HIỆP ĐỊNH
GIỮA
CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA DÂN
CHỦ NHÂN DÂN TRIỀU TIÊN VỀ TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN VÀ NGĂN NGỪA VIỆC TRỐN LẬU
THUẾ ĐỐI VỚI CÁC LOẠI THUẾ ĐÁNH VÀO THU NHẬP
Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và Chính phủ Nước cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên,
Mong muốn ký kết một Hiệp định về việc tránh đánh
thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu
nhập và với quan điểm thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa hai nước,
Đã thỏa thuận dưới đây:
ĐIỀU 1. PHẠM VI ÁP DỤNG
Hiệp định này được áp dụng cho các đối tượng là
những đối tượng cư trú của một hoặc của cả hai Nước ký kết.
ĐIỀU 2. CÁC LOẠI THUẾ BAO GỒM TRONG
HIỆP ĐỊNH
1. Hiệp định này áp dụng đối với các loại thuế do
một Nước ký kết hoặc các cơ quan chính quyền cơ sở hay chính quyền địa phương
của Nước đó, đánh vào thu nhập, bất kể hình thức áp dụng của các loại thuế đó
như thế nào.
2. Tất cả các loại thuế thu trên tổng thu nhập,
hoặc những phần thu nhập bao gồm các loại thuế đối với lợi nhuận từ việc chuyển
nhượng động sản hoặc bất động sản, các loại thuế đánh trên tổng số tiền lương
hoặc tiền công do xí nghiệp trả, cũng như các loại thuế đánh vào phần vốn tăng
thêm đều được coi là thuế đánh vào thu nhập.
3. Những loại thuế hiện hành được áp dụng trong
Hiệp định này là:
a. tại Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: (i) thuế
thu nhập cá nhân; (ii) thuế thu nhập doanh nghiệp; và (iii) thuế chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài;
(dưới đây được gọi là "thuế Việt Nam");
b. tại Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên: (i)
thuế thu nhập doanh nghiệp; (ii) thuế thu nhập cá nhân; (iii) thuế địa phương;
và
(dưới đây được gọi là "thuế CNDCND Triều Tiên").
4. Hiệp định này cũng sẽ được áp dụng cho các loại
thuế có tính chất tương tự hay về căn bản giống như các loại thuế được ban hành
sau ngày ký Hiệp định này để bổ sung, hoặc thay thế các loại thuế hiện hành.
Các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ thông báo cho nhau biết
những thay đổi quan trọng trong các luật thuế của từng Nước.
ĐIỀU 3. CÁC ĐỊNH NGHĨA CHUNG
1. Theo nội dung của Hiệp định này, trừ trường hợp
ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác:
a. từ "Việt Nam" có nghĩa là nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: khi dùng theo nghĩa địa lý, từ đó bao gồm toàn
bộ lãnh thổ quốc gia Việt Nam, kể cả lãnh hải và không phận Việt Nam, cũng như
đặc khu kinh tế và thềm lục địa nơi Việt Nam có quyền chủ quyền và quyền tài
phán căn cứ theo luật pháp Việt Nam và luật pháp quốc tế;
b. từ "Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên"
khi dùng theo nghĩa địa lý, có nghĩa là bao gồm toàn bộ lãnh thổ quốc gia
CHDCND Triều Tiên, kể cả lãnh hải và không phận CHDCND Triều Tiên, cũng như đặc
khu kinh tế và thềm lục địa nơi CHDCND Triều Tiên có quyền chủ quyền và quyền
tài phán căn cứ theo luật pháp CHDCND Triều Tiên và luật pháp quốc tế;
c. thuật ngữ "Nước ký kết" và "Nước
ký kết kia" có nghĩa là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hay CHDCND
Triều Tiên tùy theo ngữ cảnh đòi hỏi;
d. thuật ngữ "đối tượng" bao gồm cá nhân,
công ty và bất kỳ tổ chức nhiều đối tượng nào khác;
e. thuật ngữ "công ty" để chỉ các tổ chức
công ty hoặc bất kỳ một thực thể nào được coi là tổ chức công ty dưới giác độ
thuế;
f. thuật ngữ "xí nghiệp của Nước ký kết"
và "xí nghiệp của Nước ký kết kia" theo thứ tự có nghĩa là một xí
nghiệp được điều hành bởi đối tượng cư trú của một Nước ký kết và một xí nghiệp
được điều hành bởi đối tượng cư trú của Nước ký kết kia;
g. thuật ngũ "các đối tượng mang quốc tịch"
có nghĩa: (i) các cá nhân mang quốc tịch một Nước ký kết; (ii) các pháp nhân,
tổ chức hùn vốn và hiệp hội có tư cách được chấp nhận theo các luật có hiệu lực
tại một Nước ký kết;
h. thuật ngữ "vận tải quốc tế" có nghĩa
là bất cứ sự vận chuyển nào bằng tàu thủy hoặc máy bay được thực hiện bởi một
xí nghiệp của một Nước ký kết, trừ trường hợp khi chiếc tàu thủy hoặc máy bay
đó chỉ hoạt động giữa những địa điểm trong Nước ký kết kia; và
i. thuật ngữ "nhà chức trách có thẩm quyền"
có nghĩa: (i) trong trường hợp đối với Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, là Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc người đại diện được ủy quyền của Bộ trưởng
Bộ Tài chính; và (ii) trong trường hợp đối với CHDCND Triều Tiên, là Bộ trưởng
Bộ Tài chính hoặc người đại diện được ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
2. Trong khi một Nước ký kết áp dụng Hiệp định này,
bất kỳ thuật ngữ nào chưa được định nghĩa trong Hiệp định này sẽ có nghĩa theo
như định nghĩa trong luật của Nước đó vì mục đích thuế đối với các loại thuế mà
Hiệp định này áp dụng, trừ trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác.
ĐIỀU 4. ĐỐI TƯỢNG CƯ TRÚ
1. Theo nghĩa của Hiệp định này, thuật ngữ "đối
tượng cư trú của một Nước ký kết" có nghĩa là bất cứ đối tượng nào, mà
theo các luật của Nước đó, là đối tượng chịu thuế căn cứ vào nhà ở, nơi cư trú,
trụ sở điều hành, trụ sở đăng ký hoặc các tiêu chuẩn khác có tính chất tương
tự. Tuy nhiên, thuật ngữ này không bao gồm các đối tượng là đối tượng chịu thuế
tại Nước đó chỉ đối với thu nhập từ các nguồn tại Nước đó hoặc từ tài sản tại
Nước đó.
2. Trường hợp theo những quy định tại khoản 1, khi
một cá nhân là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết, thân phận cư trú của cá
nhân đó sẽ được xác định như sau:
a. các nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ
của Nước mà tại đó cá nhân đó có nhà ở thường trú. Nếu cá nhân đó có nhà ở
thường trú ở cả hai nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ của
Nước mà cá nhân đó có các quan hệ cá nhân và kinh tế chặtc chẽ hơn (trung tâm
của các quyền lợi chủ yếu);
b. nếu như không thể xác định được Nước mà ở đó, cá
nhân đó có trung tâm các quyền lợi chủ yếu, hoặc nếu cá nhân đó không có nhà ở
thường trú ở cả hai Nước thì cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú của
Nước mà cá nhân đó thường sống;
c. nếu cá nhân đó thường sống ở cả hai Nước hay
không sống thường xuyên ở Nước nào thì cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư
trú của Nước mà cá nhân đó mang quốc tịch;
d. nếu cá nhân đó là đối tượng mang quốc tịch của
cả hai Nước hay không mang quốc tịch của cả hai Nước này thì các nhà chức trách
có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ giải quyết vấn đề đó bằng thỏa thuận chung.
3. Trường hợp do những quy định tại khoản 1, khi
một đối tượng không phải là cá nhân, là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký
kết, lúc đó, đối tượng này sẽ được coi là đối tượng cư trú của Nước nơi có trụ
sở đăng ký của đối tượng đó.
ĐIỀU 5. CƠ SỞ THƯỜNG TRÚ
1. Theo nội dung của Hiệp định này, thuật ngữ
"cơ sở thường trú" có nghĩa là một cơ sở kinh doanh cố định mà qua đó
xí nghiệp thực hiện toàn bộ hay một phần hoạt động kinh doanh của mình.
2. Thuật ngữ "cơ sở thường trú" chủ yếu
bao gồm:
a. trụ sở điều hành;
b. chi nhánh;
c. văn phòng;
d. nhà máy;
e. xưởng;
f. mỏ, giếng dầu hoặc khí, mỏ đá hoặc bất kỳ địa
điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên nào khác;
g. kho hàng; và
h. công trình lắp đặt, hoặc thiết bị được sử dụng
để thăm dò các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
3. Thuật ngữ "cơ sở thường trú" cũng bao
gồm:
a. một địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, dự
án lắp ráp hoặc lắp đặt hoặc các hoạt động giám sát có liên quan, nhưng chỉ khi
địa điểm, dự án hoặc các hoạt động đó kéo dài trong giai đoạn hơn sáu tháng;
b. việc cung cấp các dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ tư
vấn do một xí nghiệp thực hiện thông qua người làm công cho xí nghiệp hay một
đối tượng khác được xí nghiệp ủy nhiệm thực hiện hiện tại Nước ký kết kia,
nhưng chỉ trong trường hợp những hoạt động mang tính chất nói trên (trong cùng
một dự án hoặc một dự án có liên quan) kéo dài tại một Nước trong khoảng thời
gian hay nhiều khoảng thời gian gộp lại hơn 6 tháng trong bất kỳ giai đoạn 12
tháng.
4. Mặc dù có những quy định trên của Điều này,
thuật ngữ "cơ sở thường trú" sẽ được coi là không bao gồm:
a. việc sử dụng các phương tiện riêng cho mục đích
lưu kho hoặc trưng bày hàng hóa hay tài sản của xí nghiệp;
b. việc duy trì kho hàng hóa hoặc tại sản của xí nghiệp
chỉ với mục đích lưu kho hoặc trưng bày;
c. việc duy trì kho hàng hóa hoặc tài sản của xí
nghiệp với mục đích chỉ để cho xí nghiệp khác gia công;
d. việc duy trì một cơ sở kinh doanh cố định chỉ
nhằm mục đích mua hàng hóa hoặc tài sản hay để thu thập thông tin cho xí nghiệp
đó;
e. việc duy trì một cơ sở kinh doanh cố định chỉ
với mục đích tiến hành bất kỳ hoạt động nào khác mang tính chất phụ trợ hoặc
chuẩn bị cho xí nghiệp.
5. Mặc dù có những quy định tại khoản 1 và 2,
trường hợp một đối tượng - trừ đại lý có tư cách độc lập được điều chỉnh bởi
khoản 7 - hoạt động tại một Nước ký kết thay mặt cho một xí nghiệp của Nước ký
kết kia, xí nghiệp đó sẽ được coi là có cơ sở thường trú tại Nước thứ nhất đối
với các hoạt động mà đối tượng này thực hiện cho xí nghiệp, nếu đối tượng đó:
a. có và thường xuyên thực hiện tại Nước thứ nhất
thẩm quyền ký kết các hợp đồng đứng tên xí nghiệp, trừ khi các hoạt động của
đối tượng chỉ giới hạn trong phạm vi các hoạt động nêu tại khoản 4 mà những
hoạt động đó nếu được thực hiện thông qua một cơ sở kinh doanh cố định sẽ không
làm cho cơ sở kinh doanh cố định này trở thành một cơ sở thường trú theo những
quy định tại khoản đó; hay
b. không có thẩm quyền trên, nhưng thường xuyên duy
trì tại Nước thứ nhất một kho hàng hóa hoặc tài sản, từ đó đối tượng trên
thường xuyên thực hiện việc giao hàng hóa hoặc tài sản đại diện cho xí nghiệp.
6. Mặc dù có những quy định trên của Điều này, một
tổ chức bảo hiểm của một Nước ký kết, trừ trường hợp tái bảo hiểm, sẽ được coi
là có cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia nếu tổ chức đó thu phí bảo hiểm hoặc
bảo hiểm các rủi ro tại Nước kia thông qua một đối tượng không phải là một đại
lý có tư cách độc lập được điều chỉnh bởi khoản 7.
7. Một xí nghiệp sẽ không được coi là có cơ sở
thường trú ở một Nước ký kết chỉ vì xí nghiệp đó chỉ thực hiện hoạt động kinh
doanh tại Nước kia thông qua một đại lý môi giới, một đại lý hoa hồng hoặc bất
kỳ một đại lý nào khác có tư cách độc lập, với điều kiện những đối tượng này
hoạt động trong khuôn khổ kinh doanh thuông thường của họ. Tuy nhiên, khi các
hoạt động của đại lý đó giành toàn bộ hay hầu như toàn bộ cho hoạt động đại
diện cho xí nghiệp đó, đại lý đó sẽ không được coi là đại lý có tư cách độc lập
theo nghĩa của khoản này.
8. Việc một công ty là đối tượng cư trú của một
Nước ký kết kiểm soát hoặc chịu sự kiểm soát bởi một công ty là đối tượng cư
trú của Nước ký kết kia hoặc tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước kia (có
thể thông qua một cơ sở thường trú hay dưới hình thức khác), sẽ không làm cho
bất kỳ công ty nào trở thành cơ sở thường trú của công ty kia.
ĐIỀU 6. THU NHẬP TỪ BẤT ĐỘNG SẢN
1. Thu nhập mà một đối tượng cư trú tại một Nước ký
kết thu được từ bất động sản (kể cả thu nhập từ nông nghiệp hoặc lâm nghiệp)
nằm tại Nước ký kết kia thì có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thuật ngữ "bất động sản" sẽ có nghĩa
theo như luật của Nước ký kết nơi có bất động sản đó. Thuật ngữ này trong mọi
trường hợp sẽ bao gồm cả những phần tài sản phụ kèm theo bất động sản, đàn gia
súc và thiết bị sử dụng trong nông nghiệp và lâm nghiệp, các quyền lợi được áp
dụng theo như những quy định tại luật chung về điền sản, quyền sử dụng bất động
sản và các quyền được hưởng các khoản thanh toán thay đổi hay cố định trả cho
việc khai thác hay quyền khai thác các mỏ, nguồn khoáng sản và các tài nguyên
thiên nhiên khác; các tàu thủy và máy bay sẽ không được coi là bất động sản.
3. Những quy định tại khoản 1 sẽ áp dụng đối với
thu nhập phát sinh từ việc trực tiếp sử dụng, cho thuê hay sử dụng các loại bất
động sản dưới bất kỳ hình thức nào khác.
4. Những quy định tại khoản 1 và 3 cũng sẽ áp dụng
cho thu nhập từ bất động sản của một xí nghiệp và đối với thu nhập từ bất động
sản được sử dụng để thực hiện các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập.
ĐIỀU 7. LỢI TỨC DOANH NGHIỆP
1. Lợi tức của một xí nghiệp của một Nước ký kết sẽ
chỉ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ trường hợp xí nghiệp có tiến hành hoạt động
kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú tại Nước kia. Nếu
xí nghiệp có hoạt động kinh doanh theo cách trên, thì các khoản lợi tức của xí
nghiệp có thể bị đánh thuế tại Nước kia, nhưng chỉ trên phần lợi tức phân bổ
cho cơ sở thường trú đó.
2. Thể theo các quy định tại khoản 3, khi một xí
nghiệp của một Nước ký kết tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia,
thông qua một cơ sở thường trú tại Nước kia, thì tại mỗi Nước ký kết sẽ có
những khoản lợi tức được phân bổ cho cơ sở thường trú nói trên mà cơ sở đó có
thể thu được, nếu nó là một xí nghiệp riêng, tách biệt cùng tham gia vào các
hoạt động như nhau hay tương tự trong cùng những điều kiện như nhau hay tương
tự và có quan hệ hoàn toàn độc lập với xí nghiệp mà cơ sở đó được coi là cơ sở
thường trú.
3. Trong khi xác định lợi tức của một cơ sở thường
trú, cơ sở này sẽ được phép khấu trừ các khoản chi phí phát sinh phục vụ cho
mục đích kinh doanh của cơ sở thường trú này, bao gồm cả chi phí điều hành và
chi phí quản lý chung cho dù chi phí đó phát sinh tại Nước nơi cơ sở thường trú
đó đóng hoặc ở bất kỳ nơi nào khác. Tuy nhiên, sẽ không cho phép tính vào các
khoản chi phí được trừ bất kỳ khoản tiền nào, nếu có, do cơ sở thường trú trả
cho (trừ khi là khoản thanh toán các chi phí thực tế) trụ sở chính của xí
nghiệp hay bất kỳ văn phòng nào khác của xí nghiệp dưới hình thức tiền bản
quyền, các khoản lệ phí hay bất kỳ khoản thanh toán nào tương tự khác để được
phép sử dụng bằng phát minh hay các quyền khác, hay dưới hình thức tiền hoa
hồng trả cho việc thực hiện các dịch vụ riêng biệt hay trả cho công việc quản
lý, hay dưới hình thức lãi tính trên tiền cho cơ sở thường trú vay, trừ trường
hợp tiền lãi của cơ sở ngân hàng. Cũng tương tự, trong khi xác định lợi tức của
cơ sở thường trú sẽ không tính đến các khoản tiền (trừ các khoản tiền thanh
toán các chi phí thực tế) do cơ sở thường trú thu từ trụ sở chính của xí nghiệp
hay bất kỳ văn phòng khác của xí nghiệp, dưới hình thức tiền bản quyền, các
khoản lệ phí hay các khoản thanh toán tương tự để cho phép sử dụng bằng phát
minh hay các quyền khác, hay dưới hình thức tiền hoa hồng trả cho việc thực
hiện các dịch vụ riêng biệt hay trả cho công việc quản lý, hay dưới hình thức
lãi tính trên tiền cho trụ sở chính của xí nghiệp hay bất kỳ văn phòng nào của
xí nghiệp vay, trừ trường hợp lãi từ tiền cho vay của cơ sở ngân hàng.
4. Không nội dung nào tại Điều này ảnh hưởng tới
việc áp dụng bất kỳ luật nào của một Nước ký kết liên quan tới việc xác định
nghĩa vụ thuế của một đối tượng trong các trường hợp mà thông tin cung cấp cho
nhà chức trách có thẩm quyền của Nước đó không đủ để có thể xác định các khoản
lợi tức được phân bổ cho cơ sở thường trú, với điều kiện là luật này sẽ được áp
dụng, trong phạm vi thông tin cung cấp cho nhà chức trách có thẩm quyền cho
phép, phù hợp với các nguyên tắc tại Điều này.
5. Trường hợp tại một Nước ký kết vẫn thường xác
định các khoản lợi tức phân bổ cho cơ sở thường trú trên cơ sở phân chia tổng
lợi tức của xí nghiệp thành các phần khác nhau, thì không có nội dung nào tại
khoản 2 ngăn cản Nước ký kết đó xác định lợi tức chịu thuế theo cách phân chia
theo thông lệ đó; tuy nhiên, phương pháp phân chia được áp dụng như vậy phải
đưa ra kết quả phù hợp với những nguyên tắc của Điều này.
6. Theo nội dung những khoản trên, các khoản lợi
tức được phân bổ cho cơ sở thường trú sẽ được xác định theo cùng một phương
pháp qua các năm trừ khi có đủ lý do chính đáng để thay đổi phương pháp tính.
7. Khi lợi tức bao gồm các khoản thu nhập được đề
cập riêng tại các Điều khác của Hiệp định này, thì các quy định của các Điều đó
không bị ảnh hưởng bởi những quy định tại Điều này.
ĐIỀU 8. VẬN TẢI QUỐC TẾ
1. Lợi tức do một xí nghiệp của một Nước ký kết thu
được từ hoạt động của các tàu thủy hoặc máy bay trong vận tải quốc tế sẽ chỉ bị
đánh thuế tại Nước ký kết đó.
2. Những quy định tại khoản 1 cũng sẽ áp dụng cho
các khoản lợi tức thu được từ việc tham gia vào một tổ hợp, một liên doanh hay
một hãng hoạt động quốc tế.
ĐIỀU 9. NHỮNG XÍ NGHIỆP LIÊN
KẾT
Khi:
a. một xí nghiệp của một Nước ký kết tham gia trực
tiếp hoặc gián tiếp vào việc quản lý, kiểm soát hoặc góp vốn vào một xí nghiệp
của Nước ký kết kia, hoặc
b. các đối tượng cùng tham gia trực tiếp hoặc gián
tiếp vào việc quản lý, kiểm soát hoặc góp vốn vào một xí nghiệp của một Nước ký
kết và vào một xí nghiệp của Nước ký kết kia,
và trong cả hai trường hợp, trong mối quan hệ tài
chính và thương mại giữa hai xí nghiệp trên có những điều kiện được đưa ra hoặc
áp đặt khác với điều kiện được đưa ra giữa các xí nghiệp độc lập, lúc đó mọi
khoản lợi tức mà một xí nghiệp có thể thu được nếu không có những điều kiện
trên nhưng nay vì những điều kiện này mà xí nghiệp đó không thu được, sẽ vẫn bị
một Nước ký kết tính vào các khoản lợi tức của xí nghiệp đó và bị đánh thuế
tương ứng.
ĐIỀU 10. TIỀN LÃI CỔ PHẦN
1. Tiền lãi cổ phần do một công ty là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể
bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền lãi cổ phần đó cũng
có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối
tượng cư trú và theo các luật của Nước đó, nhưng nếu đối tượng nhận là đối
tượng thực hưởng tiền lãi cổ phần thì thuế được tính khi đó sẽ không vượt quá
10 phần trăm tổng số tiền lãi cổ phần. Khoản này sẽ không ảnh hưởng tới việc
đánh thuế công ty đối với lợi tức dùng để chia lãi cổ phần.
3. Thuật ngữ "tiền lãi cổ phần" được sử
dụng trong Điều này có nghĩa là thu nhập từ cổ phần hoặc các quyền khác, không
kể các khoản nợ, được hưởng lợi tức, và thu nhập từ các quyền lợi công ty khác
phải chịu thuế giống như thu nhập từ cổ phần theo các luật của Nước nơi công ty
chia lãi cổ phần là đối tượng cư trú.
4. Những quy định tại khoản 1 và 2 sẽ không áp dụng
trong trường hợp đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi cổ phần là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết có tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết
kia, nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú thông qua một cơ sở
thường trú nằm tại Nước đó, hay tiến hành tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá
nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia, và quyền nắm giữ các cổ
phần được hưởng tiền lãi cổ phần, có sự liên hệ thực tế đến cơ sở thường trú
hoặc cơ sở cố định nói trên. Trong trường hợp như vậy, các quy định tại Điều 7
hoặc Điều 14, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Khi một công ty là đối tượng cư trú của một Nước
ký kết có lợi tức hay thu nhập phát sinh từ Nước ký kết kia thì Nước kia có thể
không đánh thuế đối với những khoản tiền lãi cổ phần do công ty này trả, trừ
trường hợp những khoản tiền lãi cổ phần này được trả cho đối tượng cư trú của
Nước ký kết kia, hoặc quyền nắm giữ cổ phần có các khoản tiền lãi cổ phần được
trả có sự liên hệ thực tế với một cơ sở thường trú hay một cơ sở cố định nằm
tại Nước kia, đồng thời Nước kia cũng không buộc các khoản lợi tức không chia
của công ty trên phải chịu thuế đối với những khoản lợi tức không chia của công
ty, cho dù những khoản tiền lãi cổ phần được chia hoặc các khoản lợi tức không
chia bao gồm toàn bộ hay một phần các khoản lợi tức hoặc thu nhập phát sinh tại
Nước kia.
ĐIỀU 11. LÃI TỪ TIỀN CHO VAY
1. Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại một Nước ký
kết và được trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế
tại Nước kia.
2. Tuy nhiên, khoản tiền lãi này cũng có thể bị
đánh thuế ở Nước ký kết nơi phát sinh lãi và theo các luật của Nước đó, nhưng
nếu người nhận là đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi này thì mức thuế khi
đó được tính sẽ không vượt quá 10 phần trăm của tổng số khoản lãi từ tiền cho
vay. Các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ xây dựng phương
thức áp dụng giới hạn này bằng thỏa thuận chung.
3. Mặc dù có những quy định tại khoản 2, lãi từ tiền
cho vay phát sinh tại một Nước ký kết và trả cho Chính phủ của Nước ký kết kia,
bao gồm cả chính quyền địa phương, Ngân hàng Trung ương hoặc bất kỳ tổ chức tài
chính nào do Chính phủ nước kia điều hành, hoặc lãi phát sinh từ các khoản cho
vay do Chính phủ nước kia bảo lãnh sẽ được miễn thuế tại Nước ký kết thứ nhất.
4. Thuật ngữ "lãi từ tiền cho vay" dùng ở
Điều này có nghĩa là thu nhập từ các khoản cho vay dưới bất kỳ dạng nào, có hay
không được đảm bảo bằng thế chấp và có hoặc không có quyền được hưởng lợi tức
của người đi vay, và đặc biệt là khoản thu nhập từ chứng khoán của Chính phủ và
thu nhập từ trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường, kể cả các khoản tiền
thưởng và giải thưởng kèm theo các khoản chứng khoán, trái phiếu hoặc trái
phiếu thông thường đó. Tiền phạt thanh toán chậm sẽ không được coi là lãi từ
tiền cho vay theo nội dung của Điều này.
5. Những quy định tại khoản 1 và 2 sẽ không áp dụng
nếu đối tượng thực hưởng các khoản lãi từ tiền cho vay là đối tượng cư trú của
một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia nơi phát
sinh các khoản lãi từ tiền cho vay thông qua một cơ sở thường trú nằm tại Nước
kia hoặc thực hiện tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua
một cơ sở cố định tại Nước kia và khoản nợ có các khoản tiền lãi được trả có sự
liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hay cơ sở cố định đó. Trong trường hợp
này, các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
6. Lãi từ tiền cho va sẽ được coi là phát sinh tại
một Nước ký kết khi người trả chính là Nhà nước đó, chính quyền cơ sở, cơ quan
chính quyền địa phương, hoặc đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy nhiên, khi đối
tượng trả lãi có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hay một cơ sở cố định
liên quan đến các khoản nợ đã phát sinh các khoản lãi này, và khoản tiền lãi đó
do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì dù đối tượng có là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết hay không, khoản tiền lãi này sẽ vẫn được coi là
phát sinh ở Nước nơi cơ sở thường trú hay cơ sở cố định đó đóng.
7. Trường hợp do mối quan hệ đặc biệt giữa đối
tượng trả lãi và đối tượng hưởng lãi hoặc giữa cả hai đối tượng trên và các đối
tượng khác, khoản lãi tiền cho vay được trả cho khoản nợ có liên quan, vượt quá
khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng đi vay và đối tượng thực hưởng khi
không có mối quan hệ này, thì khi đó, các quy định tại Điều này sẽ chỉ áp dụng
đối với các khoản tiền thanh toán khi không có mối quan hệ đặc biệt trên. Trong
trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo các luật của từng
Nước ký kết có xem xét tới các quy định khác của Hiệp định này.
ĐIỀU 12. TIỀN BẢN QUYỀN
1. Tiền bản quyền phát sinh tại một Nước ký kết và
được trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước
ký kết kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền bản quyền đó cũng có
thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh, và theo các luật của Nước đó,
nhưng nếu đối tượng nhận là đối tượng thực hưởng tiền bản quyền thì mức thuế
được tính khi đó sẽ không vượt quá 10 phần trăm tổng số tiền bản quyền. Các nhà
chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ xây dựng phương thức áp dụng
giới hạn này bằng thỏa thuận chung.
3. Thuật ngữ "tiền bản quyền" được sử
dụng trong Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán ở bất kỳ dạng nào được trả
cho việc sử dụng, hoặc quyền sử dụng, bản quyền tác giả của một tác phẩm văn
học, nghệ thuật hay khoa học, kể cả phim điện ảnh hoặc phim hoặc các loại băng
dùng cho thanh hoặc truyền hình, bằng phát minh, nhãn hiệu thương mại, thiết kế
hoặc mẫu, đồ án, công thức hoặc quy trình bí mật, hay trả cho việc sử dụng, hay
quyền sử dụng, thiết bị công nghiệp, thương mại hoặc khoa học, hay trả cho
thông tin liên quan đến các kinh nghiệm công nghiệp, thương mại hoặc khoa học.
4. Những quy định tại khoản 1 và 2 sẽ không áp dụng
nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền bản quyền, là đối tượng cư trú của một
Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia nơi có khoản
tiền bản quyền phát sinh, thông qua một cơ sở thường trú nằm tại Nước kia, hoặc
tiến hành tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ
sở cố định nằm tại Nước kia, và quyền hay tài sản có các khoản tiền bản quyền
được trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hoặc với cơ sở cố định đó.
Trong trường hợp này các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tùy từng trường hợp,
sẽ được áp dụng.
5. Tiền bản quyền sẽ được coi là phát sinh tại một
Nước ký kết khi đối tượng trả tiền bản quyền chính là Nhà nước đó, chính quyền
cơ sở, cơ quan chính quyền địa phương hoặc là đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy
nhiên, khi một đối tượng trả tiền bản quyền, là hay không là đối tượng cư trú
của một Nước ký kết, có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hay một cơ sở cố
định liên quan đến trách nhiệm trả tiền bản quyền đã phát sinh và tiền bản
quyền đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì khoản tiền bản
quyền này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước nơi cơ sở thường trú hay cơ sở cố
định đó đóng.
6. Trường hợp vì mối quan hệ đặc biệt giữa đối
tượng trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên với các đối
tượng khác, khoản tiền bản quyền được trả cho việc sử dụng, quyền hoặc thông
tin, vì bất cứ lý do gì, vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng trả
tiền và đối tượng thực hưởng khi không có mối quan hệ đặc biệt này, thì các quy
định của Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với khoản tiền thanh toán khi không có mối
quan hệ trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo
các luật của từng Nước ký kết có xem xét đến các quy định khác của Hiệp định
này.
ĐIỀU 13. LỢI TỨC TỪ CHUYỂN NHƯỢNG
TÀI SẢN
1. Lợi tức do một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết nhận được từ việc chuyển nhượng bất động sản được nêu tại Điều 6 và nằm tại
Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Lợi tức từ việc chuyển nhượng động sản là một
phần của tài sản kinh doanh của một cơ sở thường trú mà một xí nghiệp của một
Nước ký kết có tại Nước ký kết kia hoặc động sản thuộc một cơ sở cố định của
một đối tượng cư trú của một Nước ký kết có ở Nước ký kết kia để tiến hành hoạt
động dịch vụ cá nhân độc lập, kể cả lợi tức từ việc chuyển nhượng cơ sở thường
trú đó (riêng cơ sở thường trú đó hoặc cùng với toàn bộ xí nghiệp) hoặc cơ sở
cố định đó có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
3. Lợi tức do một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết thu được từ việc chuyển nhượng tàu thủy hoặc máy bay hoạt động trong vận
tải quốc hoặc động sản gắn liền với hoạt động của các tàu thủy hay máy bay đó
sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết đó.
4. Lợi tức do một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết thu được từ việc chuyển nhượng các cổ phần hay các quyền lợi tương ứng
trong một công ty mà tài sản của công ty đó bao gồm toàn bộ hay chủ yếu bất
động sản nằm tại Nước kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
5. Lợi tức thu được từ việc chuyển nhượng các cổ
phần trong một công ty là đối tượng cư trú của một Nước ký kết không phải là
những cổ phần được đề cập tới tại khoản 4 có thể bị đánh thuế tại Nước đó.
6. Lợi tức từ việc chuyển nhượng bất kỳ tài sản nào
khác với những tài sản đã được nêu tại khoản 1, 2, 3, 4 và 5 sẽ chỉ bị đánh
thuế tại Nước ký kết nơi đối tượng chuyển nhượng là đối tượng cư trú.
ĐIỀU 14. HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ CÁ NHÂN
ĐỘC LẬP
1. Thu nhập do một cá nhân là đối tượng cư trú của
một Nước ký kết thu được từ các hoạt động dịch vụ ngành nghề hay các hoạt động
khác có tính chất độc lập sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ các trường hợp
sau, khi mà các khoản thu nhập này cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia:
a. nếu đối tượng đó thường xuyên có tại Nước ký kết
kia một cơ sở cố định để thực hiện các hoạt động này; trong trường hợp đó, chỉ
phần thu nhập phân bổ cho cơ sở cố định đó có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết
kia; hoặc
b. nếu đối tượng đó có mặt tại Nước ký kết kia
trong khoảng thời gian hay nhiều khoảng thời gian gộp lại đến hay vượt quá 183
ngày trong bất kỳ giai đoạn 12 tháng nào bắt đầu hoặc kết thúc trong năm tài
chính có liên quan; trong trường hợp đó, chỉ phần thu nhập phát sinh từ các
hoạt động của đối tượng này thực hiện tại Nước kia có thể bị đánh thuế tại Nước
kia; hoặc
2. Thuật ngữ "dịch vụ ngành nghề" bao gồm
chủ yếu những hoạt động khoa học, văn học, nghệ thuật, giáo dục hay giảng dạy
mang tính chất độc lập như các hoạt động độc lập của các thầy thuốc, bác sĩ,
luật sư, kỹ sư, kiến trúc sư, nha sĩ và kế toán viên.
ĐIỀU 15. HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ CÁ NHÂN
PHỤ THUỘC
1. Thể theo các quy định tại Điều 16, 18, 19, 20 và
21 các khoản tiền lương, tiền công, và các khoản tiền thù lao tương tự khác do
một đối tượng cư trú của Nước ký kết thu được từ lao động làm công sẽ chỉ bị
đánh thuế tại Nước đó, trừ khi công việc của đối tượng đó được thực hiện tại
Nước ký kết kia. Nếu công việc lao động được thực hiện như vậy, số tiền công
trả cho lao động đó có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Mặc dù có những quy định tại khoản 1, tiền công
do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm công tại
Nước ký kết kia sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước thứ nhất nếu:
a. người nhận tiền công hiện có mặt tại Nước kia
trong một thời gian hoặc nhiều thời gian gộp lại không quá 183 ngày trong bất
kỳ năm tài chính nào có liên quan, và
b. chủ lao động hay người đại diện chủ lao động trả
tiền công lao động không phải là đối tượng cư trú tại Nước kia, và
c. số tiền thù lao không phải phát sinh tại một cơ
sở thường trú hoặc cơ sở cố định mà đối tượng chủ lao động có tại Nước kia.
3. Mặc dù có những quy định trên của Điều này, tiền
công từ công việc làm trên tàu thủy hoặc máy bay do một xí nghiệp của một Nước
ký kết hoạt động trong vận tải quốc tế sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
ĐIỀU 16. THÙ LAO CHO GIÁM ĐỐC
Các khoản thù lao cho giám đốc và các khoản thanh
toán tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết nhận được với tư
cách là thành viên của ban giám đốc hoặc các bộ phận tương tự khác của một công
ty là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
ĐIỀU 17. NGHỆ SĨ VÀ VẬN ĐỘNG
VIÊN
1. Mặc dù có những quy định tại Điều 14 và 15, thu
nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được với tư cách người
biểu diễn như diễn viên sân khấu, diễn viên điện ảnh, nghệ sĩ phát thanh hay
truyền hình, hoặc nhạc công, hoặc với tư cách là vận động viên, từ những hoạt
động các nhân của mình thực hiện tại Nước ký kết kia, có thể bị đánh thuế ở
Nước kia.
2. Trường hợp thu nhập liên quan đến các hoạt động
trình diễn cá nhân của người biểu diễn hoặc vận động viên nhưng không được trả
cho bản thân người biểu diễn hoặc vận động viên, mà trả cho một đối tượng khác
thì thu nhập này có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi diễn ra những hoạt
động trình diễn của người biểu diễn hoặc vận động viên, mặc dù đã có những quy
định tại Điều 7, 14 và 15.
3. Mặc dù đã có những quy định tại khoản 1 và 2,
thu nhập do các nghệ sĩ hoặc vận động viên là đối tượng cư trú của một Nước ký
kết thu được từ các hoạt động tại Nước ký kết kia theo khuôn khổ chương trình
trao đổi văn hóa giữa hai Chính phủ của hai Nước ký kết, sẽ được miễn thuế tại
Nước ký kết kia.
ĐIỀU 18. TIỀN LƯƠNG HƯU
Thể theo các quy định tại khoản 2 Điều 19, tiền lương
hưu và các khoản tiền thù lao tương tự khác được trả cho một cá nhân là đối
tượng cư trú của một Nước ký kết do các công việc đã làm trước đây sẽ chỉ bị
đánh thuế tại Nước đó.
ĐIỀU 19. PHỤC VỤ NHÀ NƯỚC
1. a. Tiền công lao động, trừ tiền lương hưu, do
một Nước ký kết hoặc cơ quan chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của
Nước đó trả cho một cá nhân đối với việc phục vụ cho Nhà nước hoặc chính quyền
địa phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
b. Tuy nhiên khoản tiền công lao động nói trên sẽ chỉ
bị đánh thuế tại Nước ký kết kia nếu việc phục vụ này được thực hiện tại Nước
kia và nếu cá nhân này là đối tượng cư trú của Nước kia, đồng thời: (i) là đối
tượng mang quốc tịch của Nước kia; hoặc (ii) không trở thành đối tượng cư trú
của Nước kia chỉ đơn thuần vì thực hiện những công việc trên.
2. a. Bất kỳ khoản tiền lương hưu nào do một Nước
ký kết hoặc cơ quan chính quyền cơ sở hoặc cơ quan chính quyền địa phương của
Nước đó hoặc do các quỹ của những cơ quan đó lập ra trả cho một cá nhân đối với
công việc phục vụ cho Nhà nước hoặc các cơ quan chính quyền cơ sở hoặc chính
quyền địa phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
b. Tuy nhiên, những khoản tiền lương hưu này sẽ chỉ
bị đánh thuế tại Nước ký kết kia nếu cá nhân này là đối tượng cư trú và là đối
tượng mang quốc tịch của Nước ký kết kia.
3. Các quy định của Điều 15, 16 và 18 sẽ áp
dụng đối với những khoản tiền công lao động và tiền lương hưu đối với các công
việc liên quan đến một hoạt động kinh doanh được tiến hành bởi một Nước ký kết
hoặc cơ quan chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của Nước đó.
ĐIỀU 20. SINH VIÊN VÀ THỰC TẬP
SINH
Những khoản tiền mà một sinh viên hay thực tập sinh
nhận được để trang trải các chi phí sinh hoạt, học tập hay đào tạo mà người
sinh viên hay thực tập sinh này ngay trước khi đến một Nước ký kết đã hoặc đang
là người cư trú của Nước ký kết kia và hiện có mặt tại Nước thứ nhất chỉ với
mục đích học tập hay đào tạo, sẽ không bị đánh thuế tại Nước đó, với điều kiện
những khoảng tiền đó có nguồn gốc từ bên ngoài Nước này.
ĐIỀU 21. GIÁO VIÊN, GIÁO SƯ VÀ
NHÀ NGHIÊN CỨU
1. Một cá nhân, người hiện nay hay ngay trước khi
sang một Nước ký kết đã là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia và hiện có mặt
tại Nước ký kết thứ nhất với mục đích chủ yếu là giảng dạy, thuyết trình hay
tiến hành nghiên cứu tại một trường đại học, trường cao đẳng, trường học hay cơ
sở giáo dục hoặc cơ sở nghiên cứu khoa học được Chính phủ của Nước ký kết thứ
nhất chấp nhận, sẽ được miễn thuế tại Nước ký kết thứ nhất đối với tiền công
trả cho công việc giảng dạy, thuyết trình hay nghiên cứu trong một khoảng thời
gian 2 năm kể từ ngày đầu tiên cá nhân đó đến Nước ký kết thứ nhất.
2. Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với thu nhập từ việc
nghiên cứu nếu việc nghiên cứu này được một cá nhân tiến hành vì lợi ích công
cộng và trước tiên không phải vì lợi ích riêng của một số hay của nhiều đối
tượng tư nhân khác.
ĐIỀU 22. THU NHẬP KHÁC
1. Những khoản thu nhập của một đối tượng cư trú
của một Nước ký kết, bất kể phát sinh ở đâu, chưa được đề cập đến trong các
Điều trên của Hiệp định này, sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Những quy định tại khoản 1 sẽ không áp dụng đối
với thu nhập, trừ thu nhập từ bất động sản được định nghĩa tại khoản 2 Điều 6,
nếu đối tượng nhận khoản thu nhập đó là đối tượng cư trú của một Nước ký kết,
có tiến hành kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú nằm
tại Nước kia hay thực hiện tại Nước kia những hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập
thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia, và quyền hay tài sản liên quan đến số
thu nhập được chi trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hay cơ sở cố
định nói trên. Trong trường hợp như vậy những quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14,
tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
3. Mặc dù có những quy định tại khoản 1 và 2, các
khoản thu nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết chưa được đề cập
tới tại các Điều trước của Hiệp định này và phát sinh tại Nước ký kết cũng có
thể bị đánh thuế tại Nước kia.
ĐIỀU 23. CÁC BIỆN PHÁP XÓA BỎ VIỆC
ĐÁNH THUẾ HAI LẦN
1. Tại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,
việc đánh thuế hai lần sẽ được xóa bỏ như sau:
Trường hợp một đối tượng cư trú của nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thu được thu nhập, lợi tức hay lợi tức từ việc chuyển
nhượng tài sản mà theo luật của CHDCND Triều Tiên và phù hợp với Hiệp định này
có thể bị đánh thuế tại CHDCND Triều Tiên, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
sẽ cho khấu trừ vào thuế Việt Nam thu trên thu nhập, lợi tức hay lợi tức từ
chuyển nhượng tài sản một khoản tiền tương đương với số thuế đã nộp tại CHDCND
Triều Tiên. Tuy nhiên, số thuế được khấu trừ sẽ không vượt quá số thuế Việt Nam
thu trên thu nhập, lợi tức hay lợi tức từ việc chuyển nhượng tài sản đó được
tính phù hợp với các luật và quy định về thuế của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam.
2. Tại nước CHDCND Triều Tiên, việc đánh thuế hai
lần sẽ được xóa bỏ như sau:
Trường hợp một đối tượng cư trú của nước CHDCND
Triều Tiên thu được thu nhập, lợi tức hay lợi tức từ việc chuyển nhượng tài sản
mà theo luật của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và phù hợp với Hiệp định
này có thể bị đánh thuế tại Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, CHDCND Triều
Tiên sẽ cho khấu trừ vào thuế CHDCND Triều Tiên thu trên thu nhập, lợi tức hay
lợi tức từ chuyển nhượng tài sản một khoản tiền tương đương với số thuế đã nộp
tại Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, số thuế được khấu trừ sẽ
không vượt quá số thuế CHDCND Triều Tiên thu trên thu nhập, lợi tức hay lợi tức
từ việc chuyển nhượng tài sản đó được tính phù hợp với các luật và quy định về
thuế của CHDCND Triều Tiên.
3. Theo mục đích của khoản 1 và 2, thuế phải nộp
tại Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hoặc tại CHDCND Triều Tiên, tùy theo ngữ
cảnh đòi hỏi, được hiểu là bao gồm cả khoản thuế lẽ ra phải nộp tại một Nước ký
kết nhưng được Nước ký kết đó miễn hoặc giảm theo các quy định trong luật pháp
của Nước đó nhằm mục đích phát triển kinh tế.
ĐIỀU 24. KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ
1. Những đối tượng mang quốc tịch của một Nước ký
kết sẽ không phải chịu thuế tại Nước ký kết kia bất kỳ hình thức thuế nào hay
bất kỳ yêu cầu nào liên quan đến hình thức thuế đó khác với hay nặng hơn hình
thức thuế và các yêu cầu liên quan hiện đang và có thể áp dụng cho các đối
tượng mang quốc tịch của Nước ký kết kia.
2. Thuế đối với một cơ sở thường trú của một xí
nghiệp của một Nước ký kết đặt tại Nước ký kết kia sẽ không kém thuận lợi
hơn thuế áp dụng đối với các xí nghiệp của Nước ký kết kia cùng thực hiện những
hoạt động tương tự. Quy định này sẽ không được hiểu là buộc một Nước ký kết
phải dành cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia được hưởng bất kỳ suất
miễn thu cá nhân, khoản miễn và giảm thuế nào về thân phận dân sự hoặc trách
nhiệm gia đình mà Nước ký kết thứ nhất dành cho những đối tượng cư trú của mình.
3. Trừ trường hợp các quy định tại khoản 1 Điều 9,
khoản 7 Điều 11 hoặc khoản 6 Điều 12 được áp dụng, lãi từ tiền cho vay, tiền
bản quyền và những khoản tiền thanh toán khác do xí nghiệp của một Nước ký kết
trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia, khi xác định lợi tức chịu thuế
của xí nghiệp đó, sẽ được khấu vào chi phí theo cùng những điều kiện như khi
những khoản tiền này được trả cho một đối tượng cư trú của Nước thứ nhất. Tương
tự như vậy, bất kỳ một khoản nợ nào của một xí nghiệp của một Nước ký kết được
trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia, trong khi xác định tài sản
chịu thuế của xí nghiệp đó, sẽ được trừ vào chi phí theo cùng những điều kiện
tương tự như là số tiền này được trả cho một đối tượng cư trú của Nước thứ nhất.
4. Các xí nghiệp của một Nước ký kết có toàn bộ hay
một phần vốn thuộc sở hữu hoặc chịu sự kiểm soát, trực tiếp hay gián tiếp, bởi
một hay nhiều đối tượng cư trú của Nước ký kết kia, sẽ không phải chịu ở Nước
thứ nhất bất kỳ hình thức thuế nào hay bất kỳ yêu cầu nào liên quan đến hình
thức thuế đó khác với hay nặng hơn hình thức thuế và các yêu cầu liên quan hiện
đang và có thể áp dụng cho các xí nghiệp tương tự khác của Nước thứ nhất.
5. Mặc dù đã có các quy định tại khoản 1 đến khoản
4 của Điều này, việc một Nước ký kết, căn cứ theo các luật thuế của Nước mình,
áp dụng bất kỳ một hình thức thuế nào đối với các đối tượng mang quốc tịch của
Nước đó khác với hình thức thuế áp dụng cho các đối tượng mang quốc tịch của
Nước ký kết kia, vì mục đích thúc đẩy phát triển kinh tế, sẽ không được coi là
phân biệt đối xử theo nghĩa của Điều này.
6. Không có quy định nào tại Điều này sẽ được hiểu
là buộc từng Nước ký kết phải dành cho các cá nhân không phải là đối tượng cư
trú của Nước đó được hưởng bất kỳ suất miễn thu cá nhân, khoản miễn và giảm
thuế nào mà Nước đó dành cho những cá nhân là đối tượng cư trú được hưởng.
7. Những quy định tại Điều này sẽ chỉ áp dụng đối
với các loại thuế chịu sự điều chỉnh của Hiệp định.
ĐIỀU 25. THỦ TỤC THỎA THUẬN
SONG PHƯƠNG
1. Trường hợp một đối tượng là đối tượng cư trú của
một Nước ký kết nhận thấy rằng việc giải quyết của nhà chức trách có thẩm quyền
tại một hay cả hai Nước ký kết làm cho hay sẽ làm cho đối tượng đó phải nộp
thuế không đúng theo những quy định của Hiệp định này, lúc đó đối tượng này có
thể giải trình trường hợp của mình với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký
kết nơi đối tượng đó là đối tượng cư trú, mặc dù trong luật trong nước của hai
Nước ký kết đã quy định những chế độ xử lý khiếu nại. Trường hợp đó phải được
giải trình trong thời hạn 3 năm kể từ lần thông báo giải quyết đầu tiên dẫn đến
hình thức thuế áp dụng không đúng với những quy định của Hiệp định.
2. Nhà chức trách có thẩm quyền sẽ cố gắng, nếu như
việc khiếu nại là hợp lý và nếu bản thân nhà chức trách đó không thể đi đến một
giải pháp thỏa đáng, phối hợp với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết
kia để cùng giải quyết trường hợp khiếu nại bằng sự thỏa thuận chung, nhằm mục
đích tránh đánh thuế không phù hợp với nội dung của Hiệp định này. Bất kỳ thỏa
thuận nào đạt được sẽ được áp dụng không căn cứ vào bất kỳ giới hạn thời gian
nào ghi trong luật trong nước của hai Nước ký kết.
3. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
sẽ cố gắng giải quyết mọi khó khăn hay vướng mắc nảy sinh trong quá trình áp
dụng Hiệp định này. Hai bên cũng có thể trao đổi với nhau nhằm xóa bỏ việc đánh
thuế hai lần trong những trường hợp chưa được quy định trong Hiệp định.
4. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
có thể trực tiếp liên hệ với nhau với mục đích nhằm đạt được một thỏa thuận
theo nội dung của những khoản trên đây. Các nhà chức trách có thẩm quyền, thông
qua trao đổi, sẽ xây dựng các thủ tục, điều kiện, biện pháp và kỹ thuật thích
ứng song phương để thực hiện thủ tục thỏa thuận song phương được quy định tại
Điều này.
ĐIỀU 26. TRAO ĐỔI THÔNG TIN
1. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
sẽ trao đổi với nhau những thông tin cần thiết cho việc triển khai thực hiện
những quy định của Hiệp định này hay của các luật trong nước của hai Nước ký
kết liên quan đến các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng sao cho việc đánh thuế
theo các luật trong nước sẽ không trái với Hiệp định này, đặc biệt nhằm ngăn
chặn việc trốn, hay lậu các loại thuế đó. Việc trao đổi thông tin sẽ không bị
giới hạn bởi Điều 1. Mọi thông tin do một Nước ký kết nhận được sẽ được giữ bí
mật giống như thông tin thu nhận theo các luật trong nước của Nước đó và sẽ chỉ
được cung cấp cho các đối tượng hay các cơ quan chức trách (bao gồm cả tòa án
và các cơ quan hành chính) có liên quan đến việc tính toán, thu, cưỡng chế hay
truy tố hoặc xác định các khiếu nại về các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng.
Các đối tượng hoặc các cơ quan chức trách này sẽ chỉ sử dụng các thông tin đó
vào các mục đích nêu trên. Các đối tượng và các cơ quan đó có thể cung cấp các
thông tin này trong quá trình tố tụng công khai của tòa án hay trong các quyết
định của tòa án. Các nhà chức trách có thẩm quyền, thông qua trao đổi, sẽ xây
dựng các thủ tục, điều kiện, biện pháp và kỹ thuật song phương thích hợp liên
quan đến các vấn đề mà việc trao đổi thông tin sẽ được thực hiện, bao gồm cả
trao đổi thông tin liên quan đến việc tránh thuế khi cần thiết.
2. Không có trường hợp nào những quy định tại khoản
1 được giải thích là buộc một Nước ký kết có nghĩa vụ:
a. thực hiện các biện pháp hành chính khác với luật
pháp hay thông lệ về quản lý hành chính của Nước ký kết đó hay của Nước ký kết
kia;
b. cung cấp những thông tin không thể thu thập được
theo các luật hay trong khuôn khổ quản lý hành chính thông thường của Nước ký
kết đó hay của Nước ký kết kia;
c. cung cấp những thông tin có thể làm tiết lộ bí
mật về mậu dịch, thương mại, công nghiệp, thương nghiệp hay bí mật nghề nghiệp
hoặc các phương thức kinh doanh, hoặc thông tin, mà việc tiết lộ này có thể
trái với chính sách nhà nước.
ĐIỀU 27. CÁC VIÊN CHỨC NGOẠI GIAO
VÀ LÃNH SỰ
Không nội dung nào trong Hiệp định này sẽ ảnh hưởng
đến những ưu đãi về thuế được dành cho các viên chức ngoại giao hoặc các viên
chức lãnh sự theo những nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế hay những quy
định trong các hiệp định đặc biệt.
ĐIỀU 28. HIỆU LỰC
1. Từng Nước ký kết sẽ thông báo cho Nước ký kết
kia bằng văn bản thông qua đường ngoại giao việc hoàn thành các thủ tục cần
thiết theo quy định của luật pháp Nước mình để Hiệp định có hiệu lực. Hiệp định
này sẽ có hiệu lực vào ngày thông báo sau cùng.
2. Hiệp định này sẽ có hiệu lực thi hành:
a. đối với các loại thuế khấu trừ tại nguồn, thu
trên các khoản thu nhập chịu thuế được chi trả vào ngày hoặc sau ngày 1 tháng 1
của năm mà Hiệp định này có hiệu lực;
b. đối với các loại thuế khác thu trên thu nhập, áp
dụng cho các khoản thuế được tính vào ngày hoặc sau ngày 1 tháng 1 của năm
dương lịch tiếp theo năm Hiệp định có hiệu lực.
ĐIỀU 29. KẾT THÚC
Hiệp định này sẽ vẫn còn hiệu lực cho tới khi một
trong hai Nước ký kết tuyên bố kết thúc. Từng Nước ký kết, thông qua đường
ngoại giao, có thể kết thúc Hiệp định bằng cách gửi cho Nước ký kết kia văn bản
thông báo kết thúc Hiệp định ít nhất 6 tháng trước khi kết thúc bất kỳ năm
dương lịch nào bắt đầu sau thời hạn 5 năm kể từ ngày Hiệp định này có hiệu lực.
Trong trường hợp như vậy, Hiệp định sẽ hết hiệu lực thi hành:
a. đối với các loại thuế khấu trừ tại nguồn, thu
trên các khoản thu nhập chịu thuế được chi trả vào ngày hoặc sau ngày 1 tháng 1
của năm dương lịch tiếp theo năm gửi thông báo kết thúc;
b. đối với các loại thuế khác thu trên thu nhập, áp
dụng cho các khoản thuế được tính vào ngày hoặc sau ngày 1 tháng 1 của năm
dương lịch tiếp theo năm gửi thông báo kết thúc.
ĐỂ LÀM BẰNG những người được ủy quyền của từng
Chính phủ dưới đây đã ký vào Hiệp định này.
HIỆP ĐỊNH ĐƯỢC LÀM thành hai bản tại Bình Nhưỡng
vào ngày 03 tháng 5 năm 2002, mỗi bản gồm các thứ tiếng: tiếng Việt, tiếng
Triều Tiên và tiếng Anh, tất cả các văn bản đều có giá trị như nhau. Trường hợp
có sự giải thích khác nhau giữa các văn bản này, bản tiếng Anh sẽ có giá trị
quyết định./.
THAY MẶT CHÍNH
PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
(Đã ký)
|
THAY MẶT CHÍNH
PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN TRIỀU TIÊN
(Đã ký)
|
Hiệp định này có hiệu lực kể từ ngày 12/8/2007.