|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Thông tư 120-TTg chủ trương ổn định nghĩa vụ thuế nông nghiệp trong ba năm 1963, 1964, 1965
Số hiệu:
|
120-TTg
|
|
Loại văn bản:
|
Thông tư
|
Nơi ban hành:
|
Thủ tướng Chính phủ
|
|
Người ký:
|
Phạm Hùng
|
Ngày ban hành:
|
30/12/1963
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đã biết
|
|
Số công báo:
|
Đã biết
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
120-TTg
|
Hà
Nội, ngày 30 tháng 12 năm 1963
|
THÔNG TƯ
VỀ CHỦ TRƯƠNG ỔN ĐỊNH NGHĨA VỤ THUẾ NÔNG NGHIỆP TRONG BA NĂM
1963, 1964, 1965
Mấy năm qua, dựa vào điều lệ thuế
nông nghiệp ban hành sau cải cách ruộng đất, Chính phủ đã cho thi hành nhiều chủ
trương về thuế nông nghiệp nhằm ổn định việc đóng góp ở nông thôn, đẩy mạnh sản
xuất, cũng cố hợp tác xã nông nghiệp.
Những chủ trương này đã góp phần
làm cho sản xuất nông nghiệp phát triển, đời sống ở nông thôn được cải thiện,
tích lũy của hợp tác xã nông nghiệp được mở rộng.
Việc thi hành các nghị quyết hội
nghị Trung ương lần thứ 5, thứ 7, thứ 8 và cuộc vận động cải tiến quản lý hợp
tác xã nông nghiệp đang tạo khả năng cho sản xuất nông nghiệp phát triển toàn
diện, mạnh mẽ, vững chắc, phát huy tính hơn hẳn của lối làm ăn tập thể, nâng
cao đời sống của nông dân, đồng thời góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa.
Trong khi chờ đợi ban hành một
chính sách thuế nông nghiệp mới, phù hợp với quan hệ sản xuất mới ở nông thôn
hiện nay, giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa Nhà nước với nông dân, với hợp
tác xã nông nghiệp, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nước
nhà.
Để tiếp tục cải thiện đời sống
nông dân, khuyến khích sản xuất nông nghiệp phát triển, tiếp theo việc ổn định
nghĩa vụ lương thực đến năm 1965.
Căn cứ đề nghị của Hội Đồng
Chính phủ, ngày 18 tháng 12 năm 1963, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ra quyết định
213-NQ-TVQH về chủ trương ổn định nghĩa vụ thuế nông nghiệp từ nay đến 1965
(1963, 1964,1965).
Nội dung cụ thể
chủ trương ổn định nghĩa vụ thuế nông nghiệp từ nay đến 1965 như sau:
1. Tiếp
tục dùng sản lượng ruộng đất đã định năm 1958 theo chỉ thị số 405-TTg ngày 14
tháng 08 năm 1958 của Thủ tuớng Chính phủ để tính thuế cho đến hết năm 1965.
Từ nay đến hết năm 1965, chỉ đối
với các loại ruộng đất tăng vụ ở miền xuôi do có công trình thủy lợi nếu hết hạn
miễn thuế, mới định sản lượng lại; ở miền núi, các loại ruộng đất tăng vụ vẫn
được miễn thuế theo như mười chính sách khuyến khích sản xuất miền núi.
2. Tiếp
tục tính thuế theo thuế suất đã quy định ở điểm 2, điều 1 nghị định số 63–CP
ngày 26 thánên5 năm 1962 của Hội đồng Chính phủ cho đến hết năm 1965.
Tất cả mọi trường hợp mở rộng sản
xuất, tăng hay giảm diện tích canh tác, sản lượng, nhân khẩu nông nghiệp đều
không tính lại thuế suất nữa.
3. Coi số
diện tích ruộng đất đã được miễn thuế từ trước cho đến năm 1963 theo như quy định
của điều 4 điều lệ thuế nông nghiệp số 715-TTg ngày 24 tháng 03 năm 1956 là số
diện tích được tiếp tục miễn thuế cho đến hết năm 1965.
Từ nay đến hết năm 1965, ngoài số
diện tích đã được miễn thuế nói trên, Nhà nước chỉ miễn thuế thêm trong hai trường
hợp sau đây:
- Ruộng đất do Nhà nước lấy để
làm các công trình kiến thiết cơ bản của Nhà nước , hay để làm những công trình
đại và trung thủy nông;
- Ruộng đất do hợp tác xã lấy để
làm sân phơi, nhà kho.
Tất cả các trường hợp khác,
ngoài hai trường hợp nói trên, hợp tác xã và nông dân cá thể có thay đổi cách sử
dụng ruộng đất nhằm chuyển hướng canh tác, thâm canh tăng năng suất, tăng vụ,
tăng thu nhập, v.v… thì dù số diện tích ruộng đất canh tác có giảm,
Nhà nước cũng không thay đổi diện tích tính thuế nữa. Đồng thời, đối với số diện
tích ruộng đất miễn thuế đã được ổn định, nếu sử dụng hợp lý, tiết kiệm mà dành
một phần để canh tác, do đó diện tích ruộng đất canh tác dù tăng thì Nhà nước
cũng không tăng thêm diện tích tính thuế nữa.
4. Ổn định
mức thuế nông nghiệp bằng lương thực từ nay cho đến hết năm 1965 và phân biệt
như sau:
- Đối với những hợp tác xã nông
hộ cá thể trồng cây lương thực là chủ yếu thì thuế nông nghiệp nộp hoàn toàn bằng
lương thực.
