BỘ
NGOẠI GIAO
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
76/2016/TB-LPQT
|
Hà
Nội, ngày 27 tháng 12 năm 2016
|
THÔNG BÁO
VỀ VIỆC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ CÓ HIỆU LỰC
Thực hiện quy định tại Điều 56 của Luật
Điều ước quốc tế năm 2016, Bộ Ngoại giao trân trọng thông báo:
Hiệp định giữa nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Bồ Đào Nha về tránh đánh thuế hai lần và
ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập, ký tại Lisbon ngày 03 tháng 6 năm 2015, có hiệu lực từ ngày 09 tháng
11 năm 2016.
Bộ Ngoại giao trân trọng gửi Bản sao
Hiệp định theo quy định tại Điều 59 của Luật nêu trên./.
|
TL.
BỘ TRƯỞNG
KT. VỤ TRƯỞNG
VỤ LUẬT PHÁP VÀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
PHÓ VỤ TRƯỞNG
Lê Hải Triều
|
HIỆP ĐỊNH
GIỮA
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ NƯỚC CỘNG HÒA BỒ ĐÀO NHA VỀ TRÁNH
ĐÁNH THUẾ HAI LẦN VÀ NGĂN NGỪA VIỆC TRỐN LẬU THUẾ ĐỐI VỚI CÁC LOẠI THUẾ ĐÁNH
VÀO THU NHẬP
Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam và nước Cộng hòa Bồ Đào Nha,
Mong muốn ký kết một Hiệp định về việc
tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế
đánh vào thu nhập, để xúc tiến và thúc đẩy quan hệ kinh tế giữa hai nước,
Đã thỏa thuận dưới đây:
ĐIỀU 1
Phạm vi áp dụng
Hiệp định này áp dụng đối với các đối
tượng là những đối tượng cư trú của một hoặc của cả hai Nước
ký kết.
ĐIỀU 2
Các loại thuế bao gồm trong Hiệp định
1. Hiệp định này áp dụng đối với các
loại thuế do một Nước ký kết hoặc chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của Nước đó, đánh vào thu nhập, bất kể hình thức áp dụng của
các loại thuế đó như thế nào.
2. Tất cả các loại thuế thu trên tổng
thu nhập, hoặc những phần của thu nhập bao gồm các loại thuế đối với giá trị tăng thêm từ chuyển nhượng động sản hoặc bất động sản, các loại thuế đánh trên tổng số tiền lương
hoặc tiền công do doanh nghiệp trả, cũng như thuế trên giá trị tăng thêm của
tài sản đều được coi là thuế thu nhập.
3. Các loại thuế hiện hành được áp dụng
trong Hiệp định này cụ thể là:
(a) tại Việt Nam:
(i) thuế thu nhập cá nhân; và
(ii) thuế thu nhập
doanh nghiệp
(dưới đây được gọi là “thuế Việt
Nam”); và
(b) tại Bồ Đào Nha:
(i) thuế thu nhập cá nhân (Imposto
sobre o Rendimento das Pessoas Colectivas - IRC);
(ii) thuế thu nhập
doanh nghiệp (Imposto sobre o Rendimento das Pessoas Singulares - IRS); và
(iii) thuế phụ
thu đối với thuế thu nhập doanh nghiệp (Derramas);
(dưới đây được gọi là “thuế Bồ Đào
Nha”).
4. Hiệp định này cũng sẽ được áp dụng
đối với các loại thuế có tính chất tương tự hoặc về cơ bản
giống như các loại thuế trên được ban
hành sau ngày ký Hiệp định này để bổ sung, hoặc thay thế các
loại thuế hiện hành. Các nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết sẽ thông báo cho nhau biết những thay đổi quan trọng trong các
luật thuế của từng Nước.
ĐIỀU 3
Các định nghĩa chung
1. Theo nội dung của Hiệp định này,
trừ trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác:
(a) thuật ngữ “Việt Nam” có nghĩa là
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; khi dùng theo nghĩa địa lý, thuật ngữ
này có nghĩa là lãnh thổ đất liền, các hải đảo, nội thủy, lãnh hải và vùng trời
phía trên đó, vùng biển ngoài lãnh hải, bao gồm cả đáy biển và lòng đất dưới
đáy biển mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chủ quyền, quyền
chủ quyền và quyền tài phán phù hợp với pháp luật quốc gia và luật pháp quốc tế;
(b) thuật ngữ “Bồ Đào Nha" khi
dùng theo nghĩa địa lý có nghĩa là lãnh thổ nước Cộng hòa Bồ Đào Nha phù hợp với
pháp luật Bồ Đào Nha và luật pháp quốc tế;
(c) thuật ngữ “Nước ký kết” và “Nước
ký kết kia” có nghĩa là Bồ Đào Nha hoặc Việt Nam, tùy ngữ cảnh đòi hỏi;
(d) thuật ngữ “đối tượng” bao gồm cá
nhân, công ty và bất kỳ tổ chức của nhiều đối tượng nào khác;
(e) thuật ngữ “công ty” có nghĩa là bất
kỳ tổ chức công ty hoặc bất kỳ một thực thể nào được coi là tổ chức công ty dưới
giác độ thuế;
(f) thuật ngữ “doanh nghiệp của một
Nước ký kết” và “doanh nghiệp của Nước ký kết kia” theo thứ tự có nghĩa là một
doanh nghiệp được điều hành bởi một đối tượng cư trú của một Nước ký kết và một
doanh nghiệp được điều hành bởi một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia;
(g) thuật ngữ “đối tượng mang quốc tịch”,
có liên quan đến một Nước ký kết, có nghĩa là:
(i) bất kỳ cá nhân nào mang quốc tịch
Nước ký kết đó; và
(ii) bất kỳ pháp nhân, công ty hợp
danh và hiệp hội nào có tư cách theo các luật có hiệu lực Nước ký kết đó;
(h) thuật ngữ “vận tải quốc tế” có
nghĩa là bất kỳ sự vận chuyển nào bằng tàu thủy hoặc máy bay được thực hiện bởi
một doanh nghiệp của một Nước ký kết, trừ trường hợp khi chiếc tàu thủy hoặc
máy bay đó chỉ hoạt động giữa những địa điểm trong Nước ký kết kia; và
(i) thuật ngữ “nhà chức trách có thẩm
quyền” có nghĩa là:
|
(i) trong trường hợp của Việt Nam,
là Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc người đại diện được ủy quyền;
(ii) trong trường hợp của Bồ Đào Nha,
là Bộ trưởng Bộ Tài chính, Tổng cục trưởng Cơ quan Thuế và Hải quan hoặc người
đại diện được ủy quyền.
|
2. Trong khi một Nước ký kết áp dụng
Hiệp định này vào bất kỳ thời điểm nào, bất kỳ thuật ngữ nào chưa được định
nghĩa tại Hiệp định này sẽ có nghĩa theo như định nghĩa tại luật của Nước đó, đối
với các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng vào thời điểm đó, bất kỳ nghĩa nào
theo các luật thuế được áp dụng của Nước đó sẽ có giá trị cao hơn nghĩa của thuật
ngữ đó theo các luật khác của Nước đó, trừ trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải
thích khác.
ĐIỀU 4
Đối tượng cư trú
1. Theo nội dung của Hiệp định này,
thuật ngữ “đối tượng cư trú của một Nước ký kết” có nghĩa là bất kỳ đối tượng
nào, mà theo các luật của Nước đó, là đối tượng chịu thuế căn cứ vào nhà ở, nơi
cư trú, trụ sở đăng ký, trụ sở điều hành, hoặc bất kỳ tiêu thức nào khác có
tính chất tương tự và cũng bao gồm cả Nhà nước đó và bất kỳ chính quyền cơ sở
hoặc chính quyền địa phương của Nước đó. Tuy nhiên, thuật ngữ này không bao gồm
bất kỳ đối tượng nào là đối tượng chịu thuế tại Nước đó chỉ đối với thu nhập từ
các nguồn tại Nước đó.
2. Trường hợp theo các quy định tại
khoản 1, khi một cá nhân là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết, thì thân
phận cư trú của cá nhân đó sẽ được xác định như sau:
(a) cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng
cư trú chỉ của Nước mà tại đó cá nhân đó có nhà ở thường trú; nếu cá nhân đó có
nhà ở thường trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ
của Nước mà cá nhân đó có các quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ hơn (trung
tâm của các quyền lợi chủ yếu);
(b) nếu không thể xác định được Nước
nơi cá nhân đó có trung tâm các quyền lợi chủ yếu, hoặc nếu cá nhân đó không có
nhà ở thường trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ
của Nước mà cá nhân đó thường sống;
(c) nếu cá nhân đó thường xuyên sống ở
cả hai Nước hoặc không thường xuyên ở Nước nào, cá nhân đó sẽ được coi là đối
tượng cư trú chỉ của Nước mà cá nhân đó mang quốc tịch;
(d) nếu cá nhân đó là đối tượng mang
quốc tịch của cả hai Nước hoặc không mang quốc tịch của Nước nào, các nhà chức
trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ giải quyết vấn đề đó bằng thỏa thuận
chung.
3. Theo những quy định tại khoản 1,
khi một đối tượng không phải là cá nhân là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký
kết, đối tượng đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ của Nước nơi có trụ sở điều
hành thực tế.
ĐIỀU 5
Cơ sở thường trú
1. Theo nội dung của Hiệp định này,
thuật ngữ “cơ sở thường trú” có nghĩa là một địa điểm kinh doanh cố định mà qua
đó doanh nghiệp thực hiện toàn bộ hoặc một phần hoạt động kinh doanh của mình.
2. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” chủ yếu
bao gồm:
(a) trụ sở điều hành;
(b) chi nhánh;
(c) văn phòng;
(d) nhà máy;
(e) xưởng;
(f) kho hàng; và
(g) mỏ, giếng dầu hoặc khí, mỏ đá hoặc
bất kỳ địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên nào khác.
3. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” cũng
bao gồm:
(a) một địa điểm xây dựng, dự án xây
dựng, lắp ráp hoặc lắp đặt hoặc các hoạt động giám sát liên quan, nhưng chỉ khi địa điểm, dự án hoặc
các hoạt động này kéo dài hơn sáu tháng; và
(b) việc cung cấp
các dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ tư vấn do một doanh nghiệp
thực hiện thông qua những người làm công hoặc những đối tượng khác được doanh
nghiệp giao thực hiện các hoạt động trên, nhưng chỉ khi
các hoạt động mang tính chất nêu trên kéo dài (trong cùng
một dự án hoặc một dự án có liên quan) tại một Nước ký kết trong một giai đoạn
hoặc nhiều giai đoạn gộp lại hơn sáu tháng trong bất kỳ giai đoạn mười hai
tháng.
4. Mặc dù có những quy định trên của
Điều này, thuật ngữ “cơ sở thường trú” sẽ được coi là không bao gồm:
(a) việc sử dụng các phương tiện chỉ
với mục đích lưu kho hoặc trưng bày hoặc không thường xuyên giao hàng hóa hoặc
tài sản của doanh nghiệp;
(b) việc duy trì kho hàng hóa hoặc tài sản của doanh nghiệp chỉ với mục đích lưu kho hoặc trưng bày hoặc không thường xuyên giao hàng;
(c) việc duy trì kho hàng hóa hoặc
tài sản của doanh nghiệp chỉ với mục đích để cho doanh nghiệp khác gia công;
(d) việc duy trì một địa điểm kinh
doanh cố định chỉ với mục đích thu thập thông tin cho
doanh nghiệp hoặc mua hàng hóa hoặc tài sản để cho doanh
nghiệp tiếp tục sản xuất hoặc gia công;
(e) việc duy trì một địa điểm kinh
doanh cố định chỉ với mục đích tiến hành bất kỳ hoạt động nào khác mang tính chất
chuẩn bị hoặc phụ trợ cho doanh nghiệp; và
(f) việc duy trì một địa điểm kinh
doanh cố định chỉ để phục vụ cho bất kỳ sự kết hợp nào của
các hoạt động đã được nêu từ điểm (a) đến điểm (e), với điều
kiện toàn bộ hoạt động của cơ sở kinh doanh cố định đó trên cơ sở sự kết hợp này
mang tính chất chuẩn bị hoặc phụ trợ.
5. Mặc dù có những quy định tại các
khoản 1 và 2, trường hợp một đối tượng - trừ đại lý có tư cách độc lập được điều chỉnh tại khoản 7 - hoạt động tại một Nước ký kết thay mặt cho một
doanh nghiệp của Nước ký kết kia, doanh nghiệp đó sẽ được
coi là có cơ sở thường trú tại Nước ký kết thứ nhất đối với các hoạt động mà đối
tượng đó thực hiện cho doanh nghiệp, nếu đối tượng đó:
(a) có và thường xuyên thực hiện tại Nước
đó thẩm quyền ký kết các hợp đồng đứng tên doanh nghiệp, trừ khi các hoạt động
của đối tượng đó chỉ giới hạn trong phạm vi các hoạt động
nêu tại khoản 4 mà những hoạt động đó nếu được thực hiện thông qua một địa điểm
kinh doanh cố định thì sẽ không làm cho địa điểm kinh doanh cố định đó trở
thành một cơ sở thường trú theo những quy định tại khoản đó; hoặc
(b) không có thẩm quyền trên, nhưng
thường xuyên duy trì tại Nước thứ nhất một kho hàng hóa hoặc tài sản, qua đó đối
tượng này thường xuyên giao hàng hóa hoặc tài sản thay mặt cho doanh nghiệp.
6. Mặc dù có các quy định trên của Điều
này, một doanh nghiệp bảo hiểm của một Nước ký kết, trừ trường hợp tái bảo hiểm,
sẽ được coi là có một cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia nếu doanh nghiệp đó
thu phí bảo hiểm trong lãnh thổ của Nước kia hoặc bảo hiểm các rủi ro tại
đó thông qua một đối tượng không phải là một đại lý có tư cách độc
lập được điều chỉnh bởi khoản 7.
7. Một doanh nghiệp của một Nước ký kết
sẽ không được coi là có một cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia chỉ vì doanh
nghiệp đó thực hiện kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một đại lý môi giới,
một đại lý hoa hồng hoặc bất kỳ một đại lý nào khác có tư cách độc lập, với điều
kiện những đối tượng này hoạt động trong khuôn khổ kinh doanh thông thường của
mình. Tuy nhiên, khi những hoạt động của đại lý đó dành toàn bộ hoặc hầu như
toàn bộ thay mặt cho doanh nghiệp đó, và điều kiện được tạo ra hoặc áp đặt giữa
doanh nghiệp đó và đại lý đó trong quan hệ thương mại và quan hệ tài chính khác
với điều kiện được tạo ra giữa các doanh nghiệp độc lập, đại lý đó sẽ không được
coi là đại lý có tư cách độc lập theo nghĩa của khoản này.
8. Việc một công ty là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết kiểm soát hoặc chịu sự kiểm soát bởi một công ty là đối
tượng cư trú của Nước ký kết kia hoặc tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước
ký kết kia (có thể thông qua một cơ sở thường trú hoặc dưới hình thức khác), sẽ
không làm cho bất kỳ công ty nào trở thành cơ sở thường trú của công ty kia.
ĐIỀU 6
Thu nhập từ bất động sản
1. Thu nhập mà một đối tượng cư trú của
một Nước ký kết thu được từ bất động sản (kể cả thu nhập từ nông nghiệp hoặc
lâm nghiệp) có tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Thuật ngữ “bất động sản” sẽ có nghĩa
theo như luật của Nước ký kết nơi có bất động sản đó. Thuật ngữ này trong mọi
trường hợp sẽ bao gồm cả những phần tài sản phụ kèm theo bất động sản, đàn gia
súc và thiết bị sử dụng trong nông nghiệp và lâm nghiệp, các quyền lợi được áp
dụng theo các quy định tại luật chung về điền sản, quyền sử dụng bất động sản
và các quyền được hưởng các khoản thanh toán cố định hoặc không cố định trả cho
việc khai thác hoặc quyền khai thác các mỏ, nguồn khoáng sản và các tài nguyên
thiên nhiên khác; các tàu thủy và máy bay sẽ không được coi là bất động sản.
3. Các quy định tại khoản 1 sẽ áp dụng
đối với thu nhập nhận được từ việc trực tiếp sử dụng, cho thuê, hoặc sử dụng dưới
bất kỳ hình thức nào khác của bất động sản.
4. Các quy định tại các khoản 1 và 3
cùng sẽ áp dụng đối với thu nhập từ bất động sản của một doanh nghiệp và đối với
thu nhập từ bất động sản được sử dụng để thực hiện các hoạt động dịch vụ cá
nhân độc lập.
5. Các quy định nêu trên cũng sẽ áp dụng
đối với thu nhập từ động sản hoặc thu nhập nhận được từ các dịch vụ liên quan tới
việc sử dụng hoặc quyền sử dụng bất động sản mà các thu nhập này theo luật thuế
của Nước ký kết nơi có tài sản coi như là thu nhập từ bất động sản.
ĐIỀU 7
Lợi nhuận kinh doanh
1. Lợi nhuận của một doanh nghiệp của
một Nước ký kết sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ trường hợp doanh nghiệp đó
tiến hành kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú tại Nước
ký kết kia. Nếu doanh nghiệp đó tiến hành kinh doanh theo cách trên, thì các
khoản lợi nhuận của doanh nghiệp có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia, nhưng
chỉ trên phần lợi nhuận phân bổ cho cơ sở thường trú đó.
2. Thể theo các quy định tại khoản 3,
khi một doanh nghiệp của một Nước ký kết tiến hành kinh doanh tại Nước ký kết
kia thông qua một cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia, thì tại mỗi Nước ký kết
sẽ có những khoản lợi nhuận được phân bổ cho cơ sở thường trú nói trên mà cơ sở
thường trú đó có thể thu được nếu nó là một doanh nghiệp riêng và tách biệt
cùng tham gia vào các hoạt động như nhau hoặc tương tự trong cùng các điều kiện
như nhau hoặc tương tự và có quan hệ hoàn toàn độc lập với doanh nghiệp mà cơ sở
đó được coi là cơ sở thường trú.
3. Trong khi xác định lợi nhuận của một
cơ sở thường trú, cơ sở này sẽ được phép khấu trừ các khoản chi phí phát sinh
phục vụ cho mục đích kinh doanh của cơ sở thường trú này, bao gồm cả chi phí điều
hành và chi phí quản lý chung cho dù chi phí đó phát sinh tại Nước nơi cơ sở
thường trú đó đóng hoặc ở bất cứ nơi nào khác. Tuy nhiên, sẽ không cho phép
tính vào các khoản chi phí được trừ bất cứ khoản tiền nào, nếu có, do cơ sở thường
trú trả cho (trừ khi là khoản thanh toán các chi phí thực tế) trụ sở chính của
doanh nghiệp hoặc bất cứ văn phòng nào khác của doanh nghiệp dưới hình thức tiền
bản quyền, các khoản lệ phí hoặc bất cứ khoản thanh toán tương tự nào khác để
được phép sử dụng sáng chế hoặc các quyền khác, hoặc dưới hình thức tiền hoa hồng
trả cho việc thực hiện các dịch vụ riêng biệt hoặc trả cho công việc quản lý,
hoặc dưới hình thức lãi tính trên tiền cho cơ sở thường trú vay, trừ trường hợp
tiền lãi của cơ sở ngân hàng. Tương tự như vậy, khi xác định lợi nhuận của cơ sở
thường trú sẽ không tính đến các khoản tiền (trừ các khoản tiền thanh toán các
chi phí thực tế) do cơ sở thường trú thu từ trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc
bất cứ văn phòng khác của doanh nghiệp, dưới hình thức tiền bản quyền, các khoản
lệ phí hoặc các khoản thanh toán tương tự để cho phép sử dụng sáng chế hoặc các
quyền khác, hoặc dưới hình thức tiền hoa hồng trả cho việc thực hiện các dịch vụ
riêng biệt hoặc trả cho công việc quản lý, hoặc dưới hình thức lãi tính trên tiền
cho trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc bất cứ văn phòng nào của doanh nghiệp
vay, trừ trường hợp lãi từ tiền cho vay của cơ sở ngân hàng.
4. Trường hợp tại một Nước ký kết vẫn
thường xác định các khoản lợi nhuận phân bổ cho cơ sở thường trú trên cơ sở
phân chia tổng lợi nhuận của doanh nghiệp thành các phần khác nhau, thì không
có nội dung nào tại khoản 2 ngăn cản Nước ký kết đó xác định lợi nhuận chịu thuế
theo cách phân chia theo thông lệ đó; tuy nhiên, phương pháp phân chia được áp
dụng như vậy phải đưa ra kết quả phù hợp với các nguyên tắc của Điều này.
5. Không một khoản lợi nhuận nào sẽ
được phân bổ cho một cơ sở thường trú nếu cơ sở thường trú đó chỉ đơn thuần mua
hàng hóa hoặc tài sản để tiếp tục sản xuất hoặc gia công bởi doanh nghiệp.
6. Theo nội dung các khoản trên, các
khoản lợi nhuận được phân bổ cho cơ sở thường trú sẽ được xác định theo cùng một
phương pháp giữa các năm trừ khi có đủ lý do chính đáng để xác định theo phương
pháp khác.
7. Khi lợi nhuận bao gồm các khoản
thu nhập được đề cập riêng tại các Điều khác của Hiệp định này, thì các quy định
của các Điều đó không bị ảnh hưởng bởi các quy định tại Điều này.
ĐIỀU 8
Vận tải biển và Vận tải hàng không
1. Lợi nhuận do một doanh nghiệp của
một Nước ký kết nhận được từ hoạt động tàu thủy hoặc máy bay trong vận tải quốc
tế sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết đó.
2. Các quy định tại khoản 1 cũng sẽ
áp dụng đối với các khoản lợi nhuận từ việc tham gia vào một tổ hợp, một liên
doanh hoặc một hãng hoạt động quốc tế, bao gồm một công-xooc-xiom hoặc một loại
hình hiệp hội tương tự.
ĐIỀU 9
Các doanh nghiệp liên kết
1. Khi
(a) một doanh nghiệp của một Nước ký
kết tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn
vào một doanh nghiệp của Nước ký kết kia, hoặc
(b) các đối tượng cùng tham gia trực
tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn vào một doanh
nghiệp của một Nước ký kết và vào một doanh nghiệp của Nước ký kết kia,
và trong cả hai trường hợp, trong mối
quan hệ thương mại hoặc tài chính giữa hai doanh nghiệp trên có những điều kiện
được xác lập hoặc áp đặt khác với điều kiện được đưa ra giữa các doanh nghiệp độc
lập, lúc đó mọi khoản lợi nhuận mà một doanh nghiệp có thể thu được nếu không
có các điều kiện trên, nhưng nay vì các điều kiện này mà doanh nghiệp đó không
thu được, sẽ vẫn được tính vào các khoản lợi nhuận của doanh nghiệp đó và bị
đánh thuế tương ứng.
2. Khi một Nước ký kết tính vào các
khoản lợi nhuận của một doanh nghiệp tại Nước đó - và đánh thuế tương ứng - các
khoản lợi nhuận mà một doanh nghiệp tại Nước ký kết kia đã bị đánh thuế ở Nước
ký kết kia và những khoản lợi nhuận được tính vào như vậy là những khoản lợi
nhuận lẽ ra thuộc về doanh nghiệp tại Nước thứ nhất nếu như những điều kiện xác
lập giữa hai doanh nghiệp trên là những điều kiện được xác lập giữa các doanh
nghiệp độc lập, nếu được đồng ý rằng sự điều chỉnh của Nước thứ nhất được chứng
minh là đúng cả về nguyên tắc và số thuế, khi đó Nước ký kết kia sẽ điều chỉnh
các khoản thuế tại Nước mình đối với các khoản lợi nhuận trên cho phù hợp.
Trong khi xác định sự điều chỉnh trên sẽ xem xét đến các quy định khác của Hiệp
định này và các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ tham khảo ý
kiến của nhau khi cần thiết.
ĐIỀU 10
Tiền lãi cổ phần
1. Tiền lãi cổ phần do một công ty là
đối tượng cư trú của một Nước ký kết trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết
kia có thể bị đánh thuế ở Nước ký kết kia.
