BỘ
NGOẠI GIAO
*******
|
|
Số:
07/2004/LPQT
|
Hà
Nội, ngày 05 tháng 02 năm 2004
|
Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Cu Ba về tránh đánh
thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu
nhập có hiệu lực từ ngày 26 tháng 6 năm 2003./.
|
TL.
BỘ TRƯỞNG BỘ NGOẠI GIAO
KT. VỤ TRƯỞNG VỤ LUẬT PHÁP VÀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
PHÓ VỤ TRƯỞNG
Nguyễn Hoàng Anh
|
HIỆP ĐỊNH
GIỮA CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ
CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA CU BA VỀ TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN VÀ NGĂN NGỪA VIỆC TRỐN
LẬU THUẾ ĐỐI VỚI CÁC LOẠI THUẾ ĐÁNH VÀO THU NHẬP
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Cu Ba,
Mong muốn ký kết một Hiệp định về
việc tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa trốn lậu thuế đối với các loại thuế
đánh vào thu nhập,
Đã thỏa thuận như sau:
Điều 1. Phạm
vi áp dụng
Hiệp định này áp dụng cho các đối
tượng là những đối tượng cư trú của một hoặc cả hai Nước ký kết.
Điều 2. Các
loại thuế bao gồm trong hiệp định
1. Hiệp định này áp dụng đối với
các loại thuế do một Nước ký kết hoặc chính quyền địa phương hoặc chính quyền
cơ sở của Nước đó, đánh vào thu nhập, bất kể hình thức áp dụng của các loại
thuế đó như thế nào.
2. Tất cả các loại thuế thu trên
tổng thu nhập, hoặc những phần của thu nhập bao gồm các khoản thuế đối với lợi
nhuận từ việc chuyển nhượng động sản hoặc bất động sản, các loại thuế đánh trên
tổng số tiền lương hoặc tiền công do doanh nghiệp chi trả cũng như các loại
thuế đánh vào phần giá trị tăng thêm của tài sản đều được coi là thuế đánh vào
thu nhập.
3. Những loại thuế hiện hành được
áp dụng trong Hiệp định này là:
a) tại Việt Nam:
(i) thuế thu nhập cá nhân;
(ii) thuế thu nhập doanh nghiệp; và
(iii) thuế chuyển thu nhập ra nước
ngoài;
(dưới đây được gọi là “thuế Việt Nam”);
b) tại Cu Ba:
(i) thuế lợi tức; và
(ii) thuế thu nhập cá nhân;
(dưới đây được gọi là “thuế Cu Ba”).
4. Hiệp định này cũng sẽ được áp
dụng cho các loại thuế có tính chất tương tự hay về căn bản giống như các loại
thuế trên ban hành sau ngày ký Hiệp định này để bổ sung, hoặc thay thế các loại
thuế hiện hành. Các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ thông
báo cho nhau biết những thay đổi quan trọng trong các luật thuế của từng Nước.
Điều 3. Các
định nghĩa chung
1.Theo nội dung của Hiệp định này,
trừ trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác:
a) từ “Việt Nam” có nghĩa là nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; khi dùng theo nghĩa địa lý, từ đó bao gồm
toàn bộ lãnh thổ quốc gia Việt Nam, kể cả lãnh hải Việt Nam, và mọi vùng ở
ngoài và tiếp liền với lãnh hải Việt Nam mà theo luật pháp Việt Nam và phù hợp
với luật pháp quốc tế, Việt Nam có quyền chủ quyền đối với việc thăm dò và khai
thác tài nguyên thiên nhiên của đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và khối nước ở
trên;
b) từ “Cu Ba” có nghĩa là nước Cộng
hòa Cu Ba, bao gồm lãnh thổ hợp nhất bởi đảo Cu Ba, đảo Juventud và các đảo và
cù lao khác và vùng nội thuỷ, lãnh hải và các vùng ở ngoài lãnh hải Cu Ba, mà
theo luật pháp của Cu Ba và phù hợp với luật pháp quốc tế, cho phép mở rộng chủ
quyền hay quyền chủ quyền và quyền tài phán nhằm mục đích thăm dò và khai thác
tài nguyên thiên nhiên, sinh học và khoáng sản của khối nước ở trên đáy biển và
của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển;
c) thuật ngữ “Nước ký kết” và “Nước
ký kết kia” có nghĩa là Việt Nam hoặc Cu Ba tuỳ theo ngữ cảnh đòi hỏi;
d) thuật ngữ “đối tượng” bao gồm cá
nhân, công ty hay bất kỳ tổ chức nhiều đối tượng nào khác;
e) thuật ngữ “công ty” có nghĩa là
bất kỳ tổ chức công ty hoặc bất kỳ một thực thể nào được coi là tổ chức công ty
dưới giác độ thuế;
f) thuật ngữ “doanh nghiệp của một
Nước ký kết” và “doanh nghiệp của Nước ký kết kia” theo thứ tự có nghĩa là một
doanh nghiệp được điều hành bởi một đối tượng cư trú của một Nước ký kết và một
doanh nghiệp được điều hành bởi một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia;
g) thuật ngữ “đối tượng mang quốc
tịch” có nghĩa:
(i) trong trường hợp của Việt Nam,
bất kỳ cá nhân nào mang quốc tịch Việt Nam và bất kỳ pháp nhân, tổ chức hùn vốn
và hiệp hội nào có tư cách được chấp nhận theo các luật có hiệu lực tại Việt
Nam;
(ii) trong trường hợp của Cu Ba,
bất kỳ cá nhân nào là công dân của Cu Ba theo luật của Cu Ba và cư trú thường
xuyên tại Cu Ba và bất kỳ pháp nhân, tổ chức hùn vốn và hiệp hội nào có tư cách
được chấp nhận theo các luật có hiệu lực tại Cu Ba;
h) thuật ngữ “vