BỘ NGOẠI GIAO
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
32/2014/TB-LPQT
|
Hà Nội, ngày 07
tháng 05 năm 2014
|
THÔNG BÁO
VỀ VIỆC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ CÓ HIỆU LỰC
Thực hiện quy định tại Khoản
3, Điều 47 của Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005,
Bộ Ngoại giao trân trọng thông báo:
Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Niu Di-lân về tránh đánh thuế hai lần và ngăn
ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập, ký tại Hà Nội
ngày 05 tháng 8 năm 2013, có hiệu lực kể từ ngày 05 tháng 5 năm 2014.
Bộ Ngoại giao trân trọng gửi bản sao Hiệp định theo
quy định tại Điều 68 của Luật nêu trên.
|
TL. BỘ TRƯỞNG
KT. VỤ TRƯỞNG
VỤ LUẬT PHÁP VÀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
PHÓ VỤ TRƯỞNG
Nguyễn Văn Ngự
|
HIỆP ĐỊNH
GIỮA CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CHÍNH PHỦ NƯỚC
NIU DI-LÂN VỀ TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN VÀ NGĂN NGỪA VIỆC TRỐN LẬU THUẾ ĐỐI VỚI
CÁC LOẠI THUẾ ĐÁNH VÀO THU NHẬP
Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Niu Di-lân,
Mong muốn ký kết một Hiệp định về việc
tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế
đánh vào thu nhập,
Đã thỏa
thuận dưới đây:
Điều 1. PHẠM VI
ÁP DỤNG
Hiệp định này áp dụng đối với các đối
tượng là những đối tượng cư trú của một hoặc của cả hai Nước ký kết.
Điều 2. CÁC LOẠI
THUẾ BAO GỒM TRONG HIỆP ĐỊNH
1. Hiệp định này áp dụng đối với các
loại thuế do một Nước ký kết đánh vào thu nhập, bất kể hình thức áp dụng của
các loại thuế đó như thế nào.
2. Tất cả các loại thuế thu trên tổng
thu nhập, hoặc những phần của thu nhập
bao gồm các khoản thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng động sản hoặc bất động
sản, và các loại thuế đánh trên tổng số tiền lương hoặc tiền công do doanh nghiệp
chi trả sẽ được coi là các loại thuế đánh vào thu nhập.
3. Các loại thuế hiện hành được áp dụng
trong Hiệp định này cụ thể là:
(a) tại Việt Nam:
(i) thuế thu nhập cá nhân; và
(ii) thuế thu nhập doanh nghiệp
(dưới đây được gọi là “thuế Việt Nam”);
(b) tại Niu Di-lân: thuế thu nhập
(dưới đây được gọi là “thuế Niu Di-lân”).
4. Hiệp định này cũng sẽ được áp dụng đối với các
loại thuế có tính chất tương tự hoặc về cơ bản giống như các loại thuế trên được
ban hành sau ngày ký Hiệp định này để bổ sung, hoặc thay thế các loại thuế hiện
hành. Các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ thông báo cho
nhau biết những thay đổi quan trọng trong các luật thuế của từng Nước.
Điều 3. CÁC ĐỊNH NGHĨA CHUNG
1. Theo nội dung của Hiệp định này, trừ trường hợp
ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác:
(a) thuật ngữ “Việt Nam” có nghĩa là nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam; khi dùng theo nghĩa địa lý, thuật ngữ này có nghĩa
là lãnh thổ đất liền, các hải đảo, nội thủy, lãnh hải và vùng trời phía trên
đó, vùng biển ngoài lãnh hải, bao gồm cả đáy biển và lòng đất dưới đáy biển mà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán phù hợp với pháp luật quốc gia và luật pháp quốc tế;
(b) thuật ngữ “Niu Di-lân” có nghĩa là lãnh thổ của
Niu Di-lân nhưng không bao gồm Tokelau; thuật ngữ này cũng bao gồm bất kỳ vùng
nào ngoài lãnh hải được quy định theo pháp luật của
Niu Di-lân và phù hợp với luật pháp quốc tế như một vùng tại đó Niu Di-lân có
thể thực hiện các quyền chủ quyền đối với tài nguyên thiên nhiên;
(c) thuật ngữ “đối tượng” bao gồm cá nhân, công ty
và bất kỳ tổ chức của nhiều đối tượng nào khác;
(d) thuật ngữ “công ty” có nghĩa là bất kỳ tổ chức
công ty hoặc bất kỳ một thực thể nào được coi là tổ chức công ty dưới giác độ
thuế;
(e) thuật ngữ “doanh nghiệp của một Nước ký kết” và
“doanh nghiệp của Nước ký kết kia” theo thứ tự có nghĩa là một doanh nghiệp được
điều hành bởi một đối tượng cư trú của một
Nước ký kết và một doanh nghiệp được điều hành bởi một đối tượng cư trú của Nước
ký kết kia;
(f) thuật ngữ “vận tải quốc tế” có nghĩa là bất kỳ sự vận chuyển nào bằng tàu thủy hoặc
máy bay được thực hiện bởi một doanh nghiệp của một Nước ký kết, trừ trường hợp
khi chiếc tàu thủy hoặc máy bay đó chỉ hoạt động giữa những địa điểm trong Nước
ký kết kia;
(g) thuật ngữ “nhà chức trách có thẩm quyền” có
nghĩa là:
(i) trong trường hợp của Niu Di-lân, là Tổng cục
Trưởng Cục thu nội địa hoặc người đại diện được ủy quyền; và
(ii) trong trường hợp của Việt Nam, là Bộ trưởng Bộ
Tài chính hoặc người đại diện được ủy quyền;
(h) thuật ngữ “đối tượng mang quốc tịch”, có liên
quan đến một Nước ký kết, có nghĩa là:
(i) trong trường hợp của Việt Nam, là bất kỳ cá
nhân nào mang quốc tịch của Việt Nam và trong trường
hợp của Niu Di-lân, là bất kỳ cá nhân nào có quyền công dân của Niu
Di-lân; và
(ii) bất kỳ pháp nhân, công ty hợp danh hoặc hiệp hội
nào có tư cách theo các luật có hiệu lực tại Nước ký kết đó;
(i) thuật ngữ “Nước ký kết” và “Nước ký kết kia” có
nghĩa là Niu Di-lân hoặc Việt Nam, tùy ngữ cảnh đòi hỏi.
2. Trong khi một Nước ký kết áp dụng Hiệp định này
vào bất kỳ thời điểm nào, bất kỳ thuật ngữ nào chưa được định nghĩa tại Hiệp định
này sẽ có nghĩa theo như định nghĩa tại luật của Nước đó, đối với các loại thuế
mà Hiệp định này áp dụng vào thời điểm
đó, bất kỳ nghĩa nào theo các luật thuế được áp dụng của Nước đó sẽ có giá trị
cao hơn nghĩa của thuật ngữ đó theo các luật khác của Nước đó, trừ trường hợp
ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác.
Điều 4. ĐỐI TƯỢNG CƯ TRÚ
1. Theo nội dung của Hiệp định này, thuật ngữ “đối
tượng cư trú của một Nước ký kết” có nghĩa là bất kỳ đối tượng nào, mà theo các
luật của Nước đó, là đối tượng chịu thuế căn cứ vào nơi cư trú, nhà ở, trụ sở
đăng ký, trụ sở thành lập, trụ sở điều hành, hoặc bất kỳ tiêu chuẩn nào khác có
tính chất tương tự, và cũng bao gồm cả Nhà nước đó hoặc bất kỳ cơ quan chính
quyền địa phương nào của Nhà nước đó. Tuy nhiên, thuật ngữ này không bao gồm bất
kỳ đối tượng nào là đối tượng chịu thuế tại Nước đó chỉ đối với thu nhập từ các
nguồn tại Nước đó.
2. Trường hợp theo các quy định tại khoản 1, khi một
cá nhân là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết, thì thân phận cư trú của cá
nhân đó sẽ được xác định như sau:
(a) cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ
của Nước mà tại đó cá nhân đó có nhà ở thường trú; nếu cá nhân đó có nhà ở thường
trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ của Nước mà
cá nhân đó có các quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ hơn (trung tâm của các
quyền lợi chủ yếu);
(b) nếu không thể xác định được Nước ký kết nơi cá
nhân đó có trung tâm các quyền lợi chủ yếu, hoặc nếu cá nhân đó không có nhà ở
thường trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ của Nước
mà cá nhân đó thường sống;
(c) nếu cá nhân đó thường xuyên sống ở cả hai Nước
hoặc không thường xuyên ở Nước nào, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú
chỉ của Nước mà cá nhân đó mang quốc tịch;
(d) nếu cá nhân đó là đối tượng mang quốc tịch của
cả hai Nước hoặc không mang quốc tịch của Nước nào, các nhà chức trách có thẩm
quyền của hai Nước ký kết sẽ giải quyết vấn đề đó bằng thỏa thuận chung.
3. Trường hợp theo các quy định tại khoản 1, một đối
tượng không phải là cá nhân, là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết, khi đó
đối tượng trên sẽ được coi là đối tượng
cư trú chỉ của Nước có trụ sở điều hành thực tế của đối tượng đó. Nếu không xác
định được Nước nơi có trụ sở điều hành thực tế, hoặc trụ sở điều hành thực tế
không có ở Nước nào, khi đó các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
sẽ cố gắng để xác định Nước mà có đối tượng sẽ được coi là đối tượng cư trú vì
mục đích của Hiệp định bằng thỏa thuận chung phù hợp với Điều 24, có xem xét tới
trụ sở điều hành, trụ sở đăng ký hoặc thành lập và bất kỳ các yếu tố liên quan
nào khác. Trong trường hợp không có thỏa thuận như vậy, đối tượng đó sẽ không
được hưởng bất kỳ quyền miễn hay giảm thuế nào quy định tại Hiệp định này.
Điều 5. CƠ SỞ THƯỜNG TRÚ
1. Theo nội dung của Hiệp định này, thuật ngữ “cơ sở
thường trú” có nghĩa là một địa điểm kinh doanh cố định mà qua đó doanh nghiệp
thực hiện toàn bộ hoặc một phần hoạt động kinh doanh của mình.
2. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” chủ yếu bao gồm:
(a) trụ sở điều hành;
(b) chi nhánh;
(c) văn phòng;
(d) nhà máy;
(e) xưởng;
(f) nhà kho; và
(g) mỏ, giếng dầu hoặc khí, mỏ đá hoặc bất kỳ địa
điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên nào khác.
3. Một địa điểm xây dựng hoặc dự án xây dựng, lắp đặt
hoặc lắp ráp hoặc các hoạt động giám sát có liên quan đến địa điểm xây dựng hoặc
dự án xây dựng, lắp đặt hoặc lắp ráp, tạo thành một cơ sở thường trú nếu hoạt động
này kéo dài hơn sáu tháng.
4. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” cũng bao gồm việc
cung cấp các dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ tư vấn do một doanh nghiệp thực hiện
thông qua những người làm công hoặc những đối tượng khác được doanh nghiệp giao
thực hiện các hoạt động trên, nhưng chỉ khi các hoạt động mang tính chất nêu
trên kéo dài (trong cùng một dự án hoặc một dự án liên quan) tại một Nước ký kết
trong một giai đoạn hoặc nhiều giai đoạn gộp lại hơn sáu tháng trong bất kỳ
giai đoạn 12 tháng.
5. Một doanh nghiệp sẽ được coi là có một cơ sở thường
trú tại một Nước ký kết và thực hiện kinh doanh thông qua cơ sở thường trú đó nếu:
(a) doanh nghiệp tiến hành các hoạt động tại Nước
đó bao gồm, hoặc có liên quan đến việc thăm dò hoặc khai thác tài nguyên thiên
nhiên, kể cả rừng trồng và rừng tự nhiên tại Nước đó; hoặc
(b) doanh nghiệp vận hành thiết bị trọng yếu tại Nước
đó.
6. Để xác định thời gian của các hoạt động theo khoản
3 và 4, giai đoạn trong đó các hoạt động được thực hiện tại một Nước ký kết bởi
một doanh nghiệp liên kết với một doanh nghiệp khác sẽ được gộp vào giai đoạn
trong đó các hoạt động được thực hiện bởi doanh nghiệp mà được liên kết với nó
nếu như các hoạt động được nêu đầu tiên gắn kết với các hoạt động được thực hiện
tại Nước đó bởi doanh nghiệp thứ hai, với điều kiện là bất kỳ giai đoạn nào
trong đó hai hay nhiều hơn các doanh nghiệp liên kết thực hiện các hoạt động đồng
thời thì chỉ được tính một lần. Một doanh nghiệp sẽ được coi là có liên kết với
một doanh nghiệp khác nếu một doanh nghiệp bị kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp
bởi doanh nghiệp kia, hoặc nếu cả hai doanh nghiệp bị kiểm soát trực tiếp hoặc
gián tiếp bởi một đối tượng thứ ba hoặc bởi nhiều đối tượng.
7. Mặc dù có những quy định trên của Điều này, thuật
ngữ “cơ sở thường trú” sẽ được coi là không bao gồm:
(a) việc sử dụng
các phương tiện chỉ cho mục đích lưu kho hoặc trưng bày hàng hóa hoặc tài sản của
doanh nghiệp;
(b) việc duy trì kho hàng hóa hoặc tài sản của
doanh nghiệp chỉ với mục đích lưu kho hoặc trưng bày;
(c) việc duy trì kho hàng hóa hoặc tài sản của
doanh nghiệp chỉ với mục đích để cho doanh nghiệp khác gia công;
(d) việc duy trì một địa điểm kinh doanh cố định chỉ
với mục đích mua hàng hóa hoặc tài sản hoặc để thu thập thông tin cho doanh
nghiệp;
(e) việc duy trì một địa điểm kinh doanh cố định chỉ
với mục đích tiến hành bất kỳ hoạt động nào khác mang tính chất chuẩn
bị hoặc phụ trợ cho doanh nghiệp.
8. Mặc dù có những quy định tại khoản 1 và 2, trường hợp một đối tượng - trừ đại lý có tư
cách độc lập được điều chỉnh tại khoản 9 - hoạt động tại một Nước ký kết thay mặt
cho một doanh nghiệp và:
(a) có và thường xuyên thực hiện tại Nước đó thẩm
quyền ký kết các hợp đồng đứng tên doanh nghiệp; hoặc
(b) thường xuyên duy trì tại Nước thứ nhất một kho
hàng hóa hoặc tài sản, qua đó đối tượng
này thường xuyên giao hàng hóa hoặc tài sản
thay mặt cho doanh nghiệp; hoặc
(c) sản xuất hoặc gia công cho doanh nghiệp tại một
Nước ký kết các hàng hóa hoặc tài sản thuộc về doanh nghiệp,
doanh nghiệp đó sẽ được coi là có một cơ sở thường
trú tại Nước đó đối với bất kỳ hoạt động
nào mà đối tượng đó thực hiện cho doanh nghiệp, trừ khi các hoạt động của đối
tượng đó chỉ giới hạn trong phạm vi các hoạt động nêu tại khoản 7 mà những hoạt
động đó nếu được thực hiện thông qua một địa điểm kinh doanh cố định thì sẽ
không làm cho địa điểm kinh doanh cố định này trở thành một cơ sở thường trú theo những quy định tại khoản
đó.
9. Một doanh nghiệp của một Nước ký kết sẽ không được
coi là có cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia nếu doanh nghiệp chỉ thực hiện
kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một đại lý môi giới, một đại lý hoa hồng
hoặc bất kỳ một đại lý nào khác có tư cách độc lập, với điều kiện những đối tượng
này chỉ hoạt động trong khuôn khổ kinh doanh thông thường của mình. Tuy nhiên,
khi các hoạt động của đại lý đó dành toàn bộ hoặc hầu như toàn bộ cho hoạt động
đại diện cho doanh nghiệp đó và điều kiện được tạo ra hoặc áp đặt giữa doanh
nghiệp đó và đại lý đó trong quan hệ thương mại và quan hệ tài chính khác với
điều kiện được tạo ra giữa các doanh nghiệp độc lập, đại lý đó sẽ không được
coi là đại lý có tư cách độc lập theo
nghĩa của khoản này.
10. Việc một công ty là đối tượng cư trú của một Nước
ký kết kiểm soát hoặc chịu sự kiểm soát bởi một công ty là đối tượng cư trú của
Nước ký kết kia hoặc tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia (có thể
thông qua một cơ sở thường trú hoặc dưới
hình thức khác) sẽ không làm cho bất kỳ công ty nào trở thành cơ sở thường trú
của công ty kia.
Điều 6. THU NHẬP TỪ BẤT ĐỘNG SẢN
1. Thu nhập mà một đối tượng cư trú tại một Nước ký
kết thu được từ bất động sản (kể cả thu nhập từ nông nghiệp, lâm nghiệp hoặc
ngư nghiệp) đặt tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thuật ngữ “bất động sản” sẽ có nghĩa theo như luật
của Nước ký kết nơi có tài sản. Trong mọi trường hợp thuật ngữ sẽ bao gồm cả
tài sản đi liền với bất động sản, đàn gia súc và thiết bị sử dụng trong nông
nghiệp và lâm nghiệp, các quyền áp dụng theo các quy định tại luật chung về điền
sản, quyền sử dụng bất động sản, bất kỳ tài nguyên thiên nhiên nào, quyền thăm
dò hoặc khai thác tài nguyên thiên nhiên hoặc rừng trồng và rừng tự nhiên, và
các quyền được hưởng các khoản thanh toán thay đổi hoặc cố định hoặc trả cho việc
khai thác hoặc quyền thăm dò hoặc khai thác tài nguyên thiên nhiên hoặc rừng trồng
và rừng tự nhiên; các tàu thủy, thuyền và máy bay sẽ không được coi là bất động sản.
3. Những quy định tại khoản 1 sẽ áp dụng đối với
thu nhập phát sinh từ việc trực tiếp sử dụng, cho thuê hoặc sử dụng các loại bất
động sản dưới bất kỳ hình thức nào khác.
4. Những quy định tại các khoản 1 và 3 cũng sẽ áp dụng
cho thu nhập từ bất động sản của một doanh nghiệp và đối với thu nhập từ bất động
sản được sử dụng để thực hiện các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập.
5. Bất kỳ quyền nào đề cập tại khoản 2 của Điều này
sẽ được coi là hiện diện tại nơi có tài sản liên quan tới các quyền này hoặc tại
nơi việc thăm dò hoặc khai thác có thể diễn ra.
Điều 7. LỢI NHUẬN KINH DOANH
1. Lợi nhuận của một doanh nghiệp của một Nước ký kết
sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ trường hợp doanh nghiệp có tiến hành hoạt
động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú tại Nước
kia. Nếu doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh theo cách trên, thì các khoản lợi
nhuận của doanh nghiệp có thể bị đánh thuế tại Nước kia, nhưng chỉ trên phần lợi
nhuận phân bổ cho:
(a) cơ sở thường
trú đó; hoặc
(b) việc bán tại Nước ký kết kia hàng hóa hoặc tài
sản giống hoặc tương tự như hàng hóa hoặc tài sản bán thông qua cơ sở thường
trú đó. Được hiểu rằng lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ bao gồm lợi nhuận phân bổ
cho việc bán hàng hóa và tài sản nêu tại tiết khoản này chỉ khi nhà chức trách
có thẩm quyền của Nước ký kết nơi có cơ sở
thường trú của doanh nghiệp cho rằng doanh nghiệp đã tham gia vào một dàn xếp
liên quan đến việc bán những hàng hóa hoặc tài sản này để tránh thuế đánh vào
những lợi nhuận này tại Nước ký kết đó.
2. Thể theo các quy định tại khoản 3, khi một doanh
nghiệp của một Nước ký kết tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia
thông qua một cơ sở thường trú tại Nước kia, thì tại mỗi Nước ký kết sẽ có những
khoản lợi nhuận được phân bổ cho cơ sở thường trú nói trên mà cơ sở đó có thể
thu được, nếu đó là một doanh nghiệp riêng và tách biệt cùng tham gia vào các
hoạt động như nhau hoặc tương tự trong cùng những điều kiện như nhau hoặc tương
tự và có quan hệ hoàn toàn độc lập với doanh nghiệp mà cơ sở đó được coi là cơ
sở thường trú.
3. Trong khi xác định lợi nhuận của một cơ sở thường
trú, cơ sở này sẽ được phép khấu trừ các
khoản chi phí phát sinh phục vụ cho mục đích kinh doanh của cơ sở thường trú này,
bao gồm cả chi phí điều hành và chi phí quản lý chung cho dù chi phí đó phát
sinh tại Nước nơi cơ sở thường trú đó đóng hoặc ở bất kỳ nơi nào khác. Tuy
nhiên, sẽ không cho phép tính vào các khoản chi phí được trừ bất kỳ các khoản
tiền nào, nếu có, do cơ sở thường trú trả
cho (trừ tiền thanh toán các chi phí thực tế) trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc
bất kỳ văn phòng nào khác của doanh nghiệp dưới hình thức tiền bản quyền, các
khoản phí hoặc bất kỳ khoản thanh toán tương tự nào khác để được phép sử dụng
sáng chế hoặc các quyền khác, hoặc dưới hình thức tiền hoa hồng trả cho việc thực
hiện các dịch vụ riêng biệt, hoặc trả cho công việc quản lý, hoặc dưới hình thức
lãi tính trên tiền cho cơ sở thường trú vay, trừ trường hợp lãi từ tiền cho vay
của tổ chức ngân hàng. Tương tự như vậy, khi xác định lợi nhuận của cơ sở thường
trú, sẽ không tính đến các khoản tiền (trừ các khoản tiền thanh toán các chi
phí thực tế) do cơ sở thường trú thu từ trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc bất
kỳ văn phòng nào khác của doanh nghiệp dưới hình thức tiền bản quyền, các khoản
phí hoặc bất kỳ khoản thanh toán tương tự nào khác để được phép sử dụng sáng chế
hoặc các quyền khác, hoặc dưới hình thức tiền hoa hồng trả cho việc thực hiện
các dịch vụ riêng biệt hoặc trả cho công việc quản lý, hoặc dưới hình thức lãi
tính trên tiền cho trụ sở chính của doanh
nghiệp hoặc bất kỳ văn phòng nào khác của doanh nghiệp vay, trừ trường hợp lãi
từ tiền cho vay của tổ chức ngân hàng.
4. Trường hợp
tại một Nước ký kết vẫn thường xác định các khoản lợi nhuận được phân bổ cho một
cơ sở thường trú trên cơ sở phân chia tổng
các khoản lợi nhuận của doanh nghiệp thành những phần khác nhau, không có nội
dung nào tại khoản 2 ngăn cản Nước ký kết đó xác định lợi nhuận chịu thuế theo
cách phân chia theo thông lệ trên; tuy nhiên, phương pháp phân chia được chấp
nhận sẽ có kết quả phù hợp với những nguyên tắc nêu tại Điều này.
5. Theo nội dung các khoản trên, các khoản lợi nhuận
được phân bổ cho cơ sở thường trú sẽ được xác định theo cùng một phương pháp giữa
các năm trừ khi có đủ lý do chính đáng để xác định theo phương pháp khác.
6. Khi:
(a) một đối tượng cư trú của một Nước ký kết sở hữu
thực hưởng (dù là một đối tượng thực hưởng trực tiếp của một tín thác hoặc
thông qua một hoặc nhiều tín thác trung gian) phần chia lợi tức của việc kinh
doanh của doanh nghiệp được thực hiện tại Nước ký kết kia bởi người được ủy thác của một tín thác mà không phải là một
tín thác được đối xử như một công ty vì các mục đích thuế; và
(b) liên quan đến doanh nghiệp đó, nếu người được ủy thác là đối tượng cư trú của Nước thứ nhất,
có hoặc sẽ có, một cơ sở thường trú tại Nước kia,
thì việc kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện
bởi người được ủy thác thông qua một cơ sở
thường trú như vậy sẽ được coi là việc kinh doanh được thực hiện tại Nước kia bởi
đối tượng cư trú đó thông qua một cơ sở thường trú nằm tại Nước kia và phần
chia lợi tức của đối tượng cư trú đó có thể bị đánh thuế tại Nước kia nhưng chỉ
đối với phần lợi tức được phân bổ cho cơ sở
thường trú đó.
7. Khi lợi nhuận bao gồm các khoản thu nhập được đề
cập riêng tại các Điều khác của Hiệp định này, thì các quy định của các Điều đó
sẽ không bị ảnh hưởng bởi những quy định
tại Điều này.
8. Không có nội dung nào tại Điều này ảnh hưởng đến
bất kỳ điều nào của pháp luật của cả hai Nước ký kết mà có hiệu lực vào bất cứ
thời điểm nào khi chúng ảnh hưởng đến việc đánh thuế đối với bất kỳ thu nhập
nào từ bất cứ một loại hình bảo hiểm nào.
Điều 8. VẬN TẢI BIỂN VÀ VẬN TẢI
HÀNG KHÔNG
1. Lợi nhuận do một doanh nghiệp của một Nước ký kết
thu được từ hoạt động của tàu thủy hoặc máy bay trong vận tải quốc tế sẽ chỉ bị
đánh thuế tại Nước đó.
2. Mặc dù có các quy định tại khoản 1 và Điều 7, lợi
nhuận do một doanh nghiệp của một Nước ký kết thu được từ việc vận chuyển hành
khách, gia súc, thư, hàng hóa hoặc tài sản bằng tàu thủy hoặc máy bay mà hàng được vận chuyển hoặc bốc lên tại Nước ký
kết kia và được bốc dỡ ở một địa điểm tại Nước đó, hoặc cho thuê nguyên tàu thủy
hoặc máy bay để vận chuyển như vậy, có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
3. Những quy định tại khoản 1 và 2 cũng sẽ áp dụng
cho các khoản lợi nhuận thu được từ việc tham gia vào một tổ hợp, một liên
doanh hoặc một hãng hoạt động quốc tế.
Điều 9. CÁC DOANH NGHIỆP LIÊN KẾT
1. Khi
(a) một doanh nghiệp của một Nước ký kết tham
gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn vào một
doanh nghiệp của Nước ký kết kia, hoặc
(b) các đối tượng cùng tham gia trực tiếp hoặc gián
tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn vào một doanh nghiệp của một Nước
ký kết và vào một doanh nghiệp của Nước ký kết kia,
và trong cả hai trường hợp, trong mối quan hệ tài
chính và thương mại giữa hai doanh nghiệp trên có những điều kiện được đưa ra
hoặc áp đặt khác với điều kiện được đưa ra giữa các doanh nghiệp độc lập, lúc
đó mọi khoản lợi nhuận mà một doanh nghiệp có thể thu được nếu không có những
điều kiện trên nhưng nay vì những điều kiện này mà doanh nghiệp đó không thu được,
sẽ vẫn được tính vào các khoản lợi nhuận của doanh nghiệp đó và bị đánh thuế
tương ứng.
2. Khi một Nước ký kết tính vào các khoản lợi nhuận
của một doanh nghiệp tại Nước đó - và đánh thuế tương ứng - các khoản lợi nhuận
mà một doanh nghiệp tại Nước ký kết kia đã bị đánh thuế ở Nước kia và những khoản
lợi nhuận được tính vào như vậy là những khoản lợi nhuận lẽ ra thuộc về doanh
nghiệp tại Nước thứ nhất nếu như những điều kiện xác lập giữa hai doanh nghiệp
trên là những điều kiện được xác lập giữa các doanh nghiệp độc lập, khi đó Nước
kia sẽ điều chỉnh các khoản thuế tại Nước mình đối với các khoản lợi nhuận trên
cho phù hợp. Khi xác định sự điều chỉnh như vậy sẽ xem xét đến các quy định
khác của Hiệp định này và các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
sẽ tham khảo ý kiến của nhau khi cần thiết.