2. Tuy nhiên, các khoản tiền lãi cổ
phần đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi công ty trả tiền lãi cổ phần
là đối tượng cư trú và theo các luật của Nước đó, nhưng nếu đối tượng thực hưởng
tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia thì thuế được tính khi
đó sẽ không vượt quá:
(a) 5 phần trăm tổng số tiền lãi cổ
phần nếu đối tượng nhận là một công ty (không bao gồm công ty hợp danh) nắm giữ
trực tiếp ít nhất 70 phần trăm vốn của công ty trả tiền lãi cổ phần;
(b) 10 phần trăm tổng số tiền lãi cổ
phần nếu đối tượng nhận là một công ty (không bao gồm công ty hợp danh) nắm giữ
trực tiếp ít nhất 25 phần trăm vốn của công ty trả tiền lãi cổ phần;
(c) 15 phần trăm tổng số tiền lãi cổ
phần trong tất cả các trường hợp khác.
Khoản này sẽ không ảnh hưởng tới việc
đánh thuế công ty đối với khoản lợi nhuận dùng để chia lãi cổ phần.
3. Thuật ngữ “tiền lãi cổ phần” được
sử dụng tại Điều này có nghĩa là thu nhập từ các cổ phần, cổ phần “jouissance”
hoặc các quyền lợi “jouissance”, cổ phần khai thác mỏ, cổ phần sáng lập hoặc
các quyền lợi khác không phải các khoản nợ, được hưởng lợi nhuận, cũng như thu
nhập từ các quyền lợi công ty khác hoặc thu nhập khác cùng chịu sự điều chỉnh của
chính sách thuế đối với thu nhập từ cổ phần theo các luật của Nước nơi công ty
thực hiện phân chia là đối tượng cư trú.
4. Các quy định tại các khoản 1 và 2
của Điều này sẽ không áp dụng trong trường hợp đối tượng thực hưởng các khoản
tiền lãi cổ phần, là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, tiến hành hoạt động
kinh doanh tại Nước ký kết kia, nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng
cư trú thông qua một cơ sở thường trú có tại Nước đó, hoặc tiến hành tại Nước
ký kết kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại
Nước ký kết kia, và việc nắm giữ mà theo đó các khoản tiền lãi cổ phần được trả
có sự liên hệ thực tế đến cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định nói trên. Trong
trường hợp như vậy các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tùy từng trường hợp, sẽ
được áp dụng.
5. Khi một công ty là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết nhận được lợi nhuận hoặc thu nhập phát sinh từ Nước ký
kết kia thì Nước ký kết kia có thể không đánh thuế đối với những khoản tiền lãi
cổ phần do công ty này trả, trừ trường hợp các khoản tiền lãi cổ phần này được
trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia hoặc quyền nắm giữ cổ phần có
các khoản tiền lãi cổ phần được trả có sự liên hệ thực tế với một cơ sở thường
trú hoặc một cơ sở cố định có tại Nước ký kết kia, đồng thời Nước ký kết kia
cũng không buộc các khoản lợi nhuận không chia của công ty trên phải chịu thuế
đối với những khoản lợi nhuận không chia của công ty, cho dù các khoản tiền lãi
cổ phần được trả hoặc các khoản lợi nhuận không chia bao gồm toàn bộ hoặc một
phần các khoản lợi nhuận hoặc thu nhập phát sinh tại Nước ký kết kia.
ĐIỀU 11
Lãi từ tiền cho vay
1. Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại
một Nước ký kết và được trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể
bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Tuy nhiên, khoản lãi từ tiền cho
vay này cũng có thể bị đánh thuế ở Nước ký kết nơi phát sinh lãi và theo luật
pháp của Nước đó, nhưng nếu đối tượng thực hưởng khoản lãi từ tiền cho vay này
là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia, thì mức thuế khi đó được tính sẽ không
vượt quá 10 phần trăm tổng số lãi từ tiền cho vay.
3. Mặc dù có các quy định tại khoản 2,
lãi từ tiền cho vay nêu tại khoản 1 sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết mà đối
tượng nhận là đối tượng cư trú, nếu khoản lãi từ tiền cho vay đó được trả cho
và thực hưởng bởi:
(a) trong trường hợp Việt Nam, Nhà nước,
chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương, hoặc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam; và
(b) trong trường hợp Bồ Đào Nha, Nhà
nước, chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương, hoặc Ngân hàng Trung ương
Bồ Đào Nha.
4. Thuật ngữ “lãi từ tiền cho vay” được
sử dụng tại Điều này có nghĩa là thu nhập từ các khoản cho vay dưới bất kỳ hình
thức nào, có hoặc không được đảm bảo bằng thế chấp, và có hoặc không có quyền
được hưởng lợi nhuận của người đi vay, và đặc biệt là khoản thu nhập từ chứng
khoán Chính phủ và thu nhập từ trái phiếu hoặc trái phiếu công ty, bao gồm cả
tiền thưởng và giải thưởng đi liền với các chứng khoán, trái phiếu hoặc trái
phiếu công ty đó. Các khoản phạt trả chậm sẽ không được coi là lãi từ tiền cho
vay theo mục đích của Điều này.
5. Những quy định tại các khoản 1 và
2 sẽ không áp dụng nếu đối tượng thực hưởng của lãi từ tiền cho vay là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia
nơi lãi từ tiền cho vay phát sinh, thông qua một cơ sở thường trú tại Nước ký kết
kia, hoặc thực hiện tại Nước ký kết kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập
thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia và khoản nợ có các khoản lãi từ tiền
cho vay được trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định
đó. Trong trường hợp này, các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tùy từng trường
hợp, sẽ được áp dụng.
6. Lãi từ tiền cho vay sẽ được coi là
phát sinh tại một Nước ký kết khi đối tượng trả là đối tượng cư trú của Nước
đó. Tuy nhiên, khi đối tượng trả lãi từ tiền cho vay, cho dù đối tượng đó có là
đối tượng cư trú của một Nước ký kết hay không, có ở một Nước ký kết một cơ sở
thường trú hoặc một cơ sở cố định liên quan đến các khoản nợ đã phát sinh các
khoản lãi từ tiền cho vay này, và khoản lãi từ tiền cho vay này do cơ sở thường
trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì khoản lãi từ tiền cho vay này sẽ vẫn được
coi là phát sinh ở Nước nơi có cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó.
7. Trường hợp do mối quan hệ đặc biệt
giữa đối tượng trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên và
các đối tượng khác, khoản lãi từ tiền cho vay liên quan đến khoản cho vay có số
tiền lãi được trả, vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng trả và đối
tượng thực hưởng khi không có mối quan hệ này, thì khi đó, các quy định tại Điều
này sẽ chỉ áp dụng đối với các khoản tiền thanh toán khi không có mối quan hệ đặc
biệt trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo các
luật của từng Nước ký kết có xem xét tới các quy định khác của Hiệp định này.
ĐIỀU 12
Tiền bản quyền và phí dịch vụ kỹ thuật
1. Tiền bản quyền và phí dịch vụ kỹ
thuật phát sinh tại một Nước ký kết và được trả cho đối tượng cư trú của Nước
ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Tuy nhiên, các khoản tiền bản quyền
và phí dịch vụ kỹ thuật đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát
sinh tiền bản quyền và phí dịch vụ kỹ thuật và theo các luật của Nước đó, nhưng
nếu đối tượng thực hưởng tiền bản quyền hoặc phí dịch vụ kỹ thuật đó là đối tượng
cư trú của Nước ký kết kia thì mức thuế được tính sẽ không vượt quá:
(a) trong trường hợp tiền bản quyền,
10 phần trăm tổng số tiền bản quyền;
(b) trong trường hợp phí dịch vụ kỹ
thuật, 7,5 phần trăm tổng số tiền phí dịch vụ kỹ thuật.
3. Thuật ngữ “tiền bản quyền” được sử
dụng tại Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán dưới bất kỳ hình thức nào được
trả cho việc sử dụng, hoặc quyền sử dụng, bất kỳ bản quyền tác giả nào của một
tác phẩm văn học, nghệ thuật hoặc khoa học, kể cả phim điện ảnh, hoặc các loại
phim hoặc băng dùng cho phát thanh hoặc truyền hình, bất kỳ sáng chế, nhãn hiệu,
thiết kế hoặc mẫu, đồ án, công thức hoặc quy trình bí mật, hoặc trả cho việc sử
dụng, hoặc quyền sử dụng thiết bị công nghiệp, thương mại hoặc khoa học hoặc trả
cho thông tin liên quan đến các kinh nghiệm công nghiệp, thương mại hoặc khoa học.
