HỘI
ĐỒNG NHÀ NƯỚC
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
9-LCT/HĐNN7
|
Hà
Nội, ngày 25 tháng 2 năm 1983
|
PHÁP LỆNH
VỀ THUẾ NÔNG NGHIỆP
Để chính sách thuế nông nghiệp
được công bằng, hợp lý và thống nhất trong cả nước, góp phần xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy công cuộc
cải tạo xã hội chủ nghĩa và tăng cường quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông
thôn, khuyến khích thâm canh, tăng vụ, mở rộng diện tích trồng trọt ;
Căn cứ vào Điều 83 và Điều 100 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ;
Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội khoá VII, kỳ họp thứ 4, ngày 28 tháng 12 năm
1982 ;
Pháp lệnh này quy định về thuế nông nghiệp.
Chương
1:
NHỮNG
QUY ĐỊNH CHUNG
Điều
1
Mọi tổ chức và cá nhân sử dụng đất
nông nghiệp, hoặc các loại đất khác vào sản xuất nông nghiệp, đều có nghĩa vụ nộp
thuế nông nghiệp.
Điều 2
Căn cứ để tính thuế nông nghiệp
là :
a) Diện tích
và hạng đất, đối với đất trồng cây hàng năm.
b) Diện tích và sản lượng hàng
năm, hoặc giá trị sản lượng hàng năm, đối với đất vườn và đất trồng cây lâu
năm.
Thuế nông nghiệp
chủ yếu thu bằng thóc. Việc thu bằng nông sản khác hoặc bằng tiền thay cho hiện
vật, do Hội đồng bộ trưởng quy định.
Điều 3
Đất khai hoang, đất phục hoá
chưa phải chịu thuế nông nghiệp, kể từ vụ thu hoạch đầu tiên, trong thời hạn
như sau :
a) Đối với đất khai hoang : từ 3
đến 5 năm.
b) Đối với đất phục hoá : từ 1 đến
3 năm.
Thời hạn chưa phải chịu thuế
nông nghiệp đối với từng trường hợp do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, hoặc đơn vị hành chính tương đương quyết định, xét theo đề nghị của
Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Điều 4
Đối với đất khai hoang, phục hoá
thuộc các vùng kinh tế mới đã đến hạn phải chịu thuế, nhưng sản xuất và đời sống
của người khai hoang, phục hoá còn nhiều khó khăn thì Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, hoặc đơn vị hành chính tương đương xét, quyết
định kéo dài thêm thời hạn chưa phải chịu thuế nông nghiệp. Thời gian kéo dài
thêm không quá 5 năm, đối với đất hoang ; không quá 3 năm, đối với đất phục
hoá.
Điều 5
Đối với đất ở miền núi, nơi nhân
dân mới chuyển sang định canh, định cư, đời sống chưa ổn định, hoặc đối với đất
ở vùng rẻo cao, nếu sản xuất còn nhiều khó khăn, thì Uỷ ban nhân dân tỉnh xét,
quyết định thời hạn chưa phải chịu thuế nông nghiệp.
Điều 6
Đất ở không phải chịu thuế nông
nghiệp.
Chương
2:
CÁCH
TÍNH THUẾ VÀ BIỂU THUẾ
Điều 7
Căn cứ vào độ phì (nông hoá, thổ
nhưỡng) và điều kiện tưới, tiêu, thể hiện ở năng xuất trung bình hàng năm trong
điều kiện canh tác bình thường, đất trồng cây hạng năm được phân là 7 hạng như
sau :
Hạng đất Năng suất trung bình
hàng năm tính bằng
Ki - lô - gam thóc trên 100 mét
vuông
1 Từ 50 kg trở lên
2 Từ 40 kg đến dưới 50 kg
3 Từ 30 kg ;; 40 kg
4 Từ 25 kg ;; 30 kg
5 Từ 20 kg ;; 25 kg
6 Từ 15 kg ;; 20 kg
7 Dưới 15 kg
Việc phân hạng đất
do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn làm, dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân
dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Bảng phân hạng đất, sau khi được
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, hoặc đơn vị hành chính
tương đương duyệt và Hội đồng bộ trưởng phê chuẩn, được dùng làm căn cứ tính
thuế trong thời hạn 5 năm.
Điều 8
Đất trồng cây hàng năm chịu thuế
theo định xuất như sau :
Hạng đất Định suất tính bằng
ki-lô-gam thóc trên 100 mét vuông
Xã đồng bằng Xã trung du Xã miền
núi
1 7,0 6,5 5,8
2 5,6 5,2 4,6
3 4,2 3,9 3,5
4 3,5 3,2 2,9
5 2,8 2,6 2,3
6 2,1 1,9 1,7
7 1,0 0,8 0,6
Đất trồng cây
dược liệu đặc biệt, chịu thuế theo quy định riêng.