- Đối với những hợp tác xã nông
hộ cá thể vừa trồng cây lương thực, vừa trồng cây công nghiệp, rau …, những năm
qua vẫn nộp thuế bằng lương thực thì mức ổn định giao căn cứ vào số thuế đã nộp
bằng lương thực trong mấy năm gần đây, nhất là năm 1962.
- Đối với những hợp tác xã và
nông hộ cá thể trồng cây công nghiệp, rau… là chủ yếu, thu hoạch về lương thực
quá ít, hàng năm Nhà nước vẫn phải phân phối lương thực thêm theo kế hoạch thì
không phải nộp thuế nông nghiệp bằng lương thực.
Sau khi mức thuế nộp bằng lương
thực được tuyên bố ổn định, chỉ trong tình hình sản xuất lương thực có thay đổi
lớn hoặc bị mất mùa nặng, mới xét điều chỉnh mức.
Ổn định nghĩa vụ đóng thuế nông
nghiệp ở nông thôn theo các quy định nói trên là ổn định là cơ sở tính thuế (diện
tích, sản lượng...) và ổn định mức thuế nộp bằng lương thực . Ở những nơi đồng
bào chuyên sống về nương rẫy, sản xuất không ổn định, do đó cơ sở tính thuế
không ổn định thì công tác thuế nông nghiệp vẫn hiện hành theo chính sách thuế
nương rẫy hiện hành.
Để thực hiện tốt
chủ trương ổn định nghĩa vụ thuế nông nghiệp, Bộ Tài chính có trách nhiệm hướng
dẫn các Ủy ban hành chình địa phương tổ chức thi hành thông tư này và cần chú
trọng mấy điểm sau đây:
1. Tổ
chức phổ biến chu đáo ý nghĩa và nội dụng chủ trương ổn định nghĩa vụ thuế nông
nghiệp cho cán bộ, xã viên hợp tác xã nông nghiệp và nông dân các thể, làm cho
mọi người nhận rõ chủ trương này được đề ra trước hết là xuất phát từ lợi ích của
nông dân, của sản xuất nông nghiệp, của việc củng cố hợp tác xã nông nghiệp; đồng
thời, bảo đảm nhu cầu của Nhà nước về tài chính và lương thực.
Mấy năm trước đây, sản xuất
tăng, đời sống nông dân tăng, nhưng thuế nông nghiệp không tăng. Vài năm trước
mắt, sản xuất có điều kiện phát triển hơn đời sống nông dân có điều kiện tăng
hơn, nhưng thuế cũng vẫn không tăng, trong khi Nhà nước phải tập trung vốn để
bước đầu xây dụng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Điều đó có
thể hiện sự chiếu cố thích đáng của Nhà nước đối với nông dân.
Chỉ có làm cho nông dân hiểu
đúng đắn như vậy thì mới động viên được nông dân hăng hái sản xuất, làm đầy đủ
nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.
2. Hiện
nay, ở nông thôn đang dồn dập nhiều công tác quan trọng như sản xuất vụ đông
xuân, tiến hành thu mua lương thực, và các loại nông sản khác, v.v… Vì vậy, cần
có kế hoạch kết hợp công tác chu đáo, kiên quyết hoãn các công việc chưa thật cần
thiết, tập trung lãnh đạo, tập trung cán bộ vào các công tác chính. Việc lập sổ
thuế nông nghiệp năm 1963 theo các quy định trong thông tư này phải làm xong về
căn bản trước tết âm lịch; nếu nơi nào đã lập xong số thuế năm 1963 chưa theo
đúng thông tư này phải thẩm tra và chỉnh lý lại.
3. Việc
lập sổ thuế nông nghiệp năm 1963 rất quan trọng, vì đó là chỗ dựa để tiến hành
thu thuế nông nghiệp trong các năm 1964, 1965. làm tốt việc này thì khối lượng
công tác thuế nông nghiệp ở nông thôn trong các năm 1964, 1965 giảm được nhiều,
chủ trương ổn định nghĩa vụ thuế nông nghiệp, ổn định nghĩa vụ lương thực sẽ
càng phát huy tác dụng, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp.
Cần xác định đúng đắn diện tích
tính thuế, vì đây là khâu quan trọng nhất trong toàn bộ công tác lập sổ thuế, ổn
định nghĩa vụ thuế nông nghiệp. Do đó, cần tập trung lãnh đạo, tập trung cán bộ
ở khâu này.
Hội đồng Chính phủ tin tưởng rằng
vì lợi ích của nông dân, của việc củng cố hợp tác xã nông nghiệp, của việc phát
triển sản xuất nông nghiệp, đồng thời vì lợi ích của sự nghiệp công nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa nước nhà, các cấp, các ngành có liên quan và nông dân ta hãy
hăng hái thi hành nghiêm chỉnh chủ trương ổn định nghĩa vụ thuế nông nghiệp của
Đảng và Nhà nước.
|
K.T THỦ TƯỚNG
CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
Phạm Hùng
|
Thông tư 120-TTg năm 1963 về chủ trương ổn định nghĩa vụ thuế nông nghiệp trong ba năm 1963, 1964, 1965 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh
Thông tư 120-TTg ngày 30/12/1963 về chủ trương ổn định nghĩa vụ thuế nông nghiệp trong ba năm 1963, 1964, 1965 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
4.951
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
info@ThuVienPhapLuat.vn
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|