4. Thuật ngữ “phí dịch vụ kỹ thuật”
được sử dụng tại Điều này có nghĩa là bất kỳ khoản thanh toán cho bất kỳ đối tượng
nào, không phải khoản thanh toán cho một nhân viên của đối tượng thực hiện
thanh toán, cho bất kỳ loại hình dịch vụ kỹ thuật, quản lý, hoặc tư vấn.
5. Những quy định tại các khoản 1 và
2 sẽ không áp dụng nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền bản quyền hoặc phí dịch
vụ kỹ thuật là đối tượng cư trú của một Nước ký kết tiến hành hoạt động kinh
doanh tại Nước ký kết kia nơi có khoản tiền bản quyền hoặc phí dịch vụ kỹ thuật
phát sinh, thông qua một cơ sở thường trú nằm tại Nước ký kết kia, hoặc tiến
hành tại Nước ký kết kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ
sở cố định có tại Nước kia, và quyền hoặc tài sản hoặc hợp đồng có các khoản tiền
bản quyền hoặc phí dịch vụ kỹ thuật được trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở
thường trú hoặc với cơ sở cố định đó. Trong trường hợp này, các quy định tại Điều
7 hoặc Điều 14, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
6. Tiền bản quyền và phí dịch vụ kỹ
thuật được coi là phát sinh tại một Nước ký kết khi đối tượng trả tiền bản quyền
là đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy nhiên, khi đối tượng trả tiền bản quyền hoặc
phí dịch vụ kỹ thuật, cho dù đối tượng đó có là đối tượng cư trú của một Nước
ký kết hay không, có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố định
liên quan đến trách nhiệm trả tiền bản quyền và phí dịch vụ kỹ thuật đã phát
sinh, và tiền bản quyền và phí dịch vụ kỹ thuật đó do cơ sở thường trú hoặc cơ
sở cố định đó chịu thì khoản tiền bản quyền và phí dịch vụ kỹ thuật này sẽ vẫn
được coi là phát sinh ở Nước nơi có cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó.
7. Trường hợp do mối quan hệ đặc biệt
giữa đối tượng trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên và các
đối tượng khác, số tiền bản quyền hoặc phí dịch vụ kỹ thuật được trả vượt quá số
tiền được thỏa thuận giữa đối tượng trả và đối tượng thực hưởng khi không có mối
quan hệ đặc biệt này, thì các quy định của Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với khoản
tiền thanh toán khi không có mối quan hệ trên. Trong trường hợp này, phần thanh
toán vượt sẽ vẫn bị đánh thuế theo các luật của từng Nước ký kết có xem xét đến
các quy định khác của Hiệp định này.
ĐIỀU 13
Thu nhập từ chuyển nhượng tài sản
1. Thu nhập do một đối tượng cư trú của
một Nước ký kết nhận được từ chuyển nhượng bất động sản được nêu tại Điều 6 và
có tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thu nhập từ chuyển nhượng động sản
là một phần của tài sản kinh doanh của một cơ sở thường trú mà một doanh nghiệp
của một Nước ký kết có tại Nước ký kết kia, hoặc động sản thuộc một cơ sở cố định
của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết có ở Nước ký kết kia để tiến hành
hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập, kể cả thu nhập từ việc chuyển nhượng cơ sở
thường trú đó (chuyển nhượng riêng cơ sở thường trú đó hoặc cùng với toàn bộ
doanh nghiệp) hoặc cơ sở cố định đó có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
3. Thu nhập từ việc chuyển nhượng tàu
thủy hoặc máy bay hoạt động trong vận tải quốc tế hoặc động sản gắn liền với hoạt
động của các tàu thủy hoặc máy bay đó, sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi
doanh nghiệp đó là đối tượng cư trú.
4. Thu nhập do một đối tượng cư trú của
một Nước ký kết nhận được từ chuyển nhượng các cổ phần trong vốn cổ phần hoặc
phần quyền lợi tương tự trong một công ty, tài sản trong đó trực tiếp hoặc gián
tiếp bao gồm hơn 50 phần trăm bất động sản có tại một Nước ký kết, có thể bị
đánh thuế tại Nước đó.
5. Thu nhập do một đối tượng cư trú của
một Nước ký kết nhận được từ chuyển nhượng các cổ phần hoặc phần quyền lợi
tương tự trong vốn của một công ty là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có
thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia nếu số cổ phần hoặc phần quyền lợi đó chiếm
25 phần trăm hoặc nhiều hơn vốn của công ty đó.
6. Thu nhập từ chuyển nhượng bất kỳ
tài sản nào khác với tài sản nêu tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 sẽ chỉ bị đánh
thuế tại Nước ký kết nơi đối tượng chuyển nhượng là đối tượng cư trú.
ĐIỀU 14
Dịch vụ cá nhân độc lập
1. Thu nhập do một cá nhân là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết thu được từ các hoạt động dịch vụ ngành nghề hoặc
các hoạt động khác có tính chất độc lập sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó trừ các
trường hợp dưới đây, khi đó các khoản thu nhập đó cũng có thể bị đánh thuế tại
Nước ký kết kia:
(a) Nếu đối tượng đó thường xuyên có
tại Nước ký kết kia một cơ sở cố định để thực hiện các hoạt động này; trong trường
hợp đó, chỉ phần thu nhập phân bổ cho cơ sở cố định đó có thể bị đánh thuế tại
Nước ký kết kia; hoặc
(b) Nếu đối tượng đó có mặt tại Nước
ký kết kia trong một khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời gian gộp lại đến
hoặc vượt quá 183 ngày trong bất kỳ giai đoạn mười hai tháng nào bắt đầu hoặc kết
thúc trong năm tài chính có liên quan; trong trường hợp đó, chỉ phần thu nhập
nhận được từ các hoạt động của đối tượng đó được thực hiện tại Nước ký kết kia
có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Thuật ngữ “dịch vụ ngành nghề” bao
gồm chủ yếu những hoạt động khoa học, văn học, nghệ thuật, giáo dục hoặc giảng
dạy mang tính chất độc lập cũng như các hoạt động độc lập của các thầy thuốc,
luật sư, kỹ sư, kiến trúc sư, nha sĩ và kế toán viên.
ĐIỀU 15
Dịch vụ cá nhân phụ thuộc
1. Thể theo những quy định tại các Điều
16, 18, 19 và 20, các khoản tiền lương, tiền công và các khoản tiền thù lao
tương tự khác do một đối tượng cư trú của Nước ký kết nhận được từ lao động làm
công sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ khi công việc của đối tượng đó được
thực hiện tại Nước ký kết kia. Nếu lao động làm công được thực hiện như vậy, số
tiền công trả cho lao động đó có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Mặc dù có những quy định tại khoản
1, tiền công do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết nhận được từ lao động
làm công tại Nước ký kết kia sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước thứ nhất nếu:
(a) người nhận tiền công hiện có mặt
tại Nước ký kết kia trong một khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời gian gộp
lại không quá 183 ngày trong bất kỳ giai đoạn mười hai tháng liên tục bắt đầu
hoặc kết thúc trong năm tài chính có liên quan, và
b) chủ lao động hay đối tượng đại diện
chủ lao động trả tiền công lao động không phải là đối tượng cư trú tại Nước
kia, và
(c) số tiền thù lao không phải phát
sinh tại một cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định mà chủ lao động có tại Nước
kia.
3. Mặc dù có những quy định trên của
Điều này, tiền công nhận được từ lao động làm công làm trên tàu thủy hoặc máy
bay hoạt động trong vận tải quốc tế do một doanh nghiệp của một Nước ký kết điều
hành có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết đó.
ĐIỀU 16
Thù lao Giám đốc
Các khoản thù lao cho giám đốc và các
khoản thanh toán tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết nhận
được với tư cách là thành viên của Ban giám đốc hoặc Ban quản lý hoặc của bộ phận
tương tự của một công ty là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh
thuế tại Nước ký kết kia.
ĐIỀU 17
Người biểu diễn và Vận động viên
1. Mặc dù có những quy định tại các
Điều 14 và 15, thu nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết nhận được
với tư cách người biểu diễn như diễn viên sân khấu, diễn viên điện ảnh, nghệ sĩ
phát thanh hoặc truyền hình, hoặc nhạc công, hoặc với tư cách là vận động viên
từ những hoạt động cá nhân của mình thực hiện tại Nước ký kết kia, có thể bị
đánh thuế ở Nước ký kết kia.
