất
thử, thực tập, thực hành nghiên cứu ứng dụng triển khai khoa học kỹ thuật: như
xưởng, trường, phòng thí nghiệm, trạm trại thí nghiệm, trung tâm hướng nghiệp,
các đơn vị nghiên cứu đề tài cấp Bộ và cấp Nhà nước... phải có đầy đủ những điều
kiện sau đây:
+ Phải nằm trong cơ cấu tổ chức
của nhà trường hoặc có quyết định thành lập ghi rõ chức năng nhiệm vụ.
+ Hoạt động lao động sản xuất và
cung ứng dịch vụ gắn với chuyên ngành đào tạo.
+ Lực lượng tham gia lao động sản
xuất, thực hiện các hợp đồng nghiên cứu khoa học là giáo viên, học sinh trong
nhà trường.
- Các hoạt động đào tạo (kể cả
đào tạo mở rộng, dạy nghề, dạy bổ túc, dạy tại chức...) có thu tiền học phí của
học sinh để bù đắp chi phí quản lý đào tạo và cải thiện đời sống.
- Hoạt động dịch vụ nội bộ như:
dịch vụ ăn uống, căng tin để phục vụ cho giáo viên, học sinh, cán bộ công nhân
viên và khách đến công tác tại trường.
2- Đối tượng phải chịu thuế thuộc
diện được cấp lại:
Theo quy định tại phần
b, điểm 1 công văn số 10-TB ngày 2-2-1991 của Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng
thì hoạt động sản xuất hàng hoá bán ra thị trường phải chịu thuế thuộc diện được
lại số thuế đã nộp (thuế doanh thu và lợi tức) bao gồm các hoạt động sản xuất
do thầy giáo và học sinh trực tiếp tổ chức thực hiện như:
- Những hoạt động có doanh thu,
ngoài nhiệm vụ chính như đã nói ở điểm 1 của các cơ sở thực hành, thí nghiệm,
và nghiên cứu khoa học trên cơ sở tận dụng và khai thác các khả năng sẵn có như
các trung tâm nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật có nhận thiết kế, xây dựng,
lắp đặt thiết bị cho bên ngoài; các trung tâm dạy nghề có kết hợp sửa chữa dân
dụng, lắp máy móc thiết bị...
- Hoạt động lao động sản xuất của
các tổ chức chuyên sản xuất kinh doanh của nhà trường, kể cả nhận thuầ cho bên
ngoài.
- Đất dùng vào sản xuất nông
nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và sản phẩm lâm nghiệp ngoài quy hoạch để thực
hành, thí nghiệm.
- Đất thuộc phạm vi quy hoạch để
thực hành nhưng sử dụng vào các mục đích khác.
3- Đối tượng phải chịu thuế
không thuộc diện được cấp lại: bao gồm các hoạt động kinh doanh thương mại và
các hoạt động lao động sản xuất không phải lo thầy giáo và học sinh trực tiếp
thực hiện như:
- Hoạt động kinh doanh thương
nghiệp, ăn uống.
- Phân doanh thu và lãi của bên
ngoài liên doanh với môi trường.
- Các trường hợp có tổ chức và
cá nhân bên ngoài sử dụng tài khoản, lấy danh nghĩa nhà trường để kinh doanh trốn
thuế.
- Các hoạt động kinh doanh thuộc
đối tượng nộp thuế mà không xin phép kinh doanh và đăng ký nộp thuế theo quy định.
III- THỦ TỤC
NỘP, CẤP LẠI VÀ QUẢN LÝ SỬ DỤNG TIỀN THUẾ.
1- Thủ tục thu nộp thuế.
Căn cứ vào chế độ, thủ tục thu nộp
từng loại thuế đã quy định trong các thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính, cơ
quan thuế địa phương hướng dẫn cho các cơ sở sản xuất kinh doanh của nhà trường
kê khai nộp thuế kịp thời vào kho bạc Nhà nước. Mỗi khi kiểm tra tính thuế, thu
thuế, cơ quan thuế cần xác định ngay vào biên bản kiểm tra, tờ khai tính thuế
thuộc diện được cấp lại theo quy định ở phần II của thông tư này
để làm căn cứ cho việc thống kê theo dõi số thuế cấp lại cho nhà trường. Số thu
về thuế của trường học thuộc diện cấp lại được cơ quan thuế ra thông báo riêng
để ghi vào khoản "thu khác" của ngân sach (mục 4, 7) theo đúng
chương, loại khoản, hạng của mục lục ngân sách Nhà nước. Số thu này, được tính
vào kết quả hoàn thành kế hoạch của cơ quan các cấp.
2- Thủ tục cấp lại.