Điều 10. TIỀN LÃI CỔ PHẦN
1. Tiền lãi cổ phần do một công ty là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể
bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền lãi cổ phần đó cũng
có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng
cư trú và theo các luật của Nước đó, nhưng nếu đối tượng thực hưởng tiền lãi cổ
phần là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia thì thuế được tính khi đó sẽ không
vượt quá:
(a) 5 phần trăm tổng số tiền lãi cổ phần nếu đối tượng
thực hưởng là công ty nắm giữ trực tiếp ít nhất 50 phần trăm quyền bỏ phiếu tại
công ty trả tiền lãi cổ phần; và
(b) 15 phần trăm tổng số tiền lãi cổ phần trong tất
cả các trường hợp còn lại.
Khoản này sẽ không ảnh hưởng tới việc đánh thuế
công ty đối với khoản lợi nhuận dùng để chia lãi cổ phần.
3. Thuật ngữ “tiền lãi cổ phần” được sử dụng tại Điều
này có nghĩa là thu nhập từ cổ phần, cổ phần khai thác mỏ, cổ phần sáng lập hoặc
các quyền lợi khác được hưởng lợi nhuận, cũng như thu nhập từ các quyền lợi
công ty khác cùng chịu sự điều chỉnh của chính sách thuế đối với thu nhập từ cổ
phần theo luật của Nước nơi công ty chia lãi cổ phần là đối tượng cư trú.
4. Những quy định tại khoản 1 và 2 sẽ không áp dụng
trong trường hợp đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi cổ phần là đối tượng
cư trú tại một Nước ký kết có tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết
kia, nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú, thông qua một cơ sở
thường trú nằm tại Nước đó, hoặc tiến hành tại Nước ký kết kia các hoạt động dịch
vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước ký kết kia, và quyền nắm
giữ cổ phần nhờ đó được hưởng tiền lãi cổ phần, có sự liên hệ thực tế đến cơ sở
thường trú hoặc cơ sở cố định nói trên.
Trong trường hợp như vậy các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14 của Hiệp định
này, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Khi một công ty là đối tượng cư trú của một Nước
ký kết có lợi nhuận hoặc thu nhập phát sinh từ Nước ký kết kia thì Nước ký kết
kia có thể không đánh thuế đối với những khoản tiền lãi cổ phần do công ty này
trả, trừ trường hợp những khoản tiền lãi cổ phần này được trả cho một đối tượng
cư trú của Nước ký kết kia, hoặc quyền nắm giữ cổ phần có các khoản tiền lãi cổ
phần được trả có sự liên hệ thực tế với một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố
định tại Nước ký kết kia, đồng thời Nước kia cũng không buộc các khoản lợi nhuận
không chia của công ty trên phải chịu thuế đối với những khoản lợi nhuận không
chia của công ty, cho dù những khoản tiền lãi cổ phần được trả hoặc các khoản lợi
nhuận không chia bao gồm toàn bộ hoặc một phần các khoản lợi nhuận hoặc thu nhập
phát sinh tại Nước ký kết kia.
6. Sẽ không có một sự miễn, giảm nào theo Điều này
nếu mục đích chính hoặc một trong những mục đích chính của bất kỳ đối tượng nào
liên quan đến việc chuyển nhượng tiền lãi cổ phần, hoặc liên quan đến tạo lập
hoặc chuyển nhượng cổ phần hoặc các quyền khác mà theo đó tiền lãi cổ phần được
trả, hoặc việc thành lập, mua lại hoặc duy trì công ty là chủ sở hữu thực hưởng
của tiền lãi cổ phần và tiến hành hoạt động của nó để lợi dụng Điều này. Trong
mọi trường hợp khi một Nước ký kết có ý định áp dụng khoản này, nhà chức trách
có thẩm quyền của Nước đó sẽ tham khảo ý kiến với nhà chức trách có thẩm quyền
của Nước ký kết kia.
Điều 11. LÃI TỪ TIỀN CHO VAY
1. Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại một Nước ký kết
và được trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại
Nước ký kết kia.
2. Tuy nhiên, khoản lãi từ tiền cho vay này cũng có
thể bị đánh thuế ở Nước ký kết nơi phát sinh lãi và theo các luật của Nước đó,
nhưng nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi này là đối tượng cư trú của
Nước ký kết kia thì mức thuế khi đó được tính sẽ không vượt quá 10 phần trăm của
tổng số khoản lãi từ tiền cho vay.
3. Thuật ngữ “lãi từ tiền cho vay” được sử dụng tại
Điều này có nghĩa là thu nhập từ các khoản cho vay dưới bất kỳ dạng nào, có hoặc
không được đảm bảo bằng thế chấp và có hoặc không có quyền được hưởng lợi nhuận
của người đi vay, và đặc biệt là khoản
thu nhập từ chứng khoán của chính phủ và
thu nhập từ trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường, kể cả các khoản tiền thưởng
và giải thưởng kèm theo các khoản chứng khoán,
trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường đó cũng như tất cả các thu nhập được
coi là thu nhập từ tiền cho vay theo quy định của pháp luật liên quan đến thuế,
của Nước ký kết mà thu nhập phát sinh, nhưng không bao gồm thu nhập được coi là
tiền lãi cổ phần theo quy định tại Điều 10.
4. Những quy định tại các khoản 1 và 2 sẽ không được
áp dụng nếu người thực hưởng các khoản lãi từ tiền cho vay là đối tượng cư trú
tại một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia nơi phát sinh các khoản lãi từ tiền cho
vay thông qua một cơ sở thường trú tại Nước
ký kết kia hoặc thực hiện tại Nước ký kết
kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước
ký kết kia và khoản nợ có các khoản tiền
lãi được trả có sự liên hệ thực tế với
(a) cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó, hoặc (b) với các hoạt động nêu tại
tiết khoản 1(b) của Điều 7. Trong trường hợp
này, các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Lãi từ tiền cho vay sẽ được coi là phát sinh tại
một Nước ký kết khi đối tượng trả là đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy nhiên,
khi đối tượng trả lãi, là hoặc không là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú
hoặc một cơ sở cố định liên quan đến các khoản nợ đã phát sinh các khoản lãi từ
tiền cho vay này, và khoản lãi từ tiền cho vay đó được chịu hoặc được trừ khi
xác định lợi nhuận phân bổ cho cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó thì dù đối
tượng có là đối tượng cư trú của một Nước ký kết
hay không, khoản lãi từ tiền cho vay này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước
nơi cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó đóng.
6. Trường hợp do mối quan hệ đặc biệt giữa đối tượng
trả lãi và đối tượng hưởng lãi hoặc giữa cả hai đối tượng trên và các đối tượng
khác, khoản lãi từ tiền cho vay, liên quan đến khoản cho vay có số tiền lãi được
trả vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng đi vay và đối tượng thực
hưởng khi không có mối quan hệ này, thì khi đó, các quy định của Điều này sẽ chỉ
áp dụng đối với các khoản tiền thanh toán
khi không có mối quan hệ đặc biệt trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán
vượt sẽ bị đánh thuế theo luật của từng Nước ký kết có xem xét tới các quy định
khác của Hiệp định này.
7. Sẽ không có một sự miễn, giảm nào theo Điều này
nếu mục đích chính hoặc một trong những mục đích chính của bất kỳ đối tượng nào
liên quan đến việc chuyển nhượng lãi từ tiền cho vay, hoặc liên quan đến tạo lập
hoặc chuyển nhượng các khoản cho vay hoặc các quyền khác mà theo đó lãi từ tiền
cho vay được trả, hoặc việc thành lập, mua lại hoặc duy trì của một đối tượng
là chủ sở hữu thực hưởng lãi từ tiền cho vay hoặc tiến hành hoạt động của nó để
lợi dụng Điều này. Trong mọi trường hợp khi một Nước ký kết có ý định áp dụng
khoản này, nhà chức trách có thẩm quyền của Nước đó sẽ tham khảo ý kiến với nhà
chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết kia.
Điều 12. TIỀN BẢN QUYỀN
1. Tiền bản quyền phát sinh tại một Nước ký kết và
được trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước
ký kết kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền bản quyền đó cũng có
thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh, và theo các luật của Nước này,
nhưng nếu đối tượng thực hưởng tiền bản quyền là đối tượng cư trú của Nước ký kết
kia thì mức thuế được tính khi đó sẽ không vượt quá 10 phần trăm tổng số tiền bản
quyền.
3. Thuật ngữ “tiền bản quyền” được sử dụng tại Điều
này có nghĩa là các khoản thanh toán ở bất kỳ dạng nào được trả cho:
(a) việc sử dụng, hoặc quyền sử dụng, bất kỳ bản
quyền tác giả nào (bao gồm việc sử dụng hoặc quyền sử dụng bất kỳ bản quyền của
một tác phẩm văn học, vở kịch, tác phẩm âm
nhạc, hoặc nghệ thuật, ghi âm, các loại phim, phát thanh hoặc truyền hình, các
chương trình cáp, hoặc các kiểu chữ của các ấn phẩm đã được xuất bản, sáng chế,
thiết kế hoặc mẫu, đồ án, công thức hoặc quy trình bí mật, nhãn hiệu, hoặc tài
sản hoặc quyền khác;
(b) việc sử dụng, hoặc quyền sử dụng, bất kỳ thiết
bị công nghiệp, thương mại hoặc khoa học nào;
(c) kiến thức hoặc thông tin liên quan đến các kinh
nghiệm kỹ thuật, công nghiệp, thương mại hoặc khoa học;
(d) bất kỳ sự hỗ trợ có tính chất phụ hoặc phụ trợ
được cung cấp như là phương tiện tạo điều kiện áp dụng hoặc hưởng thụ bất kỳ
tài sản hoặc quyền nào nêu tại tiết khoản (a), bất kỳ thiết bị nào nêu tại tiết
khoản (b) hoặc bất kỳ kiến thức hoặc thông tin nào nêu tại tiết khoản (c); hoặc
(e) việc hạn chế toàn bộ hoặc một phần đối với việc
sử dụng hoặc cung cấp bất kỳ tài sản hoặc quyền nào đề cập tại khoản này.
4. Những quy định tại các khoản 1 và 2 sẽ không áp
dụng nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền bản quyền, là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh
doanh ở Nước ký kết kia nơi có khoản tiền bản quyền phát sinh, thông qua một cơ
sở thường trú nằm tại Nước ký kết kia hoặc tiến hành tại Nước ký kết kia các hoạt
động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước ký kết kia,
và quyền hoặc tài sản có các khoản tiền bản quyền được trả có sự liên hệ thực tế
với (a) cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định
đó, hoặc với (b) các hoạt động nêu tại tiết khoản 1(b) của Điều 7. Trong trường
hợp này các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Tiền bản quyền sẽ được coi là phát sinh tại một
Nước ký kết khi đối tượng trả tiền bản quyền là đối tượng cư trú của Nước đó.
Tuy nhiên, khi đối tượng trả tiền bản quyền, là hoặc không là đối tượng cư trú
của một Nước ký kết, có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố
định liên quan đến trách nhiệm trả tiền bản quyền đã phát sinh, và khoản tiền bản
quyền đó được chịu hoặc được trừ khi xác định lợi nhuận phân bổ cho cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó thì khoản
tiền bản quyền này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước nơi cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó đóng.
6. Trường hợp
vì mối quan hệ đặc biệt giữa đối tượng trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả
hai đối tượng trên với các đối tượng khác, khoản tiền bản quyền, liên quan đến
việc sử dụng, quyền hoặc thông tin có số tiền bản quyền được trả, vượt quá khoản
tiền được thỏa thuận giữa đối tượng trả tiền và đối tượng thực hưởng khi không
có mối quan hệ đặc biệt này, thì các quy định của Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với
khoản tiền thanh toán khi không có mối quan hệ trên. Trong trường hợp này, phần
thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo các luật của từng Nước ký kết có xem xét đến
các quy định khác của Hiệp định này.
7. Sẽ không có một sự miễn, giảm nào theo Điều này
nếu mục đích chính hoặc một trong những mục đích chính của bất kỳ đối tượng nào
liên quan đến việc chuyển nhượng tiền bản quyền, hoặc liên quan đến tạo lập hoặc
chuyển nhượng các quyền về tiền bản quyền được trả, hoặc việc thành lập, mua lại
hoặc duy trì của một đối tượng là chủ sở hữu thực hưởng tiền bản quyền hoặc tiến
hành hoạt động của nó để lợi dụng Điều này. Trong mọi trường hợp khi một Nước
ký kết có ý định áp dụng khoản này, nhà chức trách có thẩm quyền của Nước đó sẽ
tham khảo ý kiến với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết kia.
Điều 13. CHUYỂN NHƯỢNG TÀI SẢN
1. Thu nhập hoặc giá trị tăng thêm do một đối tượng
cư trú của một Nước ký kết thu được từ việc chuyển nhượng bất động sản được nêu
tại Điều 6 và bất động sản đó nằm tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại
Nước kia.
2. Thu nhập hoặc giá trị tăng thêm từ việc chuyển
nhượng động sản là một phần của tài sản kinh doanh của một cơ sở thường trú mà
một doanh nghiệp của một Nước ký kết có tại Nước ký kết kia hoặc động sản thuộc
một cơ sở cố định của một đối tượng cư
trú của một Nước ký kết có tại Nước ký kết kia để tiến hành hoạt động dịch vụ
cá nhân độc lập kể cả thu nhập hoặc giá trị tăng thêm từ việc chuyển nhượng cơ
sở thường trú đó (riêng cơ sở thường trú đó hoặc cùng với toàn bộ doanh nghiệp)
hoặc cơ sở cố định đó, có thể bị đánh thuế
tại Nước kia.
3. Thu nhập hoặc giá trị tăng thêm do một doanh
nghiệp của một Nước ký kết thu được từ việc chuyển nhượng các tàu thủy hoặc máy
bay của một doanh nghiệp của một Nước ký kết hoạt động trong vận tải quốc tế hoặc
từ chuyển nhượng động sản gắn liền với hoạt
động của các tàu thủy hoặc máy bay đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
4. Thu nhập hoặc giá trị tăng thêm do một đối tượng
cư trú của một Nước ký kết thu được từ việc chuyển nhượng các cổ phần hoặc các
lợi ích tương ứng trong một công ty mà tài sản của công ty đó bao gồm toàn bộ
hoặc chủ yếu là bất động sản nằm tại Nước ký kết kia, có thể bị đánh thuế tại
Nước kia.
5. Không có nội dung nào của Điều này ảnh hưởng đến
việc áp dụng pháp luật của một Nước ký kết đối với việc đánh thuế vào thu nhập
tăng thêm có bản chất vốn thu được từ việc chuyển nhượng bất kỳ tài sản nào
khác với những tài sản mà bất kỳ các khoản trên của điều này áp dụng.
Điều 14. HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ CÁ
NHÂN ĐỘC LẬP
1. Thu nhập do một cá nhân là đối tượng cư trú của
một Nước ký kết thu được từ các hoạt động dịch vụ ngành nghề hoặc các hoạt động
khác có tính chất độc lập sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó trừ khi các dịch vụ
đó được thực hiện tại Nước ký kết kia và:
(a) cá nhân đó có mặt tại Nước kia trong một khoảng
thời gian hoặc nhiều khoảng thời gian gộp lại trên 183 ngày trong bất kỳ khoảng
thời gian 12 tháng nào bắt đầu hoặc kết thúc trong năm tính thuế có liên quan;
hoặc
(b) cá nhân đó thường xuyên có tại Nước kia một cơ
sở cố định để thực hiện các hoạt động của cá nhân đó.
Nếu các quy định tại các tiết khoản (a) hoặc (b) được
thỏa mãn, thu nhập có thể bị đánh thuế tại Nước kia nhưng chỉ trên phần phân bổ
cho các hoạt động được thực hiện trong khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời
gian hoặc từ cơ sở cố định đó.
2. Thuật ngữ “dịch vụ ngành nghề” bao gồm chủ yếu
những hoạt động khoa học, văn học, nghệ thuật, giáo dục hoặc giảng dạy mang
tính chất độc lập như các hoạt động độc lập của các thầy thuốc, luật sư, kỹ sư,
kiến trúc sư, nha sĩ và kế toán viên.
Điều 15. THU NHẬP TỪ LÀM CÔNG
1. Thể theo các quy định tại các Điều 16, 18 và 19
các khoản tiền lương, tiền công, và các khoản tiền thù lao tương tự khác do một
đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm công sẽ chỉ bị
đánh thuế tại Nước đó, trừ khi công việc của đối tượng đó được thực hiện tại Nước
ký kết kia. Nếu công việc làm công được thực hiện như vậy, số tiền công trả cho
lao động đó có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Mặc dù có những quy định tại khoản 1, tiền công
do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm công tại
Nước ký kết kia sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước thứ nhất nếu:
(a) người nhận tiền công có mặt tại Nước ký kết kia
trong một khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời gian gộp lại không quá 183
ngày trong bất kỳ giai đoạn 12 tháng nào bắt đầu hoặc kết thúc trong năm tính
thuế liên quan, và
(b) chủ lao động hoặc đối tượng đại diện chủ lao động
trả tiền công lao động không phải là đối tượng cư trú tại Nước kia, và
(c) tiền công không được chịu hoặc không được khấu
trừ khi xác định lợi nhuận phân bổ cho một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố định
mà chủ lao động có tại Nước kia.
3. Mặc dù có những quy định trên của Điều này, tiền
công do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm công
trên tàu thủy hoặc máy bay do một doanh nghiệp của một Nước ký kết điều hành
trong vận tải quốc tế có thể bị đánh thuế tại Nước đó.
Điều 16. THÙ LAO GIÁM ĐỐC
Các khoản thù lao cho giám đốc và các khoản thanh
toán tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết nhận được với tư
cách là thành viên của ban giám đốc của một công ty là đối tượng cư trú của Nước
ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
Điều 17. NGƯỜI BIỂU DIỄN VÀ VẬN
ĐỘNG VIÊN
1. Mặc dù có những quy định tại các Điều 14 và 15,
thu nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được với tư cách người
biểu diễn như diễn viên sân khấu, điện ảnh, phát thanh hoặc truyền hình, hoặc
nhạc công, hoặc với tư cách là vận động viên từ những hoạt động cá nhân của
mình thực hiện tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế ở Nước ký kết kia.
2. Trường hợp thu nhập liên quan đến các hoạt động
trình diễn cá nhân của người biểu diễn hoặc vận động viên nhưng không được trả
cho bản thân người biểu diễn hoặc vận động viên, mà trả cho một đối tượng khác
thì thu nhập này có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi diễn ra những hoạt động
trình diễn của người biểu diễn hoặc vận động viên, mặc dù đã có những quy định
tại các Điều 7, 14 và 15.
3. Các quy định tại các khoản 1 và 2 sẽ không áp dụng
đối với thu nhập của người biểu diễn hoặc vận động viên thu được từ việc thực
hiện các hoạt động tại một Nước ký kết nếu chuyến đi tới Nước đó được tài trợ
toàn bộ hoặc chủ yếu bởi các quỹ công của một hoặc cả hai Nước ký kết. Trong
trường hợp đó, thu nhập chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi người biểu diễn hoặc
vận động viên đó là đối tượng cư trú.
Điều 18. TIỀN LƯƠNG HƯU
Tiền lương hưu và các khoản tiền thù lao tương tự
khác được trả cho một đối tượng cư trú của một Nước ký kết do các công việc đã
làm trước đây sẽ chỉ bị đánh thuế ở Nước đó.
Điều 19. PHỤC VỤ CHÍNH PHỦ
1. (a) Tiền lương, tiền công và các khoản tiền thù
lao tương tự khác, (trừ tiền lương hưu), do Chính phủ của một Nước ký kết hoặc
chính quyền địa phương của Nước đó trả cho một cá nhân đối với việc phục vụ cho
Chính phủ hoặc chính quyền địa phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
(b) Tuy nhiên, khoản thanh toán này sẽ chỉ bị đánh
thuế tại Nước ký kết kia nếu việc phục vụ này được thực hiện tại Nước ký kết
kia và nếu cá nhân này là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia, đồng thời:
(i) là đối tượng mang quốc tịch của Nước ký kết
kia; hoặc
(ii) không trở thành đối tượng cư trú của Nước ký kết
kia chỉ đơn thuần vì thực hiện những công việc trên.
2. Những quy định của các Điều 15, 16 và 17 sẽ áp dụng
đối với các khoản thanh toán cho việc phục vụ được thực hiện liên quan đến một
hoạt động kinh doanh được tiến hành bởi một Chính phủ hoặc chính quyền địa
phương được đề cập tại khoản 1.
Điều 20. SINH VIÊN
1. Những khoản tiền mà một sinh viên hoặc thực tập
sinh kinh doanh nhận được để trang trải các chi phí sinh hoạt, học tập hoặc đào
tạo mà người sinh viên hoặc thực tập sinh này ngay trước khi đến một Nước ký kết
đang và đã là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia và hiện có mặt tại Nước thứ
nhất chỉ với mục đích trang trải chi phí sinh hoạt, học tập hoặc đào tạo, sẽ
không bị đánh thuế tại Nước đó, với điều kiện những khoản tiền đó phát sinh từ
các nguồn ở bên ngoài Nước đó.
2. Khoản tiền thù lao mà một sinh viên hoặc thực tập
sinh kinh doanh vốn là hoặc trước đó là đối tượng cư trú của một Nước ký kết nhận
được từ công việc mà sinh viên hoặc thực tập sinh đó thực hiện tại Nước ký kết
kia trong một khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời gian gộp lại không quá
183 ngày trong năm thu nhập có liên quan sẽ không bị đánh thuế tại Nước kia nếu
công việc này liên quan trực tiếp đến việc học tập hoặc thực tập của cá nhân đó
diễn ra tại Nước thứ nhất.
Điều 21. THU NHẬP KHÁC
1. Những khoản thu nhập của một đối tượng cư trú của
một Nước ký kết, cho dù phát sinh ở đâu, chưa được đề cập đến tại những Điều
trên của Hiệp định này, sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Những quy định tại khoản 1 sẽ không áp dụng đối
với thu nhập, trừ thu nhập từ bất động sản được định nghĩa tại khoản 2 Điều 6,
nếu đối tượng nhận khoản thu nhập đó là đối tượng cư trú của một Nước ký kết,
có tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường
trú có tại Nước kia hoặc thực hiện tại Nước kia những hoạt động dịch vụ cá nhân
độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia, và quyền hoặc tài sản liên
quan đến số thu nhập được chi trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hoặc
cơ sở cố định nói trên. Trong trường hợp như vậy những quy định tại các Điều 7
hoặc Điều 14, tùy từng trường hợp, sẽ được
áp dụng.
3. Mặc dù có những quy định tại các khoản 1 và 2,
những khoản thu nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết chưa được đề
cập đến tại các Điều trên của Hiệp định này và phát sinh tại Nước ký kết kia
cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
Điều 22. XOÁ BỎ VIỆC ĐÁNH THUẾ
HAI LẦN
1. Tại Việt Nam, việc tránh đánh thuế hai lần sẽ được
thực hiện như sau:
(a) Trường hợp một đối tượng cư trú của Việt Nam nhận
được thu nhập hoặc giá trị tăng thêm mà theo các luật của Niu Di-lân, và phù hợp
với Hiệp định này, có thể bị đánh thuế tại Niu Di-lân, Việt Nam sẽ cho phép khấu
trừ vào thuế đánh trên thu nhập hoặc tài sản một khoản tiền bằng số tiền thuế
đã nộp tại Niu Di-lân. Tuy nhiên, khoản tiền thuế được khấu trừ sẽ không vượt
quá số thuế Việt Nam đánh trên thu nhập, lợi nhuận hoặc giá trị tăng thêm được
tính phù hợp với các luật và quy định về thuế của Việt Nam.
(b) Trường hợp một đối tượng cư trú của Việt Nam nhận
được thu nhập hoặc giá trị tăng thêm mà theo các quy định của Hiệp định này sẽ
chỉ bị đánh thuế tại Niu Di-lân, trong khi tính số thuế đối với thu nhập còn lại
của đối tượng cư trú đó tại Việt Nam, Việt Nam có thể xét đến phần thu nhập hoặc
giá trị tăng thêm được miễn thuế.
2. Tại Niu Di-lân, việc tránh đánh thuế hai lần sẽ
được thực hiện như sau:
(a) Theo quy định của pháp luật Niu Di-lân liên
quan đến việc cho phép một khoản khấu trừ đối với thuế Niu Di-lân đã nộp tại một
quốc gia bên ngoài Niu Di-lân (không ảnh hưởng đến nguyên tắc chung của Điều
này), thuế Việt Nam đã nộp theo pháp luật Việt Nam và phù hợp với Hiệp định
này, đối với thu nhập phát sinh bởi một đối tượng cư trú của Niu Di-lân từ các nguồn tại Việt Nam (trong
trường hợp tiền lãi cổ phần, trừ khoản thuế được nộp liên quan đến lợi nhuận
dùng để chia tiền lãi cổ phần) sẽ được cho phép khấu trừ thuế Niu Di-lân phải nộp
liên quan đến thu nhập đó.
(b) Trường hợp một đối tượng cư trú của Niu Di-lân
nhận được thu nhập được miễn thuế tại Niu Di-lân theo bất kỳ quy định nào của
Hiệp định này, trong khi tính số thuế đối với thu nhập còn lại của đối tượng cư
trú đó, Niu Di-lân có thể xét đến phần thu nhập được miễn thuế.
3. Vì mục đích của khoản 2(a) của Điều này:
(a) Số thuế nộp tại Việt Nam đối với tiền lãi cổ phần
mà khoản 2 Điều 10 áp dụng, đối với lãi từ tiền cho vay mà khoản 2 Điều 11 áp dụng
và đối với tiền bản quyền mà khoản 2 Điều 12 áp dụng sẽ được coi như bao gồm một
số thuế quy định tại khoản 3(b) của Điều này khi khoản thuế như vậy có thể phải
nộp như thuế Việt Nam nhưng được miễn hoặc giảm thuế cho năm đó hoặc bất kỳ phần
nào của thuế đó do kết quả của việc áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam
được thiết kế để cung cấp các ưu đãi về thuế nhằm thúc đẩy đầu tư nước ngoài
cho mục đích phát triển.
(b) Vì mục đích của tiết khoản 3(a) của Điều này, số
thuế phải nộp được coi là đã nộp tại Việt Nam đối với tiền lãi cổ phần mà khoản
2 Điều 10 áp dụng, đối với lãi từ tiền cho vay mà khoản 2 Điều 11 áp dụng và đối
với tiền bản quyền mà khoản 2 Điều 12 áp dụng sẽ được coi là 5 phần trăm tổng số
tiền lãi cổ phần đó mà tiết khoản 2(a) áp dụng, 15 phần trăm tổng số tiền lãi cổ
phần đó mà tiết khoản 2(b) áp dụng, 10 phần trăm tổng số lãi từ tiền cho vay đó
và 10 phần trăm tổng số tiền bản quyền đó.