2. Trường hợp thu nhập liên quan đến các
hoạt động trình diễn cá nhân của người biểu diễn hoặc vận động viên nhưng không
được trả cho bản thân người biểu diễn hoặc vận động viên, mà trả cho một đối tượng
khác thì thu nhập này có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi diễn ra những hoạt
động trình diễn của người biểu diễn hoặc vận động viên, mặc dù đã có những quy
định tại các Điều 7, 14 và 15.
3. Mặc dù đã có những quy định tại
các khoản 1 và 2, thu nhập do người biểu diễn hoặc vận động viên là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết nhận được từ các hoạt động trình diễn tại Nước ký kết
kia theo một thỏa thuận trao đổi văn hóa giữa Chính phủ của cả hai Nước ký kết
sẽ được miễn thuế tại Nước ký kết kia.
ĐIỀU 18
Tiền lương hưu
Thể theo các quy định tại khoản 2 Điều
19, tiền lương hưu và các khoản thù lao tương tự khác được trả cho một đối tượng
cư trú của một Nước ký kết do các công việc làm công đã làm trước đây sẽ chỉ bị
đánh thuế tại Nước đó.
ĐIỀU 19
Phục vụ Chính phủ
1. Các khoản tiền lương, tiền công và
các khoản tiền thù lao tương tự khác do một Nước ký kết hoặc chính quyền cơ sở
hoặc chính quyền địa phương của Nước ký kết đó trả cho một cá nhân đối với các
công việc phục vụ cho Nhà nước hoặc chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa
phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó. Tuy nhiên, khoản tiền lương, tiền
công và các khoản tiền thù lao tương tự khác nêu trên sẽ chỉ bị đánh thuế tại
Nước ký kết kia nếu việc phục vụ này được thực hiện tại Nước kia và cá nhân này
là đối tượng cư trú của Nước kia, đồng thời:
(a) là đối tượng mang quốc tịch của
Nước kia; hoặc
(b) không trở thành đối tượng cư trú
của Nước kia chỉ đơn thuần vì thực hiện những công việc trên.
2. Mặc dù có những quy định tại khoản
1, bất kỳ khoản tiền lương hưu hoặc tiền thù lao tương tự nào do một Nước ký kết
hoặc chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của Nước ký kết đó, hoặc do
các quỹ của những cơ quan này lập ra trả cho một cá nhân đối với công việc phục
vụ cho Nước ký kết đó hoặc chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương đó sẽ
chỉ bị đánh thuế tại Nước đó. Tuy nhiên, khoản tiền lương hưu và tiền thù lao
tương tự này sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết kia nếu cá nhân này là đối tượng
cư trú và là đối tượng mang quốc tịch của Nước kia.
3. Những quy định của các Điều 15,
16, 17 và 18 sẽ áp dụng đối với những khoản tiền lương, tiền công, tiền lương
hưu và các khoản tiền thù lao tương tự khác đối với các công việc được thực hiện
liên quan đến một hoạt động kinh doanh được tiến hành bởi một Nước ký kết hoặc
chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của Nước ký kết đó.
ĐIỀU 20
Sinh viên và Thực tập sinh
1. Những khoản tiền mà một sinh viên
hoặc thực tập sinh kinh doanh nhận được để trang trải các chi phí sinh hoạt, học
tập hoặc đào tạo mà người sinh viên hoặc thực tập sinh này ngay trước khi đến một
Nước ký kết đang và đã là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia và hiện có mặt tại
Nước thứ nhất chỉ với mục đích học tập hoặc đào tạo, sẽ không bị đánh thuế tại
Nước đó, đối với các khoản thanh toán nhận được có nguồn gốc từ bên ngoài Nước
đó.
2. Mặc dù có những quy định tại khoản
1, một sinh viên hoặc thực tập sinh kinh doanh đến một Nước ký kết với mục đích
học tập hoặc đào tạo sẽ được miễn thuế tại Nước đó đối với khoản tiền công từ
việc làm thuê tại Nước đó tối đa không quá 9.000 USD mỗi năm trong suốt một khoảng
thời gian không quá năm năm, kể từ ngày đầu tiên đến Nước ký kết đó, với điều
kiện là việc làm đó có liên quan trực tiếp đến việc học tập hoặc đào tạo của
người đó.
ĐIỀU 21
Thu nhập khác
1. Các khoản thu nhập của một đối tượng
cư trú của một Nước ký kết, cho dù phát sinh ở đâu, chưa được đề cập đến tại những
Điều trên của Hiệp định này, sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Các quy định tại khoản 1 sẽ không
áp dụng đối với thu nhập, trừ thu nhập từ bất động sản được định nghĩa tại khoản
2 Điều 6, nếu đối tượng nhận thu nhập là đối tượng cư trú của một Nước ký kết,
tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường
trú nằm tại Nước ký kết kia, hoặc thực hiện tại Nước kia những hoạt động dịch vụ
cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia, và quyền hoặc tài sản
liên quan đến số thu nhập được trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú
hoặc cơ sở cố định như trên. Trong trường hợp như vậy những quy định tại Điều 7
hoặc Điều 14, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
ĐIỀU 22
Các biện pháp xóa bỏ việc đánh thuế hai lần
1. Tại Việt Nam, việc đánh thuế hai lần
sẽ được loại bỏ như sau:
(a) Trường hợp một đối tượng cư trú của
Việt Nam nhận được thu nhập mà theo các luật của Bồ Đào Nha và phù hợp với Hiệp
định này có thể bị đánh thuế tại Bồ Đào Nha, Việt Nam sẽ cho phép khấu trừ vào
thuế đánh trên thu nhập một khoản tiền bằng số tiền thuế đã nộp tại Bồ Đào Nha.
Tuy nhiên, khoản tiền thuế được khấu trừ sẽ không vượt quá số thuế Việt Nam
đánh trên thu nhập, lợi nhuận hoặc giá trị tăng thêm đó được tính phù hợp với
các luật và quy định về thuế của Việt Nam.
(b) Trường hợp một đối tượng cư trú của
Việt Nam nhận được thu nhập phù hợp với bất kỳ quy định nào của Hiệp định này
chỉ bị đánh thuế tại Bồ Đào Nha, Việt Nam trong khi tính thuế trên phần thu nhập
còn lại của đối tượng cư trú đó, có thể tính đến phần thu nhập được miễn thuế.
2. Tại Bồ Đào Nha, việc đánh thuế hai
lần sẽ được loại bỏ như sau:
(a) Trường hợp một đối tượng cư trú của
Bồ Đào Nha nhận được thu nhập mà theo các quy định của Hiệp định này có thể bị
đánh thuế tại Việt Nam, Bồ Đào Nha sẽ cho phép khấu trừ vào thuế đánh trên thu
nhập của đối tượng cư trú đó một khoản tiền bằng thuế thu nhập đã nộp tại Việt
Nam. Tuy nhiên, khoản tiền thuế được khấu trừ sẽ không vượt quá số thuế đánh
trên thu nhập, được tính trước khi khấu trừ, được tính cho thu nhập có thể bị
đánh thuế tại Việt Nam.
(b) Trường hợp một đối tượng cư trú của
Bồ Đào Nha nhận được thu nhập phù hợp với bất kỳ quy định nào của Hiệp định này
được miễn thuế tại Bồ Đào Nha, Bồ Đào Nha trong khi tính thuế trên phần thu nhập
còn lại của đối tượng cư trú đó, có thể tính đến phần thu nhập được miễn thuế.
