HIỆP ĐỊNH
GIỮA
CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA PHẦN
LAN VỀ TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN VÀ NGĂN NGỪA VIỆC TRỐN LẬU THUẾ ĐỐI VỚI CÁC LOẠI
THUẾ ĐÁNH VÀO THU NHẬP
Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
và Chính phủ nước Cộng hòa Phần Lan,
Mong muốn ký kết một Hiệp định về việc tránh đánh
thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu
nhập,
Đã thỏa thuận dưới đây:
ĐIỀU 1. PHẠM VI ÁP DỤNG
Hiệp định này được áp dụng cho các đối tượng là những
đối tượng cư trú của một hoặc của cả hai Nước ký kết.
ĐIỀU 2. CÁC LOẠI THUẾ BAO GỒM
TRONG HIỆP ĐỊNH
1. Hiệp định này sẽ áp dụng đối với các loại thuế
do một Nước ký kết hoặc hay chính quyền địa phương của Nước đó, đánh vào thu nhập,
bất kể hình thức áp dụng của các loại thuế đó như thế nào.
2. Tất cả các loại thuế thu trên tổng thu nhập, hoặc
những phần của thu nhập, hoặc những phần của thu nhập bao gồm cả các khoản thuế
đối với lợi nhuận từ việc chuyển nhượng động sản hoặc bất động sản, các loại
thuế đánh trên tổng số tiền lương hoặc tiền công do xí nghiệp chi trả cũng như
các loại thuế đánh trên phần trị giá tài sản tăng thêm đều được coi là thuế
đánh vào thu nhập.
3. Những loại thuế hiện hành được áp dụng trong Hiệp
định này là:
a. tại Việt Nam: (i) thuế thu nhập cá nhân; và (ii)
thuế lợi tức; và (iii) thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài; (dưới đây được gọi
là “thuế Việt Nam”);
b. tại Phần Lan: (i) thuế thu nhập trung ương; (ii)
thuế thu nhập công ty; (iii) thuế địa phương; (iv) thuế khấu trừ tại nguồn đối
với lãi từ tiền cho vay; và (v) thuế khấu trừ tại nguồn đối với thu nhập của
các đối tượng không cư trú; (dưới đây được gọi là “thuế Phần Lan”).
4. Hiệp định này cũng sẽ được áp dụng cho các loại
thuế có tính chất tương tự hay về căn bản giống như các loại thuế trên bàn hành
sau ngày ký Hiệp định này để bổ sung, hoặc thay thế các loại thuế hiện hành.
Các nhà chức trách có thẩm quyền của các Nước ký kết sẽ thông báo cho nhau biết
những thay đổi quan trọng trong các luật thuế của từng Nước.
ĐIỀU 3. CÁC ĐỊNH NGHĨA CHUNG
1. Theo nội dung của Hiệp định này, trừ trường hợp
ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác:
a. từ “Việt Nam” có nghĩa là nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam; khi dùng theo nghĩa địa lý, từ đó bao gồm toàn bộ lãnh thổ
quốc gia Việt Nam, kể cả lãnh hải Việt Nam, và mọi vùng ở ngoài và gắn liền với
lãnh hải Việt Nam mà theo luật pháp Việt Nam và phù hợp với luật pháp quốc tế,
Việt Nam có quyền chủ quyền đối với việc thăm dò và khai thác tài nguyên thiên
nhiên ở đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và khối nước ở trên.
b. từ “Phần Lan” có nghĩa là nước Cộng hòa Phần Lan
và khi dùng theo nghĩa địa lý có nghĩa là lãnh thổ nước Cộng hòa Phần Lan và mọi
vùng gắn liền với lãnh hải của nước Cộng hòa Phần Lan mà theo luật pháp Phần
Lan và phù hợp với luật pháp quốc tế, Phần Lan có quyền đối với việc thăm dò và
khai thác tài nguyên thiên nhiên ở đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và khối nước
ở trên.
c. thuật ngữ “Nước ký kết” và “Nước ký kết kia” có
nghĩa là Việt Nam hay Phần Lan, tùy theo từng ngữ cảnh đòi hỏi;
d. thuật ngữ “đối tượng” bao gồm cá nhân, công ty
hay bất kỳ tổ chức nhiều đối tượng;
e. thuật ngữ “công ty” để chỉ các tổ chức công ty
hay bất kỳ một thực thể nào được coi là tổ chức công ty dưới giác độ thuế;
f. thuật ngữ “xí nghiệp của Nước ký kết” và “xí
nghiệp của Nước ký kết kia” theo thứ tự có nghĩa là một xí nghiệp được điều
hành bởi một đối tượng cư trú của một Nước ký kết và một xí nghiệp được điều
hành bởi đối tượng cư trú của Nước ký kết kia;
g. thuật ngữ “đối tượng mang quốc tịch” có nghĩa:
(i) bất kỳ các cá nhân nào mang quốc tịch của một Nước ký kết; hay (ii) bất kỳ
pháp nhân, tổ chức hùn vốn hay hiệp hội nào có tư cách được chấp nhận theo các
luật có hiệu lực tại một Nước ký kết;
h. thuật ngữ “vận tải quốc tế” có nghĩa là bất cứ sự
vận chuyển nào bằng tàu thủy hoặc máy bay được thực hiện bởi một xí nghiệp của
một Nước ký kết, trừ trường hợp khi chiếc tàu thủy hoặc máy bay đó chỉ hoạt động
giữa những địa điểm ở trong Nước ký kết kia;
i. thuật ngữ “nhà chức trách có thẩm quyền” có
nghĩa: (i) tại Việt Nam là Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc người đại diện được ủy
quyền của Bộ trưởng Bộ Tài chính; và (ii) tại Phần Lan là Bộ Tài chính, đại diện
được ủy quyền của Bộ Tài chính, hoặc nhà chức trách được Bộ Tài chính chỉ định
nhà chức trách có thẩm quyền.
2. Trong khi một Nước ký kết áp dụng Hiệp định này,
mọi thuật ngữ chưa được định nghĩa trong Hiệp định này sẽ có nghĩa theo như định
nghĩa trong luật của Nước đó liên quan đến các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng
tại thời điểm đó, định nghĩa trong các luật thuế đang áp dụng tại Nước đó sẽ có
giá trị pháp lý cao hơn định nghĩa của thuật ngữ đó trong các luật khác của Nước
đó trừ trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác.
ĐIỀU 4. ĐỐI TƯỢNG CƯ TRÚ
1. Theo nội dung của Hiệp định này, thuật ngữ “đối
tượng cư trú của một Nước ký kết” có nghĩa là bất cứ đối tượng nào, mà theo các
luật của Nước đó, là đối tượng chịu thuế căn cứ vào nhà ở, nơi cư trú, trụ sở
điều hành, nơi thành lập (đăng ký) hoặc các tiêu chuẩn khác có tính chất tương
tự, và bao gồm cả nhà Nước đó và bất kỳ một tổ chức nào do Nhà Nước lập ra hoặc
cơ quan chính quyền địa phương của Nước đó. Tuy nhiên, thuật ngữ này không bao
gồm bất kỳ đối tượng nào là đối tượng chịu thuế tại Nước đó chỉ đối với thu nhập
từ các nguồn tại Nước đó.
2. Trường hợp theo những quy định tại khoản 1, khi
một cá nhân là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết, thì thân phận cư trú của
cá nhân đó sẽ được xác định như sau:
a. cá nhân đó sẽ chỉ được coi là đối tượng cư trú của
Nước mà tại đó cá nhân đó có nhà ở thường trú; nếu cá nhân đó có nhà ở thường
trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú của Nước mà cá
nhân đó có các quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ hơn (trung tam của các quyền
lợi chủ yếu);
b. nếu như không thể xác định được Nước nơi cá nhân
đó có trung tâm các quyền lợi chủ yếu, hoặc nếu cá nhân đó không có nhà ở thường
trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú của Nước mà cá
nhân đó thường sống;
c. nếu cá nhân đó thường sống ở cả hai Nước hay
không sống thường xuyên ở Nước nào, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú
của Nước mà cá nhân đó mang quốc tịch;
d. nếu cá nhân đó là đối tượng mang quốc tịch của cả
hai Nước hay không mang quốc tịch của Nước nào, nhà trức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết sẽ giải quyết vấn đề đó bằng thỏa thuận chung.