Điều 9
Đối với đất vườn, đất trồng cây
lâu năm, thuế tính theo tỷ lệ trên sản lượng hàng năm hoặc giá trị sản lượng
hàng năm, tuỳ theo loại cây trồng :
1- Cây lấy gỗ, cây lấy lá 8%
2- Cây ăn quả 10% đến 30%
3- Cây công nghiệp lâu năm và
cây khác 12%
Thuế suất áp dụng
cho từng loại cây ăn quả, có tính đến quy mô vườn cây ăn quả của mỗi hộ, do Hội
đồng bộ trưởng quy định.
Sản lượng hàng năm hoặc giá trị
sản lượng hàng năm của từng loại cây do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn
xác định, dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh ; sau khi được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, hoặc đơn vị hành chính tương đương duyệt, thì được dùng làm căn cứ tính
thuế.
Điều 10
Đối với đất do hợp tác xã nông
nghiệp, tập đoàn sản xuất nông nghiệp sử dụng, tính thuế theo quy định ở Điều 7, Điều 8, Điều 9 của Pháp lệnh này.
Đối với phần đất, kể cả đất vườn,
đất trồng cây lâu năm giao lại cho xã viên, tập đoàn viên để làm kinh tế phụ
gia đình, thuế tính như đối với đất do hợp tác xã, tập đoàn sản xuất sử dụng.
Điều 11
Đối với đất do nông trường quốc
doanh và các trạm, trại quốc doanh sử dụng, thì không áp dụng chế độ thuế nông
nghiệp, mà áp dụng chế độ giao nộp sản phẩm và các chế độ thu của Nhà nước đối
với xí nghiệp quốc doanh.
Đối với phần đất giao lại cho
cán bộ, công nhân, viên chức nông trường, trạm trại để làm kinh tế phụ gia
đình, thì thuế tính theo quy định ở Điều 7, Điều 8, Điều 9 của
Pháp lệnh này.
Điều 12
Đối với đất do các hộ nông dân
cá thể sử dụng, thuế tính theo quy định ở Điều 7, Điều 8, Điều 9
của Pháp lệnh này, cộng thêm một khoản phụ thu tính trên tổng số thuế của hộ,
không kể số thuế đối với đất hạng 7, đối với đất vườn và đất trồng cây lâu năm.
Tỷ lệ phụ thu được xác định căn
cứ vào diện tích đất sử dụng của mỗi hộ, không tính đất hạng 7, đất vườn và đất
trồng cây lâu năm.
Mức diện tích để tính phụ thu Tỷ
lệ phụ thu
Từ 0,5 ha trở xuống Không tính
phụ thu
Trên 0,5 đến 1 ha 10%
Trên 1 ha đến 2 ha 20%
Trên 2 ha đến 3 ha 40%
Trên 3 ha 60%
Điều 13
Đối với đất do các tổ chức và cá
nhân khác sử dụng để sản xuất nông nghiệp, thuế tính theo quy định ở Điều 7, Điều 8, Điều 9 của Pháp lệnh này.
Điều 14
Thuế nông nghiệp thu mỗi năm một
hoặc hai lần theo thời vụ của các cây trồng chính trong năm. Mức thuế phải nộp
từng vụ và thời hạn nộp thuế do Hội đồng bộ trưởng quy định cho từng tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, và đơn vị hành chính tương đương.
Chương
3:
GIẢM THUẾ, MIỄN THUẾ
Điều
15
Thuế nông nghiệp có thể được giảm
hoặc miễn trong các trường hợp sau đây :
a) Do thiên
tai, địch hoạ mà mùa màng bị thiệt hại nặng.
b) Do tổ chức lại sản xuất hoặc
thay đổi quy hoạch và phương án kinh tế - kỹ thuật được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền xét duyệt mà thu nhập của tổ chức, cá nhân chịu thuế bị giảm sút nhiều so
với trước.
Điều 16
Những hộ trước đây được miễn thuế,
nay phải nộp thuế theo Pháp lệnh này, nếu đời sống có nhiều khó khăn, được Uỷ
ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận và Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh xét duyệt, thì được miễn phụ thu quy định ở Điều 12 của Pháp lệnh này.
Điều 17
Những hộ là gia đình thương
binh, liệt sĩ, nếu đời sống có nhiều khó khăn, được Uỷ ban nhân dân xã, phường,
thị trấn xác nhận và được Uỷ ban nhân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
xét duyệt, thì được miễn phụ thu. Sau khi miễn phụ thu mà đời
sống vẫn còn khó khăn thì được xét giảm thuế.
Điều 18
Hội đồng bộ
trưởng quy định cụ thể việc giảm thuế, miễn thuế trong các trường hợp nói ở
Điều 15, Điều 16, Điều 17 của Pháp lệnh này.
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương , hoặc đơn vị hành chính tương đương được quyền quyết định
giảm thuế, miễn thuế trong các trường hợp nói ở Điều 15, Điều
16, Điều 17 của Pháp lệnh này, trong phạm vi không quá 5% tổng số thuế ghi
thu cả năm của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, hoặc đơn vị hành chính
tương đương. Trong trường hợp cần miễn, giảm quá mức quy định trên đây thì Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, hoặc đơn vị hành chính
tương đương đề nghị Hội đồng bộ trưởng quyết định.