Hàng quý, căn cứ vào biên bản kiểm
tra, tờ khai tính thuế, chứng từ nộp thuế, nhà trường lập bản kê ghi rõ số thuế
đã nộp trong quý và số thuế thuộc diện được cấp lại có xác nhận của kho bạc Nhà
nước về số thuế đã nộp và có xác nhận của cơ quan thu thuế gửi đến cơ quan tài
chính (trường do Trung ương quản lý thì gửi hồ sơ đến Bộ Tài chính, trường do địa
phương quản lý thì gửi hồ sơ đến Sở Tài chính địa phương để được cấp lại tiền
thuế đã nộp.
Cơ quan Tài chính căn cứ vào bảng
kê xin cấp lại thuế của từng trường hợp thuộc cấp minh quản lý, đối chiếu với
các quy định nếu trên để cấp lại số tiền thuế đã nộp kho bạc cho nhà trường
theo nguyên tắc là: số thuế được cấp lại trực tiếp cho từng trường sđã nộp thuế.
Trường thuộc Trung ương quản lý do Bộ Tài chính cấp lại, trường thuộc địa
phương quản lý do Sở Tài chính địa phương cấp lại. Riêng việc cấp lại số thuế
đã nộp vào kho bạc từ ngày 1-8-1990 đến 31-12-1990, sau khi cấp lại cho trường
các Sở Tài chính phải tổng hợp và báo cáo Bộ Tài chính (Vụ ngân sách Nhà nước để
thanh quyết toán.
3- Quản lý và sử dụng tiền thuế
được cấp lại.
Tiền thuế được cấp lại coi như
nguồn kinh phí Nhà nước cấp bổ sung cho nhà trường do đó chủ yếu dùng vào việc
xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ cho giảng dạy, học tập
nghiên cứu khoa học và giành một phần cải thiện đời sống cho giáo viên và học
sinh. Cụ thể phân phối như sau:
- 50% bổ sung kinh phí sự nghiệp
giáo dục - đào tạo để dùng vào việc mua sắm, sửa chữa tài sản, tăng cường cơ sở
vật chất phục vụ giảng dạy và học tập.
-30% bổ sung quỹ phát triển lao
động sản xuất và nghiên cứu khoa học.
- 20% cho quỹ khen thưởng và
phúc lợi để cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên, giáo viên và học
sinh.
Hàng quý, năm các trường phải
báo cáo quyết toán theo chế độ quy định hiện hành cùng với quyết toán ngân sách
Nhà nước cấp theo dự toán cho trường. Sở Tài chính tổng hợp số tiền thuế đã cấp
lại cho các trường đóng trên địa bàn gửi về Bộ Tài chính (Vụ ngân sách Nhà nước
và Vụ Hành chính văn xã) để theo dõi quan lý việc cấp phát kinh phí cho khối
các trường học).
IV- TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
Việc nộp thuế và việc cấp lại số
thuế đã nộp là hải hoạt động riêng biệt về thu cho ngân sách Nhà nước và cấp
phát từ ngân sách Nhà nước. Do đó các tổ chức làm kinh tế của các trường phải đầy
đủ các thủ tục về đăng ký kinh doanh theo quy định tại Quyết định số 268-TC
ngày 30-7-1990 của Hội đồng Bộ trưởng và Thông tư hướng dẫn số 39-TC/CTN ngày 27-8-1990 của Bộ Tài chính; phải
kê khai đăng ký về thuế tại cơ quan thuế địa phương và nộp đủ các loại thuế Môn
bài, thuế Doanh thu, thuế Tiêu thụ đặc biệt (nếu có) và thuế lợi tức theo các
Luật thuế, Pháp lệnh thuế hiện hành; Thực hiện việc mở và ghi sổ sách kế toán
theo Pháp lệnh thống kê kế toán và chịu sự kiểm tra, quản lý của cơ quan thuế
và các cơ quan chức năng khác của Nhà nước.
Việc cấp lại tiền thuế đã nộp (kể
cả số tiền thuế đã nộp từ sau khi có Quyết định số 268-CT của HĐBT) được tính từ
ngày 1-8-1990 và được tính vào phần bổ sung ngân sách cho Nhà nước năm 1991.
Các trường cần làm thủ tục ghi ở điểm 2 phần III trên đây để
cơ quan tài chính các cấp cấp lại kịp thời tiền thuế đã nộp.
Thông tư này có hiệu lực thi
hành từ ngày ký. Các văn bản mà Bộ Tài chính và Bộ Giáo dục - đào tạo đã ký trước
đây trái với nội dung đã hướng dẫn trên, đều bãi bỏ.
Quá trình thực hiện, có vấn đề
gì khó khăn vướng mắc đề nghị các truờng phản ánh về Bộ Tài chính để nghiên cứu
hướng dẫn bổ sung.