3. Trường hợp do những quy định tại khoản 1, khi một
đối tượng không phải là cá nhân, là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết,
nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ giải quyết vấn đề đó bằng
thỏa thuận chung và quyết định hình thức áp dụng của Hiệp định đối với đối tượng
đó.
ĐIỀU 5. CƠ SỞ THƯỜNG TRÚ
1. Theo nội dung của Hiệp định này, thuật ngữ “cơ sở
thường trú” có nghĩa là một cơ sở kinh doanh cố định mà qua đó xí nghiệp thực
hiện toàn bộ hay một phần hoạt động kinh doanh của mình.
2. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” chủ yếu bao gồm:
a. trụ sở điều hành;
b. chi nhánh;
c. văn phòng;
d. nhà máy;
e. xưởng;
f. mỏ, giếng dầu hoặc khí, mỏ đá hoặc bất kỳ địa điểm
khai thác tài nguyên thiên nhiên nào khác; và
g. kết cấu lắp đặt hay thiết bị sử dụng để thăm dò
tài nguyên thiên nhiên nhưng chỉ khi việc sử dụng đó diễn ra trong một giai đoạn
trên 30 ngày.
3. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” cũng bao gồm:
a. địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, dự án lắp
ráp hoặc lắp đặt hay các hoạt động giám sát liên quan đến các công trình, địa
điểm trên, nhưng chỉ khi địa điểm, công trình, dự án hay các hoạt động đó kéo
dài trong một giai đoạn trên sáu tháng;
b. việc cung cấp các dịch vụ, kể cả dịch vụ tư vấn
do một xí nghiệp của một Nước ký kết thực hiện thông qua người làm công hay đối
tượng khác được xí nghiệp giao thực hiện tại lãnh thổ của Nước ký kết kia,
nhưng chỉ khi các hoạt động nêu trên (trong cùng một dự án hay một dự án liên
quan) kéo dài trong một giai đoạn hay nhiều giai đoạn gộp lại lên trên 6 tháng
trong bất kỳ khoảng thời gian 12 tháng liên tục nào.
4. Mặc dù có những quy định trên của Điều này, thuật
ngữ “cơ sở thường trú” sẽ được coi là không bao gồm:
a. việc sử dụng các phương tiện riêng chỉ cho mục
đích lưu kho, trưng bày hoặc không thường xuyên giao hàng hóa hay tài sản của
xí nghiệp;
b. việc duy trì kho hàng hóa hoặc tài sản của xí
nghiệp chỉ với mục đích lưu kho, trưng bày hay việc giao hàng hóa không thường
xuyên;
c. việc duy trì kho hàng hóa hoặc tài sản của xí
nghiệp chỉ với mục đích để cho xí nghiệp khác gia công;
d. việc duy trì một cơ sở kinh doanh cố định chỉ nhằm
với mục đích mua hàng hóa hoặc tài sản hay để thu thập thông tin cho xí nghiệp;
e. việc duy trì một cơ sở kinh doanh cố định chỉ với
mục đích tiến hành bất kỳ hoạt động nào khác có tính chuẩn bị hoặc phụ trợ cho
xí nghiệp.
f. việc duy trì một cơ sở kinh doanh cố định chỉ với
mục đích kết hợp bất kỳ hoạt động nào nêu từ điểm (a) tới điểm (e), với điều kiện
sự kết hợp toàn bộ hoạt động động nêu trên của cơ sở kinh doanh cố định đó mang
tính chất chuẩn bị hay phụ trợ.
5. Mặc dù có những quy định tại Khoản 1 và 2, trường
hợp một đối tượng - trừ đại lý có tư cách độc lập được điều chỉnh tại khoản
7 – hoạt động tại một Nước ký kết thay mặt cho một xí nghiệp của Nước ký kết
kia, xí nghiệp đó sẽ được coi là có cơ sở thường trú tại Nước ký kết thứ nhất đối
với các hoạt động mà đối tượng trên thực hiện cho xí nghiệp, nếu đối tượng đó:
a. có và thường xuyên thực hiện tại Nước thứ nhất
thẩm quyền ký kết các hợp đồng đứng tên xí nghiệp, trừ khi các hoạt động của đối
tượng đó chỉ giới hạn trong phạm vi các hoạt động nêu tại khoản 4 mà những hoạt
động đó nếu được thực hiện thông qua một cơ sở kinh doanh cố định thì sẽ không
làm cho cơ sở kinh doanh cố định đó trở thành một cơ sở thường trú theo những
quy định tại khoản đó; hay
b. không có thẩm quyền nêu trên, nhưng thường xuyên
duy trì tại Nước thứ nhất một kho hàng hóa hay tài sản, tại đó đối tượng này
thường xuyên giao hàng hóa hay tài sản thay mặt cho xí nghiệp.
6. Mặc dù có những quy định trên của Điều này, một
tổ chức bảo hiểm của một nước Nước ký kết, trừ trường hợp đối với tái bảo hiểm,
sẽ được coi là có cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia nếu tổ chức đó thu phí bảo
hiểm trên lãnh thổ của Nước kia hay bảo hiểm các rủi ro tại Nước kia thông qua
một đối tượng không phải là một đại lý có tư cách độc lập được điều chỉnh bởi
khoản 7.
7. Một xí nghiệp sẽ không được coi là có cơ sở thường
trú tại một Nước ký kết nếu xí nghiệp chỉ thực hiện kinh doanh tại Nước đó
thông qua một đại lý môi giới, một đại lý hoa hồng hoặc bất kỳ một đại lý nào
khác có tư cách độc lập, với điều kiện những đối tượng này chỉ hoạt động trong
khuôn khổ kinh doanh thông thường của họ. Tuy nhiên, khi các hoạt động của đại
lý đó được dành toàn bộ hay hầu như toàn bộ cho việc đại diện cho xí nghiệp, đại
lý đó sẽ không được coi là đại lý có tư cách độc lập theo nội dung của khoản
này.
8. Việc một công ty là đối tượng cư trú của một Nước
ký kết kiểm soát hoặc chịu sự kiểm soát bởi một công ty là đối tượng cư trú của
Nước ký kết kia hoặc đang tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước kia (có thể
thông qua một cơ sở thường trú hay dưới hình thức khác) sẽ không làm cho bất kỳ
công ty nào trở thành cơ sở thường trú của công ty kia.
ĐIỀU 6. THU NHẬP TỪ BẤT ĐỘNG SẢN
1. Thu nhập mà một đối tượng cư trú tại một Nước ký
kết thu được từ bất động sản (kể cả thu nhập từ nông nghiệp hoặc lâm nghiệp) nằm
tại Nước ký kết kia thì có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2.a. Thuật ngữ “bất động sản” theo như các quy định
tại điểm b) và c), sẽ có nghĩa theo như nghĩa trong luật của Nước ký kết
nơi có tài sản đó.
b. Thuật ngữ “bất động sản” trong mọi trường hợp sẽ
bao gồm cả các tòa nhà, tài sản đi liền với bất động sản, đàn gia súc và thiết
bị sử dụng trong nông nghiệp và lâm nghiệp, các quyền áp dụng theo các quy định
tại luật chung về điền sản, quyền sử dụng bất động sản và các quyền được hưởng
các khoản thanh toán thay đổi hay cố định trả cho việc khai thác hay quyền khai
thác các mỏ, các nguồn khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên khác;
c. Các tàu thủy và máy bay sẽ không được coi là bất
động sản.
3. Những quy định tại khoản 1 sẽ áp dụng đối với
thu nhập phát sinh từ việc trực tiếp sử dụng, cho thuê hay sử dụng các loại bất
động sản dưới bất kỳ hình thức nào khác.
4. Khi việc sở hữu cổ phần hay các quyền lợi công
ty khác tại một công ty cho phép chủ sở hữu các cổ phần đó hoặc các quyền lợi
công ty đó được hưởng tài sản cố định do công ty đó nắm giữ thì thu nhập phát
sinh từ việc trực tiếp sử dụng, cho thuê hay sử dụng dưới bất kỳ hình thức nào
khác quyền được hưởng tài sản đó có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi có tài
sản cố định đó.