(c) Vì mục đích của điểm (a) khoản 2,
thuật ngữ “thuế thu nhập nộp tại Việt Nam” sẽ được coi là bao gồm bất kỳ khoản
tiền nào mà có thể phải nộp như thuế Việt Nam trong bất kỳ năm nào nhưng được
miễn hoặc giảm trong năm đó hoặc bất kỳ phần nào của năm đó theo bất kỳ quy định
nào dưới đây:
(i) Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp của
Việt Nam năm 2008 và các văn bản hướng dẫn được đưa ra hoặc bổ sung, trong chừng
mực các văn bản này có hiệu lực vào, và không được sửa đổi từ ngày ký Hiệp định
này, hoặc được sửa đổi không đáng kể từ khi ký Hiệp định này nên không ảnh hưởng
tới đặc điểm chung của chúng, và với điều kiện là nhà chức trách có thẩm quyền
của Việt Nam chứng nhận rằng việc miễn hoặc giảm thuế Việt Nam đó theo các quy
định này được thực hiện để thúc đẩy thương mại, khoa học hoặc giáo dục tại Việt
Nam và nhà chức trách có thẩm quyền của Bồ Đào Nha chấp nhận rằng việc miễn hoặc
giảm thuế như vậy được đảm bảo cho mục đích đó; hoặc
(ii) các quy định khác của pháp luật
Việt Nam về việc miễn hoặc giảm thuế thu nhập Việt Nam mà có thể được đưa ra
sau khi Hiệp định này được ký kết và nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước
ký kết đồng ý là có tính chất tương tự với Luật và các quy định được nêu tại điểm
(i), và được xác nhận và đồng ý như quy định tại điểm (i).
ĐIỀU 23
Không phân biệt đối xử
1. Các đối tượng mang quốc tịch của một
Nước ký kết sẽ không phải chịu tại Nước ký kết kia bất kỳ chế độ thuế nào hoặc
bất kỳ yêu cầu nào liên quan đến chế độ thuế đó khác với hoặc nặng hơn chế độ
thuế và các yêu cầu liên quan hiện đang và có thể áp dụng đối với những đối tượng
mang quốc tịch của Nước ký kết kia trong cùng những hoàn cảnh như nhau, đặc biệt
là đối với tình trạng cư trú.
2. Chế độ thuế áp dụng đối với một cơ
sở thường trú của một doanh nghiệp của một Nước ký kết có tại Nước ký kết kia sẽ
không kém thuận lợi hơn tại Nước ký kết kia so với chế độ thuế áp dụng cho các
doanh nghiệp của Nước ký kết kia cùng tiến hành các hoạt động tương tự.
3. Trừ trường hợp quy định tại khoản
1 Điều 9, khoản 7 Điều 11 hoặc khoản 7 Điều 12 áp dụng lãi từ tiền cho vay, tiền
bản quyền, phí dịch vụ kỹ thuật và các khoản thanh toán khác do một doanh nghiệp
của một Nước ký kết trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia, khi xác định
các khoản lợi nhuận chịu thuế của doanh nghiệp đó, sẽ được khấu trừ theo cùng
các điều kiện như thể các khoản tiền đó được trả cho đối tượng cư trú của Nước
thứ nhất.
4. Các doanh nghiệp của một Nước ký kết
có toàn bộ hoặc một phần vốn do một hoặc nhiều đối tượng cư trú của Nước ký kết
kia sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp, sẽ không phải chịu tại Nước
thứ nhất bất kỳ chế độ thuế hoặc yêu cầu liên quan đến chế độ thuế đó khác với
hoặc nặng hơn chế độ thuế và những yêu cầu liên quan hiện đang hoặc có thể được
áp dụng đối với các doanh nghiệp tương tự khác của Nước thứ nhất.
5. Không có nội dung nào của Điều này
sẽ được giải thích là buộc một Nước ký kết cho các đối tượng cư trú của Nước ký
kết kia hưởng bất kỳ khoản giảm trừ cá nhân, miễn và giảm dưới giác độ thuế mà
Nước ký kết đó cho các đối tượng cư trú của mình hưởng vì các nghĩa vụ dân sự
hoặc các trách nhiệm đối với gia đình.
6. Những quy định của Điều này sẽ chỉ
áp dụng đối với các loại thuế bao gồm trong Hiệp định này.
ĐIỀU 24
Thủ tục thỏa thuận song phương
1. Trường hợp một đối tượng là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết nhận thấy rằng việc giải quyết của nhà chức trách có
thẩm quyền của một hoặc cả hai Nước ký kết làm cho hoặc sẽ làm cho đối tượng đó
phải nộp thuế không đúng với những quy định của Hiệp định này, mặc dù trong nội
luật của các Nước đó đã quy định về chế độ xử lý khiếu nại, đối tượng này có thể
giải trình trường hợp của mình với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết
mà đối tượng đó là đối tượng cư trú. Trường hợp đó phải được giải trình trong
thời hạn ba năm kể từ lần thông báo giải quyết đầu tiên dẫn đến chế độ thuế áp
dụng không đúng với những quy định của Hiệp định.
2. Nhà chức trách có thẩm quyền sẽ cố
gắng, nếu như việc khiếu nại là hợp lý và nếu bản thân nhà chức trách đó không
thể đi đến một giải pháp thỏa đáng, phối hợp với nhà chức trách có thẩm quyền của
Nước ký kết kia để cùng giải quyết trường hợp khiếu nại bằng thỏa thuận chung,
nhằm mục đích tránh đánh thuế không phù hợp với nội dung của Hiệp định này. Mọi
thỏa thuận đạt được sẽ được thực hiện không căn cứ vào những giới hạn thời gian
ghi trong nội luật của hai Nước ký kết.
3. Nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết sẽ cùng nhau cố gắng giải quyết bằng thỏa thuận chung mọi khó
khăn hoặc vướng mắc nảy sinh trong quá trình giải thích hoặc áp dụng Hiệp định
này.
4. Các nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết có thể liên hệ trực tiếp với nhau nhằm mục đích đạt được một thỏa
thuận theo nội dung của những khoản trên đây.
ĐIỀU 25
Trao đổi thông tin
1. Nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết sẽ trao đổi với nhau các thông tin được thấy trước là thích hợp
cho việc thực hiện các quy định tại Hiệp định này hoặc để quản lý, cưỡng chế
tuân thủ các luật trong nước liên quan đến các loại thuế dưới mọi hình thức được
đánh bởi một Nước ký kết, chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của Nước
đó trong chừng mực việc đánh thuế không trái với Hiệp định này. Việc trao đổi
thông tin không bị hạn chế bởi các Điều 1 và 2.
2. Mọi thông tin do một Nước ký kết
nhận được theo Khoản 1 sẽ được giữ bí mật giống như thông tin thu nhận theo luật
trong nước của Nước này và thông tin đó sẽ chỉ được cung cấp cho các đối tượng
hoặc các cơ quan chức năng (bao gồm cả tòa án và các cơ quan hành chính) có
liên quan đến việc tính toán hoặc thu, cưỡng chế hoặc truy tố hoặc xác định các
khiếu nại về các loại thuế nêu tại Khoản 1, hoặc giám sát các nội dung nêu
trên. Các đối tượng hoặc các cơ quan chức năng này sẽ chỉ sử dụng các thông tin
đó vào các mục đích nêu trên. Các đối tượng và các cơ quan đó có thể cung cấp
các thông tin này trong quá trình tố tụng công khai của tòa án hoặc trong các
quyết định của tòa án.
3. Không có trường hợp nào mà các quy
định tại các khoản 1 và 2 được giải thích là buộc một Nước ký kết có nghĩa vụ:
(a) thực hiện các biện pháp hành
chính khác với luật pháp hoặc thông lệ về quản lý hành chính của Nước ký kết đó
hoặc của Nước ký kết kia;
(b) cung cấp các thông tin không thể
đạt được theo các luật hoặc theo như quá trình quản lý hành chính thông thường
của Nước ký kết đó hoặc của Nước ký kết kia;
(c) cung cấp các thông tin có thể làm
tiết lộ bí mật về thương mại, kinh doanh, công nghiệp, thương nghiệp hoặc bí mật
nghề nghiệp hoặc các quy trình kinh doanh, hoặc cung cấp các thông tin mà việc
tiết lộ chúng có thể trái với chính sách nhà nước (chính sách công cộng).
4. Nếu thông tin do một Nước ký kết
yêu cầu phù hợp với Điều này, Nước ký kết kia sẽ sử dụng các biện pháp thu thập
thông tin của mình để có được các thông tin theo yêu cầu, mặc dù Nước ký kết
kia có thể không cần các thông tin như vậy cho mục đích thuế của mình. Nghĩa vụ
được quy định tại câu trên phụ thuộc vào các giới hạn tại khoản 3 nhưng trong mọi
trường hợp các giới hạn này không cho phép một Nước ký kết từ chối việc cung cấp
thông tin chỉ vì Nước ký kết đó không có lợi ích trong nước từ các thông tin
như vậy.