Chương
4:
TỔ
CHỨC THỰC HIỆN
Điều 19
Hội đồng bộ trưởng lãnh đạo việc
tổ chức thực hiện toàn bộ công tác thuế nông nghiệp.
Bộ Tài chính tổ chức thực hiện
công tác thuế nông nghiệp và chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra Uỷ ban nhân dân các cấp
trong công tác này.
Các ngành hữu quan từ trung ương
đến địa phương, phải làm tròn trách nhiệm đối với công tác thuế nông nghiệp
trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình.
Điều 20
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, hoặc đơn vị hành chính tương đương có nhiệm vụ chỉ đạo Uỷ
ban nhân dân các cấp và các ngành trong địa phương tổ chức thực hiện công tác
thuế nông nghiệp trong địa phương mình ; bảo đảm thu thuế đúng chính sách, đạt
chỉ tiêu, đúng thời hạn ; kiện toàn bộ máy thu thuế ; kịp thời động viên, khen
thưởng hoặc đề nghị cấp trên khen thưởng các tổ chức và cá nhân có nhiều thành
tích trong công tác thuế nông nghiệp.
Điều 21
Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh có nhiệm vụ chỉ đạo Uỷ ban nhân dân cấp dưới thực hiện
công tác thuế nông nghiệp ; hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc xác định diện
tích chịu thuế, phân hạng đất, xác định sản lượng đất vườn và đất trồng cây lâu
năm, tính thuế, lập sổ thuế và thu thuế ; duyệt sổ thuế đúng thời hạn ; chỉ đạo
và tổ chức thực hiện việc giảm thuế, miễn thuế theo quy định của pháp luật.
Điều 22
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị
trấn có nhiệm vụ tổ chức thực hiện công tác thuế nông nghiệp ở địa phương mình
: tuyên truyền, giải thích chính sách thuế nông nghiệp ; kiểm kê diện tích chịu
thuế, phân hạng đất, xác định sản lượng đất vườn và đất trồng cây lâu năm, tính
thuế, lập sổ thuế ; tổ chức thu thuế và nhập kho thóc thuế ; kiện toàn tổ chức
giúp việc là Ban thuế nông nghiệp xã, phường, thị trấn.
Điều 23
Mọi tổ chức và cá nhân có nghĩa
vụ nộp thuế nông nghiệp phải kê khai đúng diện tích, hạng đất cây hàng năm, sản
lượng đất vườn và đất trồng cây lâu năm, nộp đủ và đúng hạn số thuế phải nộp.
Tổ chức và cá nhân nào thấy việc
thi hành chính sách thuế nông nghiệp đối với đơn vị hoặc bản thân mình không
đúng pháp luật thì có quyền khiếu nại với Uỷ ban nhân dân nơi lập sổ thuế.
Trong trường hợp đương sự không đồng ý với quyết định của Uỷ ban nhân dân nơi
mình khiếu nại thì có quyền khiếu nại lên Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp.
Quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp có hiệu lực thi hành.
Trong khi chờ giải quyết, người
khiếu nại vẫn phải nộp đủ và đúng hạn số thuế ấn định.
Chương
5:
KHEN
THƯỞNG VÀ XỬ PHẠT
Điều
24
Địa phương, tổ chức hoặc cá nhân
nào có nhiều thành tích trong công tác thuế nông nghiệp thì được khen thưởng.
Bộ Tài chính được trích bằng tiền
một tỷ lệ nhất định trên số thuế thu được hàng năm để thành lập quỹ khen thưởng
về công tác thuế nông nghiệp.
Mức trích, thể
thức lập và sử dụng quỹ khen thưởng do Hội đồng bộ trưởng quy định.
Điều 25
1- Tổ chức hoặc cá nhân nào có
hành vi gian lận trong việc tính thuế, nộp thuế, hoặc dây dưa trong việc nộp
thuế thì bị xử phạt theo một hoặc nhiều hình thức dưới đây :
a) Cảnh cáo.
b) Phạt tiền
hoặc hiện vật đến hai lần số thuế thiếu.
2- Người nào cản trở hoặc xúi giục
người khác cản trở việc thi Hành Pháp lệnh này, hoặc cản trở việc điều tra và xử
lý các vụ vi phạm Pháp lệnh thì tuỳ theo mức độ nhẹ, nặng mà bị xử lý bằng biện
pháp hành chính hoặc bị truy tố trước pháp luật.
Điều 26
Người nào lợi dụng chức vụ, quyền
hạn bao che cho người vi phạm Pháp lệnh về thuế nông nghiệp, làm trái các quy định
về thuế nông nghiệp, hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc thi hành Pháp
lệnh về thuế nông nghiệp, thì bị xử lý theo kỷ luật hành chính. Nếu hành vi vi
phạm gây hậu quả nghiêm trọng thì bị truy tố trước pháp luật.
Chương
6:
ĐIỀU
KHOẢN CUỐI CÙNG
Điều
27
Những quy định trước đây về thuế
nông nghiệp trái với Pháp lệnh này, đều bãi bỏ.
Hội đồng bộ trưởng quy định chi
tiết thi hành Pháp lệnh này.