4. Mặc dù có khoản 3(a) của Điều này, một đối tượng
cư trú của Niu Di-lân có thu nhập từ Việt Nam là khoản thu nhập được đề cập tại
khoản đó sẽ không được coi là đã nộp thuế Việt Nam đối với thu nhập nếu:
(a) đối tượng cư trú của Niu Di-lân là một tổ chức
tài chính hoặc có liên kết với một tổ chức tài chính;
(b) sau khi trao đổi với nhà chức trách có thẩm quyền
của Việt Nam, nhà chức trách có thẩm quyền của Niu Di-lân cho rằng không thích
hợp để coi như vậy có xem xét đến:
(i) liệu có bất cứ thỏa thuận trước nào đã có bởi bất
cứ đối tượng nào vì mục đích lợi dụng khoản 3(a) để đối tượng đó hoặc bất kỳ đối
tượng nào được hưởng lợi;
(ii) liệu có bất kỳ lợi ích nào tích lũy hoặc có thể
tích lũy cho một đối tượng không phải là đối tượng cư trú của Niu Di-lân hoặc đối
tượng cư trú của Việt Nam;
(iii) việc chống gian lận hoặc tránh các loại thuế
mà Hiệp định này áp dụng;
(iv) bất cứ vấn đề nào khác mà một trong hai nhà chức
trách có thẩm quyền coi là thích hợp trong các hoàn cảnh của một trường hợp cụ
thể, bao gồm bất cứ đệ trình nào của đối tượng cư trú Niu Di-lân có liên quan.
5. Quy định tại khoản 3 của Điều này sẽ chỉ áp dụng
trong khoảng thời gian 10 năm sau ngày Hiệp định này có hiệu lực.
Điều 23. KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ
1. Các đối tượng mang quốc tịch của một Nước ký kết
sẽ không phải chịu tại Nước ký kết kia bất cứ hình thức thuế nào hoặc bất cứ
yêu cầu nào liên quan đến hình thức thuế đó khác với hoặc nặng hơn hình thức
thuế và các yêu cầu liên quan hiện đang hoặc có thể áp dụng đối với các đối tượng mang quốc tịch của Nước kia,
đặc biệt đối với đối tượng cư trú, trong cùng các hoàn cảnh như nhau.
2. Hình thức thuế áp dụng đối với một cơ sở thường
trú của một doanh nghiệp của một Nước ký kết có tại Nước ký kết kia sẽ không
kém thuận lợi hơn loại thuế áp dụng đối với các doanh nghiệp của Nước kia cùng
thực hiện những hoạt động tương tự trong
cùng các hoàn cảnh như nhau. Quy định này sẽ không được giải thích là buộc một
Nước ký kết phải cho các cá nhân là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia được
hưởng bất kỳ khoản miễn thu cá nhân, khoản miễn và giảm nào vì mục đích thuế mà
đối tượng cư trú của Nước ký kết được hưởng.
3. Trừ trường hợp áp dụng các quy định tại khoản 1
Điều 9, khoản 6 Điều 11 hoặc khoản 6 Điều 12, lãi từ tiền cho vay, tiền bản quyền
và các khoản thanh toán khác do một doanh nghiệp của một Nước ký kết trả cho đối
tượng cư trú của Nước ký kết kia, khi xác định các khoản lợi tức chịu thuế của
doanh nghiệp đó sẽ được khấu trừ theo cùng các điều kiện như thể là các khoản
tiền đó được trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết thứ nhất.
4. Các doanh nghiệp của một Nước ký kết có toàn bộ
hoặc một phần vốn do một hoặc nhiều đối tượng cư trú của Nước ký kết kia kiểm
soát hoặc sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp, sẽ không phải chịu tại Nước ký kết
thứ nhất bất cứ hình thức thuế hoặc yêu cầu nào liên quan đến hình thức thuế đó
nặng hơn hình thức thuế và các yêu cầu liên quan hiện đang hoặc có thể được áp
dụng cho các doanh nghiệp tương tự khác của Nước ký kết thứ nhất trong cùng các
hoàn cảnh như nhau.
5. Các quy định tại Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với
các loại thuế bao gồm trong Hiệp định.
Điều 24. THỦ TỤC THỎA THUẬN
SONG PHƯƠNG
1. Trường hợp
một đối tượng là đối tượng cư trú của một
Nước ký kết nhận thấy rằng việc giải quyết của nhà chức trách có thẩm quyền của
một hoặc cả hai Nước ký kết làm cho hoặc sẽ làm cho đối tượng đó phải nộp thuế
không đúng với các quy định của Hiệp định này, khi đó đối tượng này có thể giải
trình trường hợp của mình với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết nơi
đối tượng đó đang cư trú, mặc dù trong các luật trong nước của hai Nước ký kết
đã quy định các chế độ xử lý khiếu nại. Trường hợp đó phải được giải trình
trong thời hạn 3 năm kể từ lần thông báo giải quyết đầu tiên dẫn đến hình thức
thuế áp dụng không đúng với các quy định của Hiệp định.
2. Nhà chức trách có thẩm quyền sẽ cố gắng, nếu như
việc khiếu nại là hợp lý và nếu bản thân nhà chức trách đó không thể đi đến một
giải pháp thỏa đáng, phối hợp với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết
kia để cùng giải quyết trường hợp khiếu nại
bằng thỏa thuận chung, nhằm mục đích tránh đánh thuế không phù hợp với quy định
của Hiệp định này. Mọi thỏa thuận đạt được sẽ được
thực hiện không căn cứ vào những giới hạn thời gian quy định tại luật trong nước
của hai Nước ký kết.
3. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
sẽ cố gắng giải quyết bằng thỏa thuận chung mọi khó khăn hoặc vướng mắc nảy
sinh trong quá trình giải thích hoặc áp dụng Hiệp định này. Nhà chức trách có
thẩm quyền của hai Nước cũng có thể trao đổi với nhau nhằm xóa bỏ việc đánh thuế
hai lần trong các trường hợp không được quy định tại Hiệp định.
4. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
có thể liên hệ trực tiếp với nhau nhằm đạt được một thỏa thuận theo nội dung của
các khoản trên đây.
Điều 25. TRAO ĐỔI THÔNG TIN
1. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
sẽ trao đổi với nhau các thông tin được thấy trước là thích hợp cho việc thực
hiện các quy định tại Hiệp định này hoặc để quản lý, cưỡng chế tuân thủ các luật
thuế trong nước của từng Nước ký kết hoặc cơ quan chính quyền cơ sở hoặc chính
quyền địa phương sao cho việc đánh thuế theo các luật trong nước không trái với
Hiệp định này. Việc trao đổi thông tin không bị giới hạn bởi Điều 1.
2. Mọi thông tin do một Nước ký kết nhận được sẽ được
giữ bí mật giống như thông tin thu nhận theo luật trong nước của Nước này và
thông tin đó sẽ chỉ được cung cấp cho các đối tượng hoặc các cơ quan chức năng
(bao gồm cả tòa án và các cơ quan hành chính) có liên quan đến việc tính toán
hoặc thu, cưỡng chế hoặc truy tố hoặc xác định các khiếu nại về các loại thuế
nêu tại Khoản 1, hoặc giám sát các nội dung trên. Các đối tượng hoặc các cơ
quan chức năng này sẽ chỉ sử dụng các thông tin đó vào các mục đích nêu trên.
Các đối tượng và các cơ quan đó có thể cung cấp các thông tin này trong quá
trình tố tụng công khai của tòa án hoặc trong các quyết định của tòa án.
3. Không có trường hợp
nào mà các quy định tại khoản 1 và 2 được giải thích là buộc một Nước ký kết có
nghĩa vụ:
(a) thực hiện các biện pháp hành chính khác với
pháp luật hoặc thông lệ về quản lý hành chính của Nước ký kết đó hoặc của Nước ký kết kia;
(b) cung cấp các thông tin không thể tiết lộ được
theo pháp luật hoặc theo như quá trình quản lý hành chính thông thường của Nước
ký kết đó hoặc của Nước ký kết kia;
(c) cung cấp các thông tin có thể làm tiết lộ bí mật
về thương mại, kinh doanh, công nghiệp, thương nghiệp hoặc bí mật nghề nghiệp
hoặc các quy trình kinh doanh, hoặc cung cấp các thông tin mà việc tiết lộ
chúng có thể trái với chính sách quốc gia.
4. Nếu thông tin do một Nước ký kết yêu cầu phù hợp
với Điều này, Nước ký kết kia sẽ sử dụng
các biện pháp thu thập thông tin của mình để có được các thông tin theo yêu cầu,
mặc dù Nước kia có thể không cần các thông tin như vậy cho mục đích thuế của
mình. Nghĩa vụ được quy định tại câu trên phụ thuộc vào các giới hạn tại khoản
3 nhưng trong mọi trường hợp, các giới hạn này không có nghĩa là cho phép một
Nước ký kết từ chối việc cung cấp thông tin chỉ vì Nước ký kết đó không có lợi
ích trong nước đối với các thông tin như vậy.
5. Trong mọi trường hợp, các quy định tại khoản 3 sẽ
không cho phép một Nước ký kết từ chối việc cung cấp thông tin chỉ vì thông tin
do một ngân hàng, tổ chức tài chính, đối tượng được chỉ định hoặc đối tượng với
tư cách đại lý hoặc đối tượng được ủy
thác khác nắm giữ hoặc chỉ vì thông tin có liên quan tới các lợi ích về sở hữu
trong một đối tượng.
Điều 26. THÀNH VIÊN CƠ QUAN ĐẠI
DIỆN NGOẠI GIAO VÀ CƠ QUAN LÃNH SỰ
Không nội dung nào tại Hiệp định này ảnh hưởng đến các
ưu đãi về thuế của thành viên cơ quan đại diện ngoại giao và cơ quan lãnh sự
theo các quy phạm chung của pháp luật quốc tế hoặc các quy định tại các hiệp định
đặc biệt.
Điều 27. HIỆU LỰC
Mỗi Nước ký kết, thông qua đường ngoại giao, sẽ
thông báo cho nhau biết việc hoàn tất các thủ tục theo yêu cầu của pháp luật nước
mình để Hiệp định có hiệu lực. Hiệp định này sẽ có hiệu lực vào ngày nhận được
thông báo sau cùng và Hiệp định này sẽ có hiệu lực thi hành:
(a) tại Việt Nam:
(i) đối với các loại thuế khấu trừ tại nguồn thu
trên các khoản thu nhập chịu thuế phát sinh vào ngày hoặc sau ngày 1 tháng 1 của
năm dương lịch tiếp sau năm Hiệp định có hiệu lực, và các năm tiếp theo; và
(ii) đối với các loại thuế khác của Việt Nam, liên
quan đến thu nhập, lợi nhuận hay giá trị tăng thêm phát sinh vào ngày hoặc sau
ngày mùng 1 tháng 1 năm dương lịch tiếp sau năm Hiệp định có hiệu lực, và các
năm tiếp theo;
(b) tại Niu Di-lân:
(i) đối với thuế khấu trừ đối với thu nhập, lợi nhuận
hay giá trị tăng thêm phát sinh bởi một đối tượng không cư trú, các khoản trả
cho hoặc được khấu trừ vào ngày hoặc sau ngày 1 tháng
1 của năm sau năm dương lịch Hiệp định có hiệu lực;
(ii) đối với các loại thuế khác của Niu Di-lân,
liên quan đến bất kỳ năm tính thuế nào bắt đầu vào ngày hoặc sau ngày 1 tháng 4
năm tiếp theo năm Hiệp định có hiệu lực.
Điều 28. CHẤM DỨT HIỆU LỰC
Hiệp định này sẽ vẫn còn hiệu lực cho tới khi một
Nước ký kết tuyên bố chấm dứt hiệu lực. Từng Nước ký kết thông qua đường ngoại
giao có thể chấm dứt hiệu lực Hiệp định bằng cách gửi thông báo chấm dứt hiệu lực
Hiệp định vào ngày hoặc trước ngày 30 tháng 6 của bất kỳ năm dương lịch nào bắt
đầu từ sau thời hạn 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực. Trong trường hợp
như vậy, Hiệp định sẽ hết hiệu lực thi hành:
(a) tại Việt Nam:
(i) đối với các loại thuế khấu trừ tại nguồn, thu
trên các khoản thu nhập chịu thuế phát sinh vào ngày hoặc sau ngày 1 tháng 1 của
năm dương lịch tiếp sau năm gửi thông báo kết thúc hiệu lực, và các năm tiếp
theo; và:
(ii) đối với các loại thuế khác của Việt Nam, liên
quan đến thu nhập, lợi nhuận hay giá trị tăng thêm phát sinh vào ngày hoặc sau
ngày mùng 1 tháng 1 năm dương lịch tiếp sau năm gửi thông báo;
(b) tại Niu Di-lân:
(i) liên quan đến thuế khấu trừ đối với thu nhập, lợi
nhuận hay giá trị tăng thêm phát sinh bởi một đối tượng không cư trú, các khoản
trả cho hoặc được khấu trừ vào ngày hoặc sau ngày 1 tháng 1 năm dương lịch tiếp
sau năm nhận được thông báo;
(ii) đối với các loại thuế khác của Niu Di-lân,
liên quan đến bất kỳ năm tính thế nào bắt đầu vào hoặc sau ngày 1 tháng 4 năm
dương lịch tiếp sau năm gửi thông báo.
ĐỂ LÀM BẰNG những người có tên dưới đây, được sự ủy quyền hợp thức của Chính phủ nước mình, đã
ký vào Hiệp định này.
LÀM tại Hà Nội ngày
05 tháng 8 năm 2013 thành hai bản bằng tiếng Việt và tiếng Anh, tất cả các văn
bản đều có giá trị như nhau.
THAY MẶT CHÍNH
PHỦ
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
Phạm Quang Vinh
THỨ TRƯỞNG BỘ NGOẠI GIAO
|
THAY MẶT CHÍNH
PHỦ
NƯỚC NIU DI-LÂN
Ngài Haike Manning
ĐẠI SỨ
|
NGHỊ ĐỊNH THƯ
Tại thời điểm ký kết Hiệp định giữa
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Niu Di-lân
về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế
đánh vào thu nhập, những người ký dưới đây đã thống nhất những quy định sau sẽ
là bộ phận hợp thành của Hiệp định.
ĐIỀU 1.
Liên quan đến
Điều 2 của Hiệp định:
Hai bên nhất trí rằng mặc dù có các
quy định tại Khoản 1 và 2 của Điều này, các loại thuế bao gồm trong Hiệp định
không bao gồm bất cứ khoản phạt hoặc tiền lãi được áp dụng bởi một trong hai Nước
ký kết liên quan đến việc không tuân thủ luật thuế của một Nước ký kết, bao gồm
việc chậm nộp hoặc không nộp các khoản thuế.
ĐIỀU 2.
Liên quan đến
Điều 6 của Hiệp định:
Hai bên nhất trí rằng thuật ngữ: “rừng”
bao gồm rừng trồng và rừng tự nhiên.
ĐIỀU 3.
Liên quan đến
Điều 23 của Hiệp định:
Hai bên thỏa thuận rằng Điều này sẽ
không áp dụng đối với bất kỳ điều khoản nào của pháp luật của cả hai Nước ký kết
mà:
(a) được thiết kế để chống lại việc
tránh thuế và trốn thuế bao gồm:
(i) các biện pháp được thiết kế để điều
chỉnh vốn hóa mỏng và xác định giá chuyển nhượng;
(ii) các nguyên tắc về công ty nước
ngoài bị kiểm soát và các quỹ đầu tư nước ngoài; và
(iii) các biện pháp được thiết kế nhằm
đảm bảo thu thuế và truy thu thuế hiệu quả, bao gồm các biện pháp bảo vệ;
(b) không cho phép hoãn các loại thuế
phát sinh từ việc chuyển nhượng một tài sản trong trường hợp việc chuyển nhượng
tài sản kế tiếp bởi người chuyển nhượng có thể nằm ngoài quyền tài phán thuế của
Nước ký kết theo luật của Nước đó;
(c) quy định hợp nhất xử lý nhóm các
thực thể để xử lý như một thực thể duy nhất cho mục đích thuế nếu một công ty
là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, mà toàn bộ hay một phần vốn của công
ty đó do một hay nhiều đối tượng cư trú của Nước ký kết kia sở hữu hoặc kiểm
soát trực tiếp hay gián tiếp, có thể tiếp cận việc xử lý hợp nhất như vậy về
cùng các điều kiện và điều khoản như các công ty khác là đối tượng cư trú của
Nước ký kết thứ nhất;
(d) quy định việc chuyển lỗ trong nội
bộ tập đoàn công ty;
(e) không cho phép miễn thuế liên
quan đến tiền lãi cổ phần trả bởi một công ty là đối tượng cư trú của một Nước
ký kết cho mục đích thuế của Nước đó; hoặc
(f) bất cứ quy định nào được áp dụng
sau ngày ký Hiệp định này mà mục đích hoặc ý định về cơ bản tương tự như một
quy định thuộc khoản này hoặc được thỏa thuận là không bị ảnh hưởng bởi Điều
này tại các Công hàm trao đổi giữa các Nước ký kết.
ĐIỀU 4.
Liên quan đến
Điều 10, 11 và 12 của Hiệp định:
Hai bên thỏa thuận rằng tín thác là đối
tượng chịu thuế tại một Nước ký kết liên quan đến tiền lãi cổ phần, lãi từ tiền
cho vay hoặc tiền bản quyền sẽ được coi là chủ sở hữu thực hưởng của tiền lãi cổ
phần, lãi từ tiền cho vay hoặc tiền bản quyền đó.
ĐIỀU 5.
Liên quan đến
khoản 1 của Điều 25:
Hai bên thỏa thuận rằng vào bất cứ thời điểm nào sau ngày ký Nghị định thư này, Việt
Nam đồng ý bổ sung một tham chiếu đến Điều 2 tại câu cuối của khoản đó trong bất
cứ các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với
các loại thuế đánh vào thu nhập trong tương lai của Việt Nam thì Việt Nam sẽ
không trì hoãn một cách không hợp lý việc đàm phán với Niu Di-lân với quan điểm
đưa ra một sự đối xử tương ứng.
ĐỂ LÀM BẰNG những người có tên dưới
đây của từng Chính phủ đã ký vào Nghị định thư này.
LÀM tại Hà Nội ngày 05 tháng 8 năm 2013, thành hai bản bằng tiếng
Việt và tiếng Anh, tất cả các văn bản đều có giá trị như nhau.
THAY MẶT CHÍNH
PHỦ
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
Phạm Quang Vinh
THỨ TRƯỞNG BỘ NGOẠI GIAO
|
THAY MẶT CHÍNH
PHỦ
NƯỚC NIU DI-LÂN
Ngài Haike Manning
ĐẠI SỨ
|