5. Trong mọi trường hợp, các quy định
tại khoản 3 sẽ không cho phép một Nước ký kết từ chối việc cung cấp thông tin
chỉ vì thông tin do ngân hàng, tổ chức tài chính khác, tổ chức được chỉ định hoặc
đối tượng với tư cách đại lý hoặc đối tượng được ủy thác nắm giữ hoặc chỉ vì
thông tin có liên quan tới các lợi ích về sở hữu trong một đối tượng.
ĐIỀU 26
Các thành viên cơ quan đại diện ngoại giao
và cơ quan đại diện lãnh sự
Không có nội dung nào tại Hiệp định này
ảnh hưởng đến các ưu đãi về thuế của các thành viên cơ quan đại diện ngoại giao
hoặc cơ quan đại diện lãnh sự theo các nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế
hoặc theo các quy định của các thỏa thuận đặc biệt.
ĐIỀU 27
Hiệu lực
1. Hiệp định này sẽ có hiệu lực 30
ngày sau ngày nhận được thông báo sau cùng, bằng văn bản và thông qua đường ngoại
giao việc hoàn thành các thủ tục nội bộ cần thiết cho mục đích đó của mỗi Nước
ký kết.
2. Các quy định của Hiệp định này sẽ
có hiệu lực:
(a) tại Việt Nam:
(i) đối với các loại thuế khấu trừ tại
nguồn, liên quan đến số thu nhập chịu thuế nhận được vào ngày hoặc sau ngày đầu
tiên của tháng Một sau năm dương lịch mà Hiệp định có hiệu lực, và trong các
năm dương lịch tiếp theo; và
(ii) đối với các loại thuế Việt Nam
khác, liên quan đến thu nhập, lợi nhuận hay giá trị tăng thêm hoặc vốn phát
sinh vào ngày hoặc sau ngày đầu tiên của tháng Một sau năm dương lịch mà Hiệp định
có hiệu lực, và trong các năm dương lịch tiếp theo; và
(b) tại Bồ Đào Nha:
(i) đối với các loại thuế khấu trừ tại
nguồn, thực tế phát sinh vào ngày hoặc sau ngày đầu tiên của tháng Một của năm
dương lịch tiếp sau năm Hiệp định này có hiệu lực;
(ii) đối với các loại thuế khác liên
quan đến thu nhập phát sinh vào bất kỳ năm tài chính nào bắt đầu vào ngày hoặc
sau ngày đầu tiên của tháng Một của năm dương lịch tiếp sau năm Hiệp định này
có hiệu lực.
ĐIỀU 28
Chấm dứt hiệu lực
Hiệp định này có hiệu lực cho đến khi
một Nước ký kết chấm dứt hiệu lực. Từng Nước ký kết thông qua đường ngoại giao
có thể chấm dứt hiệu lực Hiệp định bằng cách gửi cho Nước ký kết kia văn bản
thông báo chấm dứt hiệu lực Hiệp định ít nhất sáu tháng trước khi kết thúc bất
kỳ năm dương lịch nào bắt đầu từ sau thời hạn năm năm kể từ ngày Hiệp định có
hiệu lực.
Trong trường hợp này, Hiệp định sẽ hết
hiệu lực thi hành:
(a) tại Việt Nam:
(i) đối với các loại thuế khấu trừ tại
nguồn, liên quan đến số thu nhập chịu thuế nhận được vào ngày hoặc sau ngày đầu
tiên của tháng Một sau năm dương lịch nhận được thông báo chấm dứt hiệu lực, và
trong các năm dương lịch tiếp theo; và
(ii) đối với các loại thuế Việt Nam
khác, liên quan đến thu nhập, lợi nhuận hay giá trị tăng thêm hoặc vốn phát
sinh vào ngày hoặc sau ngày đầu tiên của tháng Một sau năm dương lịch nhận được
thông báo chấm dứt hiệu lực, và trong các năm dương lịch tiếp theo; và
(b) tại Bồ Đào Nha:
(i) đối với các loại thuế khấu trừ tại
nguồn, thực tế phát sinh vào ngày hoặc sau ngày đầu tiên của tháng Một của năm
dương lịch tiếp sau năm nhận được thông báo chấm dứt hiệu lực; và
(ii) đối với các loại thuế khác liên
quan đến thu nhập phát sinh vào bất kỳ năm tài chính nào bắt đầu vào ngày hoặc
sau ngày đầu tiên của tháng Một của năm dương lịch tiếp sau năm nhận được thông
báo chấm dứt hiệu lực.
ĐỂ LÀM BẰNG những người có tên dưới
đây, được sự ủy quyền hợp thức, đã ký vào Hiệp định này.
LÀM tại
Lít-bon ngày 03 tháng 6 năm 2015 bằng tiếng Việt, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng
Anh, tất cả các văn bản đều có giá trị như nhau. Trường hợp có sự giải thích
khác nhau về mặt bản văn của Hiệp định này, văn bản tiếng Anh sẽ được dùng làm
cơ sở.
THAY
MẶT
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
Trần Xuân Hà
Thứ trưởng Bộ Tài chính
|
THAY
MẶT
NƯỚC CỘNG HÒA
BỒ ĐÀO NHA
Paulo Núncio
Quốc Vụ Khanh
Thuế Nhà nước
|
NGHỊ ĐỊNH THƯ
CỦA HIỆP ĐỊNH GIỮA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ NƯỚC CỘNG
HÒA BỒ ĐÀO NHA VỀ TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN VÀ NGĂN NGỪA VIỆC TRỐN LẬU THUẾ ĐỐI VỚI
CÁC LOẠI THUẾ ĐÁNH VÀO THU NHẬP
Tại thời điểm ký kết Hiệp định giữa
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Bồ Đào Nha về tránh
đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh
vào thu nhập (sau đây được gọi là “Hiệp định”), những người ký đã thống nhất những
quy định sau sẽ tạo thành một bộ phận của Hiệp định.
1. Quyền được hưởng lợi Hiệp định:
(a) Được hiểu rằng các quy định của
Hiệp định này sẽ không được giải thích như là để ngăn cản việc áp dụng của một
Nước ký kết các điều khoản chống tránh thuế được quy định tại luật trong nước của
họ;
(b) Được hiểu rằng những lợi ích dự
kiến trong Hiệp định này sẽ không được dành cho một đối tượng cư trú của một Nước
ký kết mà không phải là đối tượng thực hưởng của các khoản thu nhập nhận được từ
Nước ký kết kia;
(c) Được hiểu rằng các quy định của
Hiệp định này sẽ không áp dụng nếu mục đích chính hoặc một trong những mục đích
chính của bất kỳ đối tượng có liên quan với việc tạo ra hoặc chuyển nhượng các
tài sản hoặc quyền đối với số thu nhập được trả để lợi dụng các quy định đó bằng
việc tạo ra hoặc chuyển nhượng đó.
2. Liên quan đến các Điều 10, 11 và
12, nếu sau khi Hiệp định này có hiệu lực, Việt Nam ký một Hiệp định hoặc Điều
ước về tránh đánh thuế hai lần với một Nước là thành viên của Liên minh Châu
Âu, và Hiệp định hoặc Điều ước đó có mức thuế khấu trừ thấp hơn (bao gồm mức
thuế suất bằng không) so với mức thuế suất quy định tại Hiệp định này, các mức
thuế suất này sẽ tự động thay thế các mức thuế suất của Hiệp định này, kể từ
ngày có hiệu lực của Hiệp định hoặc Điều ước giữa Việt Nam và Nước đó.
3. Các nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết sẽ thông báo cho nhau các thủ tục áp dụng Hiệp định theo quy định
tại luật trong nước của họ.
ĐỂ LÀM BẰNG những người có tên dưới
đây, được sự ủy quyền hợp thức, đã ký vào Nghị định thư này.
LÀM tại
Lít-bon ngày 03 tháng 6 năm 2015 bằng tiếng Việt, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng
Anh, tất cả các văn bản đều có giá trị như nhau. Trường hợp có sự giải thích
khác nhau về mặt bản văn của Nghị định thư này, văn bản tiếng Anh sẽ được dùng
làm cơ sở.
THAY
MẶT
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
Trần Xuân Hà
Thứ trưởng Bộ Tài chính
|
THAY
MẶT
NƯỚC CỘNG HÒA
BỒ ĐÀO NHA
Paulo Núncio
Quốc Vụ Khanh
Thuế Nhà nước
|