5. Các quy định tại khoản 1 và 3 cũng sẽ áp dụng
cho thu nhập từ bất động sản của một xí nghiệp và đối với thu nhập từ bất động
sản được sử dụng để thực hiện các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập.
ĐIỀU 7. LỢI TỨC KINH DOANH
1. Lợi tức của một xí nghiệp của một Nước ký kết sẽ
chỉ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ trường hợp xí nghiệp có tiến hành hoạt động
kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú tại Nước kia. Nếu
xí nghiệp có hoạt động kinh doanh theo cách trên, thì các khoản lợi tức của xí
nghiệp có thể bị đánh thuế tại Nước kia, nhưng chỉ trên phần lợi tức phân bổ
cho:
a. Cơ sở thường trú đó;
b. việc bán tại Nước ký kết kia những hàng hóa hay
tài sản cùng loại hay tương tự với các loại hàng hóa hoặc tài sản được bán
thông qua qua cơ sở thường trú đó; hoặc
c. các hoạt động kinh doanh khác được thực hiện tại
Nước ký kết kia cùng loại hay tương tự với những hoạt động được thực hiện thông
qua cơ sở thường trú đó.
Các quy định tại điểm b) và c) sẽ không áp dụng nếu
xí nghiệp chứng minh việc bán hàng hóa hay các hoạt động tương tự được đề cập tại
các điểm đó không liên quan đến cơ sở thường trú đó.
2. Thể theo các quy định tại khoản 3, khi một xí
nghiệp của một Nước ký kết tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia
thông qua một cơ sở thường trú có tại Nước đó thì tại mỗi Nước ký kết sẽ có những
khoản lợi tức được phân bổ cho cơ sở thường trú nói trên mà cơ sở đó có thể thu
được, nếu đó là một xí nghiệp riêng, tách biệt cùng tham gia vào các hoạt động
như nhau hay tương tự trong cùng những điều kiện như nhau hay tương tự và có
quan hệ hoàn toàn độc lập với xí nghiệp mà cơ sở đó được coi là cơ sở thường
trú.
3. Trong khi xác định lợi tức của một cơ sở thường
trú, cơ sở này sẽ được phép khấu trừ tất cả các khoản chi phí phát sinh phục vụ
cho hoạt động kinh doanh của cơ sở thường trú đó, bao gồm cả chi phí điều hành
và chi phí quản lý chung phát sinh tại Nước nơi cơ sở thường trú đó đóng hoặc ở
bất kỳ nơi nào khác. Tuy nhiên, sẽ không cho phép tính vào các khoản chi phí được
trừ bất kỳ các khoản tiền nào, nếu có, do cơ sở thường trú trả cho (trừ khi là
khoản thanh toán các chi phí thực tế) trụ sở chính của xí nghiệp hay bất kỳ văn
phòng nào khác của xí nghiệp dưới hình thức tiền bản quyền, các khoản phí hay bất
kỳ khoản thanh toán nào tương tự để được phép sử dụng bằng phát minh hay các
quyền khác, hay dưới hình thức tiền hoa hồng trả cho việc thực hiện các dịch vụ
riêng biệt hay trả cho công việc quản lý hay dưới hình thức lãi tính trên tiền
cho cơ sở thường trú vay, trừ trường hợp tiền lãi của cơ sở ngân hàng. Cũng
tương tự, trong khi xác định lợi tức của cơ sở thường trú sẽ không tính đến các
khoản tiền (trừ tiền thanh toán chi phí thực tế) do cơ sở thường trú thu từ trụ
sở chính của xí nghiệp hay bất kỳ văn phòng khác của xí nghiệp, dưới hình thức
tiền bản quyền, các khoản lệ phí hay các khoản thanh toán tương tự để cho phép
sử dụng bằng phát minh hay các quyền khác, hay dưới hình thức tiền hoa hồng trả
cho việc thực hiện các dịch vụ đặc biệt hay trả cho công việc quản lý, hay dưới
hình thức lãi tính trên tiền cho trụ sở chính của xí nghiệp hay bất kỳ văn
phòng khác của xí nghiệp vay, trừ trường hợp lãi từ tiền cho vay của cơ sở ngân
hàng.
4. Trường hợp tại một Nước ký kết vẫn thường xác định
các khoản lợi tức được phân bổ cho một cơ sở thường trú trên cơ sở phân chia tổng
các khoản lợi tức của xí nghiệp thành những phần khác nhau, không có nội dung
nào tại khoản 2 ngăn cản Nước ký kết đó xác định lợi tức chịu thuế theo cách
phân chia theo thông lệ trên: tuy nhiên, phương pháp phân chia được áp dụng như
vậy phải đưa ra kết quả phù hợp với những nguyên tắc nêu tại Điều này.
5. Không một khoản lợi tức nào sẽ được phân bổ cho
một cơ sở thường trú nếu cơ sở thường trú đó chỉ đơn thuần mua hàng hóa hoặc
tài sản cho xí nghiệp đó.
6. Theo nội dung các khoản trên, các khoản lợi tức
được phân bổ cho cơ sở thường trú sẽ được xác định theo cùng một phương pháp giữa
các năm trừ khi có đủ lý do chính đáng để xác định theo phương pháp khác.
7. Khi lợi tức bao gồm các khoản thu nhập được đề cập
riêng tại các Điều khác của Hiệp định này, thì các quy định của các Điều đó
không bị ảnh hưởng bởi những quy định tại Điều này.
ĐIỀU 8. VẬN TẢI BIỂN VÀ VẬN TẢI
HÀNG KHÔNG
1. Lợi tức do một xí nghiệp của một Nước ký kết thu
được từ hoạt động của tàu thủy hoặc máy bay trong vận tải quốc tế sẽ chỉ bị
đánh thuế tại Nước đó.
2. Những quy định tại khoản 1 cũng sẽ áp dụng cho
các khoản lợi tức thu được từ việc tham gia vào một tổ hợp, một liên doanh hay
một hãng hoạt động quốc tế.
ĐIỀU 9. NHỮNG XÍ NGHIỆP LIÊN KẾT
Khi:
a. một xí nghiệp của một Nước ký kết tham gia trực
tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiếm soát hoặc góp vốn vào một xí nghiệp
của Nước ký kết kết kia, hoặc
b. các đối tượng cùng tham gia trực tiếp hoặc gián
tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn vào một xí nghiệp của một Nước
ký kết và vào một xí nghiệp của Nước ký kết kia, và trong cả hai trường hợp,
trong mối quan hệ tài chính và thương mại giữa hai xí nghiệp trên có những điều
kiện được đưa ra hoặc áp đặt khác với điều kiện được đưa ra giữa các xí nghiệp
độc lập, lúc đó mọi khoản lợi tức mà một xí nghiệp có thể thu được nếu không có
những điều kiện trên nhưng nay vì những điều kiện này mà xí nghiệp đó không thu
được, sẽ vẫn được một Nước ký kết tính vào các khoản lợi tức của xí nghiệp đó
và bị đánh thuế tương ứng.
ĐIỀU 10. TIỀN LÃI CỔ PHẦN
1. Tiền lãi cổ phần do một công ty là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể
bị đánh thuế ở Nước kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền lãi cổ phần đó cũng
có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng
cư trú và theo các luật của Nước đó, nhưng nếu đối tượng thực hưởng tiền lãi cổ
phần là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia thì thuế được tính khi đó sẽ không
vượt quá:
a. 5 phần trăm tổng số tiền lãi cổ phần nếu đối tượng
thực hưởng là một công ty (trừ các tổ chức hùn vốn) nắm giữ trực tiếp ít nhất
70 phần trăm vốn của công ty trả tiền lãi cổ phần.
b. 10 phần trăm tổng số tiền lãi cổ phần nếu đối tượng
thực hưởng là một công ty (trừ các tổ chức hùn vốn) nắm giữ dưới 70 phần trăm
nhưng ít nhất là 25 phần trăm vốn của công ty trả tiền lãi cổ phần.
c. 15 phần trăm tổng số tiền lãi cổ phần trong tất
cả các trường hợp khác.
3. Mặc dù đã có những quy định tại khoản 1 và 2,
trong thời gian một đối tượng cư trú là cá nhân tại Phần Lan, theo luật thuế Phần
Lan được hưởng khấu trừ thuế đối với tiền lãi cổ phần do một đối tượng cư trú
là công ty tại Phần Lan chi trả thì tiền lãi cổ phần do một công ty là đối tượng
cư trú của Phần Lan trả cho một đối tượng cư trú của Việt Nam sẽ chỉ bị đánh
thuế ở Việt Nam nếu đối tượng thực hưởng tiền lãi cổ phần là một đối tượng cư
trú của Việt Nam.
4. Những quy định tại khoản 1, 2 và 3 sẽ không ảnh
hưởng đến việc đánh thuế công ty đối với các khoản lợi tức được dùng để chia tiền
lãi cổ phần.
5. Thuật ngữ “tiền lãi cổ phẩn” được sử dụng trong
Điều này có nghĩa là thu nhập từ cổ phần hoặc các quyền lợi khác, không kể các
khoản nợ, được hưởng lợi tức, cũng như thu nhập từ các quyền lợi khác trong
công ty khác cùng chịu sự điều chỉnh của chính sách thuế đối với thu nhập từ cổ
phần theo luật của Nước nơi công ty chia lãi cổ phần là đối tượng cư trú.
6. Những quy định tại khoản 1, 2 và 3 sẽ không áp dụng
trong trường hợp đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi cổ phần là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết có tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết
kia, nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú, thông qua một cơ sở
thường trú nằm tại Nước đó, hay tiến hành tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá
nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia, và quyền nắm giữ cổ phần
nhờ đó được hưởng tiền lãi cổ phần, có sự liên hệ thực tế đến cơ sở thường trú
hoặc cơ sở cố định nói trên. Trong trường hợp như vậy các quy định tại Điều 7
hoặc Điều 14 của Hiệp định này, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
7. Khi một công ty là đối tượng cư trú của một Nước
ký kết nhận được lợi tức hay thu nhập từ Nước ký kết kia thì Nước kia có thể
không đánh thuế đối với những khoản tiền lãi cổ phần do công ty này trả, trừ
trường hợp những khoản tiền lãi cổ phần này được trả cho một đối tượng cư trú của
Nước ký kết kia, hoặc quyền nắm giữ cổ phần có các khoản tiền lãi cổ phần được
trả có sự liên hệ thực tế với một cơ sở thường trú hay một cơ sở cố định tại Nước
kia, đồng thời Nước kia cũng không buộc các khoản lợi tức không chia của công
ty, cho dù những khoản tiền lãi cổ phần được chia hoặc các khoản lợi tức không
chia bao gồm toàn bộ hay một phần các khoản lợi tức hoặc thu nhập phát sinh tại
Nước kia.
ĐIỀU 11. LÃI TỪ TIỀN CHO VAY
1. Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại một Nước ký kết
và được trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại
Nước kia.
2. Tuy nhiên, khoản tiền lãi này cũng có thể bị
đánh thuế ở Nước ký kết nơi phát sinh lãi và theo các luật của Nước đó, nhưng nếu
đối tượng thực hưởng là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia thì mức thuế khi
đó được tính sẽ không vượt quá 10 phần trăm của tổng số lãi từ tiền cho vay.
3. Mặc dù đã có những quy định tại khoản 2:
a. lãi từ tiền cho vay phát sinh tại Việt Nam sẽ chỉ
bị đánh thuế tại Phần Lan nếu tiền lãi này được trả cho: (i) Nhà nước Phần Lan,
một cơ quan chính quyền địa phương hoặc một tổ chức nhà nước của Phần Lan; (ii)
Ngân hàng Phần Lan; (iii) Quỹ Hợp tác Công nghiệp Phần Lan TNHH (FINNFUND) hoặc
bất kỳ một tổ chức tương tự nào có thể được thỏa thuận trong từng thời kỳ giữa
các nhà chức trách có thẩm quyền hai Nước ký kết; (iv) bất kỳ đối tượng cư trú
của Phần Lan nào liên quan đến một khoản cho vay hay tín dụng do chính phủ tài
trợ được điều chỉnh bởi các văn bản hướng dẫn được quốc tế thừa nhận đối với
các khoản tín dụng hỗ trợ chính thức.
b. lãi từ tiền cho vay phát sinh tại Phần Lan sẽ chỉ
bị đánh thuế tại Việt Nam nếu tiền lãi này được trả cho: (i) Nhà nước Việt Nam,
một cơ quan chính quyền địa phương hoặc một tổ chức nhà nước của Việt Nam; (ii)
Ngân hàng nhà nước Việt Nam; (iii) bất kỳ một tổ chức tương tự khác giống như
các tổ chức được đề cập tại điểm (i) và (ii) có vốn hoàn toàn thuộc sở hữu của
Nhà nước Việt Nam, hoặc của một cơ quan chính quyền địa phương hoặc của một tổ
chức nhà nước có thể được thỏa thuận trong từng thời kỳ giữa các nhà chức trách
có thẩm quyền của hai Nước ký kết.
4. Thuật ngữ “lãi từ tiền cho vay” được sử dụng tại
Điều này có nghĩa là thu nhập từ các khoản cho vay dưới bất kỳ dạng nào, có hay
không được đảm bảo bằng thế chấp và có hoặc không có quyền được hưởng lợi tức của
người đi vay, và đặc biệt là khoản thu nhập từ chứng khoán của chính phủ và thu
nhập từ trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường, bao gồm cả tiền thưởng và giải
thưởng đi liền với các chứng khoán, trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường đó.
Tiền phạt thanh toán chậm sẽ không được coi là lãi từ tiền cho vay theo nội
dung của Điều này.
5. Những quy định tại khoản 1và 2 sẽ không áp
dụng nếu người thực hưởng các khoản lãi từ tiền cho vay là đối tượng cư trú tại
một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia nơi phát
sinh các khoản lãi từ tiền cho vay thông qua một cơ sở thường trú tại Nước kia
hoặc thực hiện tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một
cơ sở cố định tại Nước kia và khoản nợ có các khoản tiền lãi được trả có sự
liên hệ thực tế với a) cơ sở thường trú hay cơ sở cố định đó, hoặc với b) các
hoạt động kinh doanh nêu tại điểm c) khoản 1 Điều 7. Trong trường hợp này, các
quy định tại Điều 7 hoặc Điều 15, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
6. Lãi từ tiền cho vay sẽ được coi là phát sinh tại
một Nước ký kết khi đối tượng trả là đối tượng cư trú của Nhà nước đó. Tuy
nhiên, khi đối tượng trả lãi có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hay một
cơ sở cố định liên quan đến các khoản nợ đã phát sinh các khoản lãi này, và khoản
tiền lãi đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì dù đối tượng đó
có là đối tượng cư trú của một Nước ký kết hay không, khoản tiền lãi này sẽ vẫn
được coi là phát sinh ở Nước nơi cơ sở thường trú hay cơ sở cố định đó đóng.
7. Trường hợp do mối quan hệ đặc biệt giữa đối tượng
trả lãi và đối tượng hưởng lãi hoặc giữa cả hai đối tượng trên và các đối tượng
khác, khoản lãi từ tiền cho vay, liên quan đến khoản cho vay có số tiền lãi được
trả vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng đi vay và đối tượng thực
hưởng khi không có mối quan hệ này, thì khi đó, các quy định của Điều này sẽ chỉ
áp dụng đối với các khoản tiền thanh toán khi không có mối quan đặc biệt trên.
Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo luật của từng
Nước ký kết có xem xét tới các quy định khác của Hiệp định này.
ĐIỀU 12. TIỀN BẢN QUYỀN
1. Tiền bản quyền phát sinh tại một Nước ký kết và
được trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước
kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền bản quyền đó cũng có
thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh, và theo các luật của Nước
đó, nhưng nếu đối tượng thực hưởng tiền bản quyền là đối tượng cư trú của Nước
ký kết kia thì mức thuế được tính khi đó sẽ không vượt quá 10 phần trăm tổng số
tiền bản quyền.
3. Thuật ngữ “tiền bản quyền” được sử dụng trong Điều
này có nghĩa là các khoản thanh toán ở bất kỳ dạng nào được trả cho việc sử dụng,
hoặc quyền sử dụng, bản quyền tác giả của một tác phẩm văn học, nghệ thuật hay
khoa học, kể cả phim điện ảnh hoặc các loại phim hay các loại băng dùng trong
phát thanh và truyền hình, phần mềm máy tính,bằng sáng chế, nhãn hiệu thương mại,
thiết kế hoặc mẫu, đồ án, công thức hoặc qui trình bí mật, hay trả cho việc sử
dụng, hay quyền sử dụng thiết bị công nghiệp, thương mại hoặc khoa học, hay trả
cho thông tin liên quan đến các kinh nghiệm công nghiệp hoặc khoa học.
4. Những quy định tại khoản 1 và 2 sẽ không áp dụng
nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền bản quyền, là đối tượng cư trú của một
Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh ở Nước ký kết kia nơi có khoản tiền
bản quyền phát sinh, thông qua một cơ sở thường trú nằm tại Nước kia hoặc tiến
hành tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố
định tại Nước kia, và quyền hay tài sản có các khoản tiền bản quyền được trả có
sự liên hệ thực tế với a) cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó, hoặc với b)
các hoạt động kinh doanh nêu tại điểm c) khoản 1 Điều 7. Trong trường hợp này
có quy định của Điều 7 hoặc Điều 14, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Tiền bản quyền sẽ được coi là phát sinh tại một
Nước ký kết khi đối tượng trả tiền bản quyền là đối tượng cư trú của Nước đó.
Tuy nhiên, khi một đối tượng trả tiền bản quyền, là hay không là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết, có tại một Nước ký kết một cơ sở thường trú hay một cơ
sở cố định liên quan đến trách nhiệm trả tiền bản quyền đã phát sinh và tiền bản
quyền đó do cơ sở thường trú hay cơ sở cố định đó chịu thì khoản tiền bản quyền
này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước nơi có cơ sở thường trú và cơ sở cố định
đó đóng.
6. Trường hợp vì mối quan hệ đặc biệt giữa đối tượng
trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên với các đối tượng
khác, khoản tiền bản quyền, liên quan tới việc sử dụng, quyền hay thông
tin có số tiền bản quyền được trả, đối với việc sử dụng, quyền hoặc thông tin,
vì bất kỳ lí do gì, vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng trả tiền
và đối tượng thực hưởng khi không có mối quan hệ đặc biệt này, thì các quy định
của Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với khoản tiền thanh toán khi không có mối quan
hệ trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo các luật
của từng Nước ký kết có xem xét đến các quy định khác của Hiệp định này.
ĐIỀU 13. LỢI TỨC TỪ CHUYỂN NHƯỢNG
TÀI SẢN
1. Lợi tức do một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết thu được từ việc chuyển nhượng bất động sản được nêu tại khoản 2 Điều 6 và bất
động sản đó nằm tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Lợi tức do một đối tượng của một Nước ký kết thu
được từ việc chuyển nhượng cổ phần hay các quyền lợi công ty khác trong một
công ty mà trên một nữa tài sản của công ty đó bao gồm cả tài sản cố định nằm tại
Nước ký kết có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
3. Lợi tức từ việc chuyển nhượng động sản là một phần
của tài sản kinh doanh của một cơ sở thường trú mà một xí nghiệp của một Nước
ký kết có tại Nước ký kết kia hoặc động sản thuộc một cơ sở cố định của một đối
tượng cư trú của một Nước ký kết có ở Nước ký kết kia để tiến hành hoạt động dịch
vụ cá nhân độc lập kể cả lợi tức từ việc chuyển nhượng cơ sở thường trú đó
(riêng cơ sở thường trú đó hoặc cùng cơ sở cố định đó có thể bị đánh thuế tại
Nước kia.
4. Lợi tức do một đối tượng của một Nước ký kết thu
được từ việc chuyển nhượng các tàu thủy hoặc máy bay hoạt động trong vận tải quốc
tế hay từ chuyển nhượng động sản gắn liền với hoạt động của các tàu thủy hoặc
máy bay đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
5. Lợi tức do một đối tượng của Nước ký kết thu được
từ việc chuyển nhượng cổ phần hay các quyền lợi công ty khác, trừ cổ phần hoặc
các quyền lợi công ty được đề cập tại khoản 2, trong một công ty là một đối tượng
cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia khi cổ phần hoặc
các quyền lợi công ty đó được chuyển nhượng chiếm ít nhất 15 phần trăm vốn của
công ty.
6. Lợi nhuận từ việc chuyển nhượng bất kỳ tài sản
nào khác với những tài sản nào khác với những tài sản đã được nêu tại các khoản
trên của Điều này sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi đối tượng chuyển nhượng
là đối tượng cư trú.
ĐIỀU 14. HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ CÁ
NHÂN ĐỘC LẬP
1. Thu nhập do một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết thu được từ các hoạt động dịch vụ ngành nghề hay các hoạt động khác có tính
chất độc lập sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó trừ khi đối tượng đó thường xuyên
có một cơ sở cố định ở Nước ký kết kia để tiến hành hoạt động của mình hoặc đối
tượng đó có mặt tại Nước ký kết kia trong một khoảng thời gian hay nhiều khoản
thời gian gộp lại vượt quá 183 ngày trong bất kỳ giai đoạn 12 tháng nào bắt đầu
hoặc kết thúc trong năm dương lịch liên quan. Nếu:
a. đối tượng đó có một cơ sở cố định như vậy thì
thu nhập có thể bị đánh thuế tại Nước kia nhưng chỉ phần thu nhập phần bổ cho
cơ sở cố định đó;
b. đối tượng đó có mặt tại Nước ký kết kia như vậy
thì thu nhập có thể bị đánh thuế tại Nước kia nhưng chỉ đối với phần thu nhập
thu được từ các hoạt động mà đối tượng đó thực hiện tại Nước ký kết kia trong
khoảng thời gian hay nhiều khoảng thời gian đó;
2. Thuật ngữ “dịch vụ ngành nghề” bao gồm chủ yếu
những hoạt động khoa học, văn học, nghệ thuật, giáo dục hay giảng dạy mang tính
chất độc lập như các hoạt động độc lập của các thầy thuốc, bác sĩ, luật sư, kỹ
sư, kiến trúc sư, nha sĩ và kế toán viên.
ĐIỀU 15. HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ CÁ
NHÂN PHỤ THUỘC
1. Thể theo các quy định tại Điều 16, 18, 19 và 20
các khoản tiền lương, tiền công, và các khoản tiền thù lao tương tự khác do một
đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm công sẽ chỉ bị
đánh thuế tại Nước đó, trừ khi công việc của đối tượng đó được thực hiện tại Nước
ký kết kia. Nếu công việc làm công được thực hiện như vậy, số tiền công trả cho
lao động đó có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Mặc dù có những quy định tại khoản 1, tiền công
do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm công tại
Nước ký kết kia sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước thứ nhất nếu:
a. người nhận tiền công có mặt tại Nước kia trong một
khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời gian gộp lại không quá 183 ngày trong bất
kỳ giai đoạn 12 tháng nào bắt đầu hoặc kết thúc trong năm dương lịch liên quan,
và
b. chủ lao động hay đối tương đại diện lao động trả
tiền công lao động không phải là đối tượng cư trú tại Nước kia, và
c. số tiền công không phải do một cơ sở thường trú
hoặc cơ sở cố định mà đối tượng chủ lao động có tại Nước kia chịu.
3. Mặc dù có những quy định trên của Điều này, tiền
công từ lao động làm trên tàu thủy hoặc máy bay do một xí nghiệp của một Nước
ký kết điều hành trong vận tải quốc tế chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
ĐIỀU 16. THÙ LAO CHO GIÁM ĐỐC
Các khoản thù lao cho giám đốc và các khoản thanh
toán tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết nhận được với tư
cách là thành viên của ban giám đốc hay của bất kỳ một tổ chức tương tự khác của
một công ty là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế ở Nước
kia.
ĐIỀU 17. NGHỆ SĨ VÀ VẬN ĐỘNG
VIÊN
1. Mặc dù có những quy định tại Điều 14 và 15, thu
nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được với tư cách như người
biểu diễn như diễn viên sân khấu, điện ảnh, phát thanh hay truyền hình, hoặc nhạc
công, hoặc với tư cách là vận động viên từ những hoạt động cá nhân của mình thực
hiện tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế ở Nước kia.
2. Trường hợp thu nhập liên quan đến hoạt động
trình diễn cá nhân của người biểu diễn hoặc vận động viên nhưng không được trả
cho bản thân người biểu diễn hoặc vận động viên, mà trả cho một đối tượng khác
thì thu nhập này có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi diễn ra những hoạt động
trình diễn của người biểu diễn hoặc vận động viên, mặc dù đã có những quy định
tại điều 7, 14 và 15.
3. Những quy định tại khoản 1 và 2 sẽ không áp dụng
đối với thu nhập do một nghệ sĩ hay một vận động viên thu được từ các hoạt động
trình diễn trình diễn tại một Nước ký kết nếu chuyến viếng thăm tại Nước đó được
tài trợ toàn bộ hoặc hầu như toàn bộ bởi quỹ công của Nước ký kết kia hoặc của
một cơ quan chính quyền địa phương của Nước kia. Trong trường hợp như vậy, thu
nhập đó sẽ bị đánh thuế, tùy từng trường hợp, theo những quy định tại Điều 7,
14 hoặc 15.
ĐIỀU 18. TIỀN LƯƠNG HƯU, NIÊN
KIM NHÂN THỌ VÀ CÁC KHOẢN THANH TOÁN TƯƠNG TỰ
1. Thể theo các quy định tại khoản 2 Điều 19, tiền
lương hưu và các khoản tiền công tương tự khác được trả cho một đối tượng cư
trú của một Nước ký kết do các công việc đã làm trước đây sẽ chỉ bị đánh thuế tại
Nước đó.
2. Mặc dù đã có những quy định tại khoản 1, và có
thể theo những quy định tại khoản 2 Điều 19, tiền lương hưu và các khoản phúc lợi
khác cho dù được trả theo định kỳ hay trọn gói theo luật bảo hiểm xã hội của một
Nước ký kết hay theo chính sách do một Nước ký kết lập ra vì mục đích phúc lợi
xã hội, hoặc bất kỳ khoản niên kim nhân thọ phát sinh tại một Nước ký kết có thể
bị đánh thuế tại Nước đó.
3. Thuật ngữ “niên kim nhân thọ” được sử dụng trong
Điều này nghĩa là khoản tiền nhất định được trả định kỳ cho một cá nhân vào những
thời điểm nhất định trong cuộc đời hoặc tại một thời điểm cụ thể hoặc trong khoảng
thời gian được cam kết thể theo nghĩa vụ đóng góp để nhận lại được toàn bộ hay
tương ứng số tiền hay giá trị bằng tiền (trừ các hoạt động dịch vụ đã thực hiện).
ĐIỀU 19. PHỤC VỤ CHÍNH PHỦ
1.a. Tiền lương, tiền công và các khoản thù lao khác,
trừ tiền lương hưu, do một Nước ký kết hoặc một tổ chức Nhà nước hay cơ quan
chính quyền địa phương của Nước đó trả cho một cá nhân đối với việc phục vụ cho
Nhà nước hoặc tổ chức hoặc cơ quan chính quyền địa phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế
ở Nước đó.
b. Tuy nhiên, khoản tiền lương, tiền công và các
khoản thù lao này sẽ chỉ bị đánh thuế Nước ký kết kia nếu việc phục vụ này được
thực hiện tại Nước kia và nếu cá nhân này là đối tượng cư trú của Nước kia, đồng
thời: (i) là đối tượng mang quốc tịch của Nước kia; hoặc (ii) không trở thành đối
tượng cư trú của Nước kia chỉ đơn thuần vì thực hiện những công việc trên.
2.a. Bất kỳ khoản tiền lương hưu nào do một Nước ký
kết, hoặc một tổ chức do Nhà nước lập ra hoặc một cơ quan chính quyền địa
phương của Nước đó hoặc do các quỹ của những cơ quan này lập ra trả cho một cá
nhân đối với các công việc phục vụ cho Nhà nước hoặc tổ chức hoặc cơ quan chính
quyền địa phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế ở Nước đó.
b. Tuy nhiên, những khoản tiền lương hưu này sẽ chỉ
bị đánh thuế tại Nước ký kết kia nếu cá nhân này là đối tượng cư trú và là đối
tượng mang quốc tịch của Nước ký kết kia.
3. Các quy định của Điều 15, 16, 17 và 18 sẽ áp dụng
đối với các khoản tiền lương, tiền công và các khoản thù lao khác và tiền lương
hưu đối với các công việc liên quan đến một hoạt động kinh doanh được thực hiện
bởi một Nước ký kết hoặc một tổ chức nhà nước hoặc một cơ quan chính quyền địa
phương của Nước đó.
ĐIỀU 20. SINH VIÊN, THỰC TẬP
SINH VÀ HỌC SINH HỌC NGHỀ
1. Những khoản tiền mà một sinh viên hay thực tập
sinh hay học sinh học nghề kinh doanh, kỹ thuật, nông nghiệp hay lâm nghiệp nhận
được để trang trải các chi phí sinh hoạt, học tập hay đào tạo mà người sinh
viên hay thực tập sinh này ngay trước khi đến một Nước ký kết đang hoặc đã là
người cư trú của Nước ký kết kia và hiện có mặt tại Nước thứ nhất chỉ với mục
đích học tập hay đào tạo, sẽ không bị đánh thuế tại Nước thứ nhất, với điều kiện
những khoản tiền đó có nguồn gốc từ bên ngoài Nước này.
2. Một sinh viên theo học đại học và cao đẳng tại một
trường đại học hay học viện khác tại một Nước ký kết, hoặc một thực tập sinh
hay học sinh học nghề kinh doanh, kỹ thuật, nông nghiệp hay lâm nghiệp ngay trước
khi đến Nước ký kết kia đang và đã là đối tượng cư trú của Nước thứ nhất và hiện
có mặt tại Nước ký kết kia trong khoảng thời gian liên tục không vượt quá 183
ngày, sẽ không bị đánh thuế tại Nước kia đối với tiền thù lao từ hoạt động phục
vụ được thực hiện tại Nước đó, với điều kiện những hoạt động phục vụ này có
liên quan đến hoạt động học tập hay đào tạo của đối tượng đó và tiền thù lao
này tạo thành thu nhập cần thiết cho sinh hoạt của đối tượng đó.
ĐIỀU 21. THU NHẬP KHÁC
1. Những khoản thu nhập của một đối tượng cư trú của
một Nước ký kết chưa được đề cập đến tại những Điều trên của Hiệp định này sẽ
chỉ bị đánh thuế tại Nước đó. Tuy nhiên, những khoản thu nhập đó phát sinh tại
Nước ký kết kia có thể cũng bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Những quy định tại khoản 1 sẽ không áp dụng đối
với thu nhập, trừ thu nhập từ bất động sản được định nghĩa tại khoản 2 Điều 6,
nếu đối tượng nhận thu nhập đó là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, tiến
hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua thông qua một cơ sở thường
trú nằm tại Nước kia hay thực hiện tại Nước kia những hoạt động dịch vụ cá nhân
độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia, và quyền hay tài sản liên
quan đến số thu nhập được chi trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú
hay cơ sở cố định đó. Trong trường hợp như vậy, những quy định tại Điều 7 hoặc
Điều 14, tùy trường hợp, sẽ được áp dụng.
ĐIỀU 22. XÓA BỎ VIỆC ĐÁNH THUẾ
HAI LẦN
1. Tại Việt Nam việc đánh thuế hai lần sẽ được xóa
bỏ như sau:
Khi một đối tượng cư trú của Việt Nam có thu nhập,
lợi tức hay lợi nhuận mà theo luật của Phần Lan và phù hợp với các quy định của
Hiệp định này có thể bị đánh thuế tại Phần Lan, Việt Nam sẽ cho phép đối tượng
đó được khấu trừ vào thuế thu trên thu nhập, lợi tức hay lợi nhuận đó một khoản
tiền tương đương với số thuế đã nộp tại Phần Lan. Tuy nhiên, số thuế được khấu
trừ như vậy sẽ không vượt quá số thuế Việt Nam tính trên thu nhập, lợi tức hay
lợi nhuận đó được tính trước khi cho phép trừ vào luật và quy định về thuế của
Việt Nam.
2. Theo những quy định của luật Phần Lan đối với việc
xóa bỏ việc đánh thuế hai lần quốc tế (mà không ảnh hưởng đến các nguyên tắc
chung của Điều này), việc tránh đánh thuế hai lần được xóa bỏ như sau:
a. Khi một đối tượng cư trú của Phần Lan có thu nhập,
phù hợp với các quy định của Hiệp định này, có thể bị đánh thuế tại Việt Nam,
Phần Lan sẽ, thể theo các quy định tại điểm b), cho phép trừ vào thuế Phần Lan
của đối tượng đó một khoản tiền tương đương với số thuế đã nộp tại Việt Nam
theo luật Việt Nam và phù hợp với Hiệp định này, được tính trên cùng một loại
thuế có tham chiếu đến thuế Phần Lan tính trên thu nhập đó.
b. Tiền lãi cổ phần do một công ty là đối tượng cư
trú của Việt Nam trả cho một công ty là đối tượng cư trú của Phần Lan mà đối tượng
đó kiểm soát trực tiếp ít nhất 10 phần trăm quyền bỏ phiếu tại công ty trả tiền
lãi cổ phần sẽ được miễn thuế Phần Lan.
c. Tuy nhiên, theo bất kỳ quy định của Hiệp định,
trường hợp một đối tượng cư trú của Phần Lan có thu nhập được miễn thuế tại Phần
Lan, khi tính thuế trên thu nhập còn lại của đối tượng đó, Phần Lan có thể tính
đến phần thu nhập đã được miễn thuế.
d. Theo điểm a), thuật ngữ “thuế Việt Nam đã nộp”
được coi là bao gồm bất kỳ khoản thuế Việt Nam nào lẽ ra phải nộp cho bất kỳ
năm nào, phù hợp với những quy định của Hiệp định, nhưng do được miễn hay giảm
thuế cho năm đó hoặc bất kỳ giai đoạn nào trong năm theo: (i) các Điều 38, 39,
43, 44 và 48 của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 (được sửa đổi
trong từng thời kỳ mà không ảnh hưởng đến nguyên tắc chung của các Điều này),
hoặc (ii) bất kỳ quy định nào khác có thể được ban hành sau ngày ký Hiệp định
này cho miễn hoặc giảm thuế đã được chấp nhận giữa các nhà chức trách có thẩm
quyền của các Nước ký kết về cơ bản có tính chất tương tự (được sửa đổi trong từng
thời kỳ mà không ảnh hưởng đến nguyên tắc chung của quy định đó).
e. Theo điểm a), thuật ngữ “thuế Việt Nam đã nộp”
trong trường hợp lãi từ trên cho vay tại Điều 11 và không được miễn thuế tại Việt
Nam theo các quy định tại khoản 3 của Điều đó (là lãi từ tiền cho vay trả cho một
công ty là đối tượng cư trú của Phần Lan, trừ ngân hàng, tổ chức tài chính, hay
bất kỳ công ty nào có liên quan đến giao dịch tài chính) hoặc trong trường hợp
tiền bản quyền tại Điều 12, có nghĩa là một khoản tương đương với 10 phần trăm
tổng số lãi từ tiền cho vay hoặc tiền bản quyền. Tuy nhiên, khi mức thuế chung
theo luật Việt Nam áp dụng đối với khoản thanh toán lãi từ tiền cho vay hay tiền
bản quyền do các đối tượng không phải là đối tượng cư trú của Việt Nam nhận được
thấp hơn 5 phần trăm tổng số khoản thanh toán đó hoặc khoản thanh toán như vậy
không bị đánh thuế thì khoản thuế Việt Nam được đề cập tại câu trên sẽ là mức
tương đương với 7 phần trăm tổng số thanh toán đó.
f. Các quy định tại điểm b) sẽ chỉ áp dụng khi số
thuế lẽ ra đã nộp nhưng do những quy định cho miễn hoặc giảm thuế liên quan đến
lợi tức không phải là lợi tức từ các hoạt động ngân hàng hay các hoạt động tài
chính khác và khi các khoản lợi tức được đề cập tại điểm này bao gồm cả lãi từ
trên cho vay và lợi tức từ chuyển nhượng cổ phiếu hay trái phiếu hoặc bao gồm
các khoản lợi tức thu được từ nước thứ ba không vượt quá 25 phần trăm.
g. Các quy định tại điểm d) và e) sẽ không áp dụng
trong 10 năm đầu kể từ khi Hiệp định có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, các nhà
chức trách thẩm quyền của hai Nước ký kết có thể tham khảo ý kiến của nhau để
xác định việc gia hạn thời gian đó.
ĐIỀU 23. KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ
1. Những đối tượng mang quốc tịch của một Nước ký kết
sẽ không phải chịu tại Nước ký kết kia bất kỳ hình thức thuế nào hay bất kỳ yêu
cầu nào liên quan đến hình thức thuế đó khác với hay nặng hơn hình thức thuế và
các yêu cầu liên quan hiện đang và có thể áp dụng cho các đối tượng mang quốc tịch
của Nước kia trong cùng những hoàn cảnh như nhau, đặc biệt là trong trường hợp
cư trú.
2. Thuế áp dụng đối với cơ sở thường trú của một xí
nghiệp của một Nước ký kết đặt tại Nước ký kết kia sẽ không kém thuận lợi hơn
thuế áp dụng đối với các xí nghiệp của Nước kia cùng thực hiện những hoạt động
tương tự. Khi thông tin được cung cấp cho cơ quan thuế liên quan tại một Nước
ký kết không đủ để xác định các khoản lợi tức phân bổ cho cơ sở thường trú của
một xí nghiệp của Nước ký kết kia đặt tại Nước thứ nhất hoặc khi thông tin để
xác định các khoản lợi tức này không được cung cấp cho cơ quan thuế đó thì cơ
quan thuế đó có thể thực hiện việc tài định hoặc ước tính các khoản lợi tức này
tại Nước ký kết nơi có cơ sở thường trú đó, phù hợp với các luật thuế và thông
lệ quản lý hành chính của Nước này, với điều kiện việc thực hiện định hoặc ước
tính đó phải có được kết quả phù hợp với các nguyên tắc tại Điều 7.
3. Trừ khi những quy định tại Điều 9 được áp dụng,
các khoản thanh toán (trừ lãi từ trên cho vay được đề cập tại Điều 11 hay tiền
bản quyền được đề cập tại Điều 12) do một xí nghiệp của một Nước ký kết trả cho
một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia sẽ được phép trừ vào chi phí để xác định
lợi tức chịu thuế của xí nghiệp đó theo cùng các điều kiện như là được thanh
toán cho một đối tượng cư trú của Nước thứ nhất.
4. Các xí nghiệp của một Nước ký kết có toàn bộ hay
một phần vốn do một hay nhiều đối tượng cư trú của Nước ký kết kia kiểm soát
hay sở hữu trực tiếp hay gián tiếp, sẽ không phải chịu tại Nước ký kết thứ nhất
bất kỳ hình thức thuế đó khác với hay nặng hơn hình thức thuế và những yêu cầu
liên quan được áp dụng hay có thể áp dụng cho các xí nghiệp tương tự khác của
Nước thứ nhất.
5. Những quy định tại khoản 2 và 4 sẽ không áp dụng
đối với thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của Việt Nam mà trong bất kỳ trường
hợp nào đều không vượt quá 10 phần trăm tổng số lợi nhuận được chuyển, và đối với
thuế của Việt Nam theo Luật Thuế Sử Dụng Đất Nông Nghiệp.
6. Không có nội dung nào tại Điều này được giải
thích là buộc một Nước ký kết phải cho các cá nhân không phải là đối tượng cư
trú tại Nước đó được hưởng bất kỳ miễn thu cá nhân, khoản miễn thuế và giảm thuế
như qui định cho các cá nhân là đối tượng cư trú tại Nước đó.
7. Mặc dù đã có các quy định của Điều này, trong thời
gian Việt Nam tiếp tục cấp giấy phép cho các nhà đầu tư theo Luật Đầu tư Nước
ngoài tại Việt Nam, trong đó quy định chi tiết hình thức thuế áp dụng cho nhà đầu
tư thì việc áp dụng thuế đó sẽ không bị coi là vi phạm các quy định tại khoản 2
và 4.
8. Những quy định tại Điều này sẽ chỉ áp dụng cho
các loại thuế chịu sự điều chỉnh của Hiệp định này.
ĐIỀU 24. THỦ TỤC THỎA THUẬN
SONG PHƯƠNG
1. Trường hợp một đối tượng là đối tượng cư trú của
một Nước ký kết nhận thấy việc giải quyết của một hay cả hai Nước ký kết làm
cho hay sẽ làm cho đối tượng đó phải nộp thuế không đúng theo những quy định của
Hiệp định này, lúc đó đối tượng có thể giải trình trường hợp của mình với nhà
chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết nơi đối tượng đó đang cư trú, mặc dù
trong các luật trong nước của hai Nước ký kết đã quy định những chế độ xử lý
khiếu nại. Trường hợp đó được giải trình trong thời hạn 3 năm kể từ lần thông
báo giải quyết đầu tiên dẫn đến hình thức thuế áp dụng không đúng với những quy
định của Hiệp định.
2. Nhà chức trách có thẩm quyền sẽ cố gắng, nếu như
việc khiếu nại là hợp lý và nếu bản thân nhà chức trách đó không thể đi đến một
giải pháp thỏa đáng, phối hợp với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết
kia để cùng giải quyết trường hợp khiếu nại bằng thỏa thuận chung, nhằm mục
đích tránh đánh thuế không phù hợp với nội dung của Hiệp định này. Mọi thỏa thuận
đạt được sẽ được thực hiện không căn cứ vào những giới hạn ghi trong luật trong
nước của hai Nước ký kết.
3. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
sẽ cố gắng giải quyết bằng thỏa thuận chung mọi khó khăn hay vướng mắc nảy sinh
trong quá trình giải thích hay áp dụng Hiệp định này. Nhà chức trách có thẩm
quyền của hai Nước cũng có thể trao đổi với nhau nhằm xóa bỏ việc đánh thuế hai
lần trong các trường hợp không được quy định tại Hiệp định.
4. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
có thể liên hệ trực tiếp với nhau, bao gồm cả việc thông qua một ủy ban
phối hợp giữa các nhà chức trách có thẩm quyền hay đại diện của họ với mục đích
nhằm đạt được một thỏa thuận theo nội dung những khoản trên đây.
ĐIỀU 25. TRAO ĐỔI THÔNG TIN
1. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
sẽ trao đổi với nhau những thông tin cần thiết cho việc triển khai thực hiện những
quy định của Hiệp định này hay của các luật trong nước của hai Nước ký kết liên
quan đến các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng sao cho việc đánh thuế theo các
luật trong nước sẽ không trái với Hiệp định này, đặc biệt là nhằm ngăn chặn việc
trốn lậu thuế. Việc trao đổi thông tin không bị giới hạn bởi Điều 1. Mọi thông
tin do một Nước ký kết nhận sẽ được giữ bí mật giống như thông tin thu nhận
theo luật trong nước của Nước này và thông tin đó chỉ được cung cấp cho các đối
tượng hay các cơ quan chức trách (bao gồm cả tòa án và các cơ quan hành chính)
có liên quan đến việc tính toán, thu, cưỡng chế hay truy tố hoặc xác định các
khiếu nại về các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng. Các đối tượng hoặc các cơ
quan chức trách này sẽ chỉ sử dụng các thông tin đó vào các mục đích nêu trên.
Các đối tượng hoặc các cơ quan đó có thể cung cấp các thông tin này trong quá
trình tố tụng công khai của tòa án hay trong các quyết định của tòa án.
2. Không có trường hợp nào những quy định tại khoản
1 được giải thích là buộc nhà chức trách có thẩm quyền của một Nước ký kết có
nghĩa vụ:
a. thực hiện các biện pháp hành chính khác với luật
pháp hay thông lệ về quản lý hành chính của Nước ký kết đó hay của Nước ký kết
kia;
b. cung cấp những thông tin không thể tiết lộ được
theo các luật hay theo như quá trình quản lý hành chính thông thường của Nước
ký kết đó hay của Nước ký kết kia;
c. cung cấp những thông tin có thể làm tiết lộ bí mật
về mậu dịch, thương mại, công nghiệp, thương nghiệp hay bí mật nghề nghiệp hoặc
các phương thức kinh doanh, hoặc cung cấp những thông tin mà việc tiết lộ chúng
có thể trái với chính sách nhà nước.
ĐIỀU 26. THÀNH VIÊN CÁC PHÁI
ĐOÀN NGOẠI GIAO VÀ VIÊN CHỨC LÃNH SỰ
Không nội dung nào trong Hiệp định này ảnh hưởng đến
những ưu đãi về thuế dành cho thành viên các phái đoàn ngoại giao hoặc viên chức
lãnh sự theo những nguyên tắc chung của pháp luật quốc tế hay những quy định
trong các hiệp định đặc biệt.
ĐIỀU 27. HIỆU LỰC
1. Chính phủ của hai Nước ký kết sẽ thông báo cho
nhau những thủ tục cần tuân thủ theo hiến pháp để Hiệp định này có hiệu lực.
2. Hiệp định này sẽ có hiệu lực sau 30 ngày kể từ
ngày thông báo sau cùng như đã nêu tại khoản 1 và các quy định của Hiệp định sẽ
được thi hành:
a. đối với các khoản thuế khấu trừ tại nguồn, thu
trên thu nhập phát sinh vào ngày hoặc sau ngày 1 tháng 1 của năm dương lịch tiếp
theo năm Hiệp định có hiệu lực.
b. đối với các loại thuế khác thu trên thu nhập, là
các loại thuế được tính cho bất kỳ năm thuế nào bắt đầu vào ngày hoặc sau ngày
1 tháng 1 năm dương lịch tiếp theo năm Hiệp định có hiệu lực.
ĐIỀU 28. KẾT THÚC
Hiệp định này vẫn sẽ còn hiệu lực cho tới khi một
Nước ký kết tuyên bố kết thúc. Từng Nước ký kết thông qua đường ngoại giao có
thể kết thúc Hiệp định bằng cách gửi thông báo kết thúc Hiệp định ít nhất 6
tháng trước khi kết thúc bất kỳ năm dương lịch nào tiếp sau thời hạn 5 năm kể từ
ngày Hiệp định có hiệu lực. Trong trường hợp như vậy, Hiệp định sẽ hết hiệu lực
thi hành:
a. đối với các khoản thuế khấu trừ tại nguồn, thu
trên thu nhập phát sinh vào ngày hoặc sau ngày 1 tháng 1 của năm dương lịch tiếp
theo năm gửi thông báo kết thúc;
b. đối với các loại thuế khác thu trên thu nhập, là
các loại thuế được tính cho bất kỳ năm thuế nào bắt đầu vào ngày hoặc sau ngày
1 tháng 1 năm dương lịch tiếp theo năm gửi thông báo kết thúc.
ĐỂ LÀM BẰNG những người được ủy quyền dưới đây của
từng Chính phủ đã ký vào Hiệp định này.
HIỆP ĐỊNH LÀM thành hai bản tại Hen-sin-ki từ ngày
ngày 21 tháng 11 năm 2001 mỗi bản gồm tiếng Việt, tiếng Phần Lan và tiếng Anh,
tất cả các văn bản đều có giá trị như nhau. Trường hợp có sự giải thích khác
nhau, văn bản tiếng Anh sẽ có giá trị quyết định./.
THAY MẶT CHÍNH
PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
(Đã ký)
|
THAY MẶT CHÍNH
PHỦ
NƯỚC CỘNG HÒA PHẦN LAN
(Đã ký)
|
Hiệp định này có hiệu lực kể từ ngày 26/12/2002.