BỘ
TÀI CHÍNH
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
127-BTC/NN
|
Hà
Nội, ngày 25 tháng 09 năm 1958
|
THÔNG TƯ
GIẢI THÍCH THÊM VỀ CÁCH THI HÀNH ĐIỀU LỆ THUẾ NÔNG NGHIỆP
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
Kính gửi: Ủy ban Hành
chính khu, thành phố, tỉnh
Từ năm 1956, điều lệ thuế nông
nghiệp áp dụng tại vùng đã cải cách ruộng đất được thi hành có tác dụng khuyến
khích sản xuất rõ rệt.
Tuy vậy, tình hình nông thôn và
tình hình ruộng đất ở từng địa phương có những đặc điểm khác nhau; trong quá
trình phát triển sản xuất nông nghiệp tiến lên chủ nghĩa xã hội lại có nhiều diễn
biến mới. Do đó khi áp dụng điều lệ thuế nông nghiệp vào từng trường hợp cụ thể
phải nghiên cứu một cách thận trọng để không trái với nguyên tắc chung, phát
huy tác dụng đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp của chính sách thuế.
Trong tình hình hiện tại, chưa
có đủ điều kiện nghiên cứu bổ sung một cách toàn diện mọi vấn đề trong một lúc,
cho nên yêu cầu của thông tư này chỉ nhằm giải thích rõ hơn một số trường hợp về
cách tính nhân khẩu nông nghiệp (nghề chính, nghề phụ) và cách tính thuế, để
trong dịp tính thuế năm 1958, các địa phương có thể áp dụng sát với từng trường
hợp cụ thể. Ngoài ra, những điểm đã giải thích theo thông tư số 367-TT-TC/NN
ngày 25 tháng 10 năm 1957 nói chung không có gì thay đổi; đó vẫn là văn bản hướng
dẫn việc thi hành điều lệ thuế nông nghiệp.
I. CÁCH TÍNH NHÂN KHẨU NÔNG NGHIỆP
1) “Để khuyến khích nông dân
khôi phục và phát triển nghề phụ, những người làm nghề phụ vẫn được tính nhân
khẩu nông nghiệp” (Điều 14 điều lệ thuế nông nghiệp vùng đã cải cách ruộng
đất).
Cần thống nhất nhận định: nghề
phụ của người nông dân là những nghề mà nông dân làm thêm trong thì giờ nhàn rỗi,
công việc đồng áng không có gì, tự mình làm lấy với một số dụng cụ thô sơ. Đó
là một số nghề thủ công hoặc một số công việc lặt vặt, hoa lợi thu được chỉ
thêm một phần vào đời sống chứ không phải là nguồn thu hoạch chính hằng năm của
gia đình. Như vậy, những người làm một nghề nào đó một cách thường xuyên và
chuyên nghiệp, cố định kinh doanh một ngành thành công, thương nào đó, đều
không coi là nông dân làm thêm nghề phụ.
2) Ở một số vùng có những gia
đình nông dân tuy đủ ruộng đất nhưng đồng thời vẫn còn chuyên nghiệp làm
một số nghề khác (sản xuất để bán hoặc gia công cho Mậu dịch hoặc đi làm công)
như nghề thợ rèn, nghề dệt, ép đường, làm nồi, làm chiếu, thợ may, cắt tóc, làm
gạch, làm ngói, làm bún, thợ mộc, thợ nề v .v… Một số người hoặc tất cả gia
đình vừa tham gia sản xuất nông nghiệp, vừa làm các nghề thủ công nói trên. Hoa
lợi của những nghề này cũng là nguồn sống chính của gia đình cộng với phần thu
hoạch của ruộng đất.
Do đó, lúc kê khai tính thuế, những
người được xác nhận là nhân công chuyên nghiệp của những nghề trên sẽ không được
tính là nhân khẩu nông nghiệp của nông hộ.
Ví dụ: Gia đình ông An, hai vợ
chồng, một con lớn, hai con nhỏ, đến mùa tất cả nhà đều làm ruộng, nhưng đồng
thời ông An và người con lớn lại chuyên nghề rèn làm nguồn sống chính thì lúc
tính thuế sẽ trừ hai người này không được tính nhân khẩu nông nghiệp.
3) Đối với những gia đình trước
cải cách ruộng đất là dân nghèo, nguồn sống chính là buôn bán, hoặc làm công v
.v… ở các ngoại ô thành phố, các thị trấn, trong cải cách ruộng đất đã được
chia ruộng nhưng vì phân công nhiều, ruộng ít, không đủ sống nên vẫn phải làm
nghề khác (có đăng ký hoặc có thể không có đăng ký của cơ quan công thương) thì
dựa vào hoa lợi nông nghiệp bảo đảm được mấy người thì tính bấy nhiêu nhân khẩu
nông nghiệp với tiêu chuẩn là 250 cân thóc cho một người trong một năm.
4) Để hạn chế số người không trực
tiếp sản xuất, những người chuyên buôn bán dù to, dù nhỏ, dù trong ngày mùa có
phần nào tham gia sản xuất nông nghiệp cũng không được tính nhân khẩu nông nghiệp.
5) Nghề nuôi tằm ở nước ta hiện
nay cần được khuyến khích phát triển nêu những gia đình nuôi tằm quanh năm, thu
hoạch khá, cũng vẫn tạm thời được tính nhân khẩu nông nghiệp.
Điểm cần chú ý là: Trong việc
phân biệt nghề chính hay nghề phụ để tính nhân khẩu nông nghiệp hoặc trừ nhân
khẩu nông nghiệp cần nhận xét cụ thể về tính chất có thường xuyên, chuyên nghiệp
hay không, thời gian nhiều hay ít, trong một năm, hoa lợi thu hoạch về nghề
công, thương có phải là nguồn sống chính của một số người trong nông hộ hay
không.
Có như vậy mới tránh được lầm lẫn
với nghề phụ của nông dân nghĩa là nghề làm ruộng vẫn là nguồn sống chính, mọi
năng lực trong gia đình đều tập trung vào công việc sản xuất nông nghiệp, chỉ
những lúc nhàn rỗi mới làm thêm các nghề thủ công lặt vặt, hoa lợi chẳng đáng
là bao, để thêm chút ít vào nguồn sống gia đình. Nếu việc tính nhân khẩu không
thận trọng, không cân nhắc, qua dễ dãi đối với những nôn dân lơ là công việc đồng
ánh để đi buôn hoặc làm nghề khác v .v… sẽ ảnh hưởng đến việc tập trung lực lượng
tăng năng suất ruộng đất bảo đảm thu hoạch đúng và vượt mức kế hoạch. Hoặc trái
lại không nắm vững chính sách đối với những nông dân có làm thêm nghề phụ, cắt nhân
khẩu, một cách không đúng sẽ làm cho bà con nông dân thắc mắc, không phấn khởi
phát triển nghề phụ trong gia đình để nâng dần mức sinh hoạt hàng ngày.
II. CÁCH TÍNH THUẾ
Bộ giải thích và bổ sung thêm một
số điểm:
1) Những hồ ao chuyên dùng để
ươm cá con, mặc dù thu hoạch nhiều vẫn được miền thuế đúng như quy định của
chính sách “phát triển nghề cá” của Chính phủ.
Những hồ, ao chuyên dùng để ươm
cá con là:
- Những hồ ao chuyên thả cá bột
vớt ở sông (tập trung ở các vùng gần sông lớn như Hà đông, Hưng yên, Hà nam, Hà
nội …) những nơi này đều là những cơ sở có cơ quan Nông lâm hướng dẫn.
- Những hồ ao chuyên mua cá bột ở
những vùng trên về nuôi thành cá con để bán cho đồng bào thả cá thịt.
Còn những trường hợp hồ ao nuôi
cá con trong một thời gian ngắn rồi bán, đồng thời để lại một ít cuối năm bán
cá thịt hoặc để ăn thì không gọi là hồ ao ươm cá con được miễn thuế, mà phải chịu
thuế như các loại hồ, ao khác.
2) Đối với thương binh, quân
nhân phục viên:
- Đối với quân nhân chuyển ngành
sang các cơ quan công tác, một năm sau chế biến về nông thôn sản xuất, nếu sống
chung với gia đình thì gia đình được giảm thuế 50 kilô thóc trong thời hạn một
năm; nếu thành lập nông hộ riêng thì riêng phần ruộng đất của bản thân cũng được
miễn thuế một năm.
- Trong trường hợp thương binh,
quân nhân phục viên về nông thôn sản xuất nay đã đến hạn chịu thuế nhưng vì sản
xuất gặp khó khăn, thu hoạch có năm không đủ sống. Ban thuế xã cần xét và đề
nghị Ủy ban Hành chính tỉnh cho hoãn, giảm hoặc miễn hẳn thuế theo tinh thần điều
27 của điều lệ để chiếu cố đến hoàn cảnh thực tế của từng người, động viên tinh
thần phấn khởi sản xuất.
- Riêng đối với một số thương
binh, miền Nam về sản xuất ở nông thôn, sống một mình hoặc lấy vợ lập nông hộ
riêng, sau khi hết hạn miễn thuế, thường phải chịu thuế theo thuế suất cao ví
ít nhân khẩu nông nghiệp, thì kể từ năm nay; đến hạn chịu thuế, thuế sẽ tính
theo biểu thuế chung, nhưng thuế suất tối đa chỉ đến 15%. Đối với những thương
binh miền Nam về sống chung với gia đình vợ thì gia đình vợ chỉ được giảm thuế
như đã quy định trong hai năm mỗi năm 50 kilô thóc.
Trên đây là một số điểm Bộ giải
thích và bổ sung thêm về cách thi hành điều lệ thuế Nông nghiệp hiện nay. Đề
nghị các địa phương nghiên cứu kỹ bản giải thích cũ (thông tư số 367-TT/TC/NN
ngày 25 tháng 10 năm 1957) và các thông tư bổ sung, kết hợp với những ý kiến
trên để áp dụng cho sát với tình hình cụ thể từng nơi.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Thanh Sơn
|