BỘ TÀI CHÍNH
********
|
CỘNG HOÀ XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 12-TC/TCT
|
Hà Nội, ngày
25 tháng 2 năm 1993
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 12-TC\TCT NGÀY 25-2-1993 HƯỚNG DẪN THI HÀNH
CHỈ THỊ SỐ 208-TTg NGÀY 29-12-1992 CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC TIẾP TỤC LẬP
SỔ THUẾ THEO HỘ GIA ĐÌNH
Thi hành Chỉ thị số 208-TTg ngày
29-12-1992 của Thủ tướng chính phủ về việc tiếp tục lập sổ thuế theo hộ gia
đình; Bộ Tài chính hướng dẫn như sau:
I. Căn cứ vào
công văn số 1001-TC/TCT/TNN ngày 21-9-1992 của Tổng cục thuế hướng dẫn việc
đánh giá kết quả lập sổ theo hộ gia đình và thực hiện lập sổ thuế theo hộ gia
đình và thực hiện lập sổ thuế năm 1993; Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố tập
trung sơ kết, đánh giá tình hình và kết quả lập sổ thuế và thu thuế theo hộ gia
đình trong năm 1992; Rút kinh nghiệm trực tiếp ở các xã chỉ đạo điểm (nếu có)
trên các mặt chủ yếu sau đây:
1. Đặc điểm tổ chức quản lý sản
xuất nông nghiệp; quản lý, phân chia, sử dụng ruộng đất ở địa phương ảnh hưởng
đến việc lập sổ thuế và thu thuế theo hộ; cách làm và những vấn đề cần khắc phục
xử lý v.v..
2. Những biện pháp chỉ đạo và hiệu
quả mang lại ...;
3. Kết quả triển khai lập sổ thuế
và thu thuế theo hộ;
4. Bài học kinh nghiệm và kiến
nghị;
5. Kế hoạch tiến hành trong năm
1993.
II. Xử lý những
vướng mắc trong quá trình lập sổ thuế và thu thuế theo hộ gia đình
1. Về điện tích
chịu thuế: Theo quy định tại mục II-1b. Thông tư số 21-TC/TCT ngày 18-6-1992 của
Bộ Tài chính, xử lý những vướng mắc về diện tích các trường hợp cụ thể như sau:
a) Do đo đạc sai hoặc có chênh lệch
giữa diện tích tính thuế và diện tích đo đạc thì phải thực hiện đo đạc lại. Trường
hợp không đo đạc lại được, thì cơ quan quản lý ruộng đất tỉnh phải xác nhận vào
sự chênh lệch đó và thực hiện tính thuế theo tờ khai của hộ sử dụng đất.
b) Không phân bổ diện tích kênh
mương thuỷ lợi nội đồng dùng chung cho một cánh đồng vào diện tích chịu thuế của
từng hộ, nhưng phải phân bổ số thuế này cho từng hộ nhận khoán. Diện tích bờ gắn
vào thử ruộng nào thì tích vào diện tích chịu thuế của thửa ruộng đó tính từ
tâm bờ rào ruộng.
c) Diện tích đất nông nghiệp
dùng vào thổ cư, giao thông, thuỷ lợi, xây dựng.... chưa được cấp có thẩm quyền
xét duyệt, thì tổ chức, cá nhân sử dụng có trách nhiệm nộp thuế. Trường hợp những
diện tích này đã kê khai tính thuế đất ở, đất xây dựng công trình thì phải kiểm
tra lại chặt chẽ để xác định rõ ranh giới thuế đất và thuế nông nghiệp do cục
thuế tỉnh quyết định sau khi có sự đồng ý của Tổng cục thuế.
d) Diện tích ao, hồ, mặt nước, đồng
cỏ, bãi bồi, diện tích hoang hoá. .. không quy chủ và thực tế không ai sử dụng
thì không lập sổ thuế, nhưng phải kiểm tra xác định lại, lập biên bản được cơ
quan quản lý ruộng đất tỉnh xác nhận trình Uỷ ban nhân dân tỉnh đưa ra khỏi hộ
thuế.
2. Về thuế ghi
thu: Tuỳ đặc điểm đất đai và thực tế sản xuất nông nghiệp của từng hợp tác xã,
xã, thôn, ấp mà xác định thuế ghi thu của từng hộ xã viên; nhưng nguyên tắc
chung là thuế ghi thu trên đất nhận khoán của các hộ xã viên bao gồm cả đất làm
kinh tế gia đình (nếu có) cộng thuế ghi thu trên đất giao cho tổ chức, cá nhân
khác sử dụng và thuế ghi thu trên đất nông nghiệp chuyển sang sử dụng vào mục
đích khác chưa được cấp có thẩm quyền quyết định phải bằng tổng số thuế ghi thu
của cả hợp tác xã.
Trên cơ sở tổng số thuế ghi thu
của cả hợp tác xã xác định:
a) Thuế ghi thu của ao, hồ, đầm
và mặt nước dùng vào nuôi trồng thuỷ sản.
b) Thuế ghi thu trên đất thổ
canh, đất vườn (nếu có), đất trồng cây lâu năm.
c) Thuế ghi thu trên đất mạ, đất
khác.
Căn cứ vào kết quả xác định được
thuế ghi thu của các loại đất trên và diện tích sử dụng của từng đối tượng mà
xác định thuế ghi thu của từng đối tượng theo quy định tại mục II-3b của Thông
tư số 21-TC/TCT ngày 18-6-1992 của Bộ Tài chính.
d) Phần còn lại là thuế ghi thu
trên đất ruộng trồng cây hàng năm cũng được chia theo các đối tượng sử dụng đất
được quy định tại mục II-3b của Thông tư số 21-TC/TCT ngày 18-6-1992 của Bộ Tài
chính theo thứ tự sau:
- Thuế ghi thu trên đất giao cho
tổ chức, cá nhân khác không phải là hộ gia đình xã viên kể cả do xã dùng vào việc
xây dựng ngân sách xã.
- Thuế ghi thu trên đất chuyển
sang sử dụng vào mục đích khác chưa được cấp có thẩm quyền quyết định.
- Thuế ghi thu trên đất nhận
khoán của các hộ gia đình xã viên bao gồm cả đất làm kinh tế gia đình (nếu có).
Tổng hợp thuế ghi thu các mục a,
b, c, d lại thành thuế ghi thu của cả hợp tác xã và chi tiết theo từng hộ gia
đình xã viên và các đối tượng khác.
e) Về phân hạng đất và xác định
thuế ghi thu của từng hộ gia đình xã viên.
Căn cứ vào tổng số thuế ghi thu
trên đất nhận khoán của các hộ gia đình xã viên bao gồm cả đất làm kinh tế gia
đình (nếu có); thực hiện phân hạng đất tính thuế đối vói từng hộ xã viên nhận
khoán theo quy định tại mụa II-2 Thông tư số 21-TC/TCT. ở những nơi ruộng đất
quá phức tạp, manh mún... khó thực hiện phân hạng đất, Uỷ ban nhân dân huyện phải
chỉ đạo Chi cục thuế và Uỷ ban nhân dân các xã thực hiện:
- Họp đại hội xã viên để tuyên
truyền giải thích chính sách và động viên nông dân;
- Xử lý ngay những vướng mắc của
nông dân về ăn chia phân phối, về giao ruộng v.v...;
- Trường hợp có quá nhiều bậc
năng suất khoán, phải chỉ đạo các hợp tác xã thu hẹp số bậc lại trước khi phân
hạng đất;
- Kết hợp chặt chẽ việc phân loại
ruộng đất theo từng khoảnh thửa, từng cánh đồng trên thực tế và bản đồ với năng
suất khoán để ghép các loại ruộng đất cùng cánh đồng hoặc cùng điều kiện canh
tác, cùng độ phì và điều kiện tưới tiêu vào cùng một hạng đất.
3. Tổ chức thực
hiện:
a) Những nơi năm 1992 về trước
đã phân bổ số thuế cho từng hộ gia đình, thì trong năm 1993 phải hoàn chỉnh số
thuế: Xác định diện tích tính thuế, hạng đất tính thuế và thuế ghi thu của từng
hộ gia đình thay cho cách phân bổ trước đây.
b) Những nơi năm 1993 mới triển
khai thì phải căn cứ vào sổ thuế của xã và hợp tác xã được duyệt, Chi cục thuế
chỉ đạo ban thuế (đội thuế) xã hướng dẫn các hợp tác xã xác định diện tích và
thực hiện phân hạng đất tính thuế của hợp tác xã theo hộ gia đình xã viên theo
hướng dẫn của Thông tư số 21-TC/TCT ngày 18-6-1992 và hướng dẫn thêm tại Thông
tư này của Bộ Tài chính.
4. Thi hành quy
định tại điểm 3, Điều 8 Nghị định số 281-HĐBT ngày 7-8-1990 của Hội đồng Bộ trưởng, điểm 4 Chỉ thị số 208-TTg
ngày 29-12-1992 của Thủ tướng Chính phủ và công văn số 4239-PPLT ngày
30-11-1991 của văn phòng Hội đồng Bộ trưởng về việc trích kinh phí để lại cho
xã phục vụ cho tổ chức thu thuế nông nghiệp; Để đảm bảo tốt việc thực hiện thu
thuế theo hộ gia đình, Bộ Tài chính quy định khoản kinh phí thuế nông nghiệp xã
tính theo tỷ lệ (%) trên số thuế nông nghiệp thu được hàng năm thực hiện từ năm
1993 trở đi như sau:
Loại xã
|
Tỷ lệ % trích
theo các hình thức tổ chức thu thuế
|
|
Uỷ ban nhân dân
xã đảm bảo tổ chức thu thuế ở xã
|
Đã có đội thuế
xã (có cán bộ thuộc biên chế Nhà nước)
|
1. Xã đồng bằng
2. Xã trung du
3. Xã miền núi
|
2,0%
3,0%
8,0%
|
1,5%
2,5%
6,5%
|
Quy định này thay quy định tại
điểm 8 Thông tư số 73-TC/TCT ngày 10-12-1991 của Bộ Tài chính.
Nội dung chi, cấp phát quản lý
khoản kinh phí này vẫn theo quy định tại điểm 8 Thông tư số 73-TC/TCT ngày
10-12-1991 của Bộ Tài chính.
5. Tăng cường sự
chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân các cấp với công tác lập sổ thuế theo hộ gia đình.
Cơ quan thuế tỉnh phải thường
xuyên báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố về tình hình khó khăn, thuận lợi,
tiến độ và kết quả lập sổ thuế theo hộ gia đình ở địa phương; Đồng thời phải
tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh biện pháp xử lý những tồn tại, vướng mắc
trong quá trình tổ chức thực hiện, chỉ đạo uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã,
quận triển khai thực hiện.
Dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố, cơ quan thuế tỉnh phải kết hợp chặt chẽ với cơ quan quản
lý ruộng đất, nông nghiệp chỉ đạo các huyện, thị và trực tiếp giúp cơ sở xử lý
những vướng mắc.
Thông tư này cùng với Thông tư số
21-TC/TCT ngày 18-6-1992 của Bộ Tài chính nhằm hướng dẫn những vấn đề cơ bản
trong quá trình tổ chức thực hiện lập sổ thuế và thu thuế nông nghiệp theo hộ
gia đình xã viên. Trong quá trình thực hiện có gì vướng mắc đề nghị các địa
phương phản ánh về Bộ Tài chính, Tổng Cục thuế để tiếp tục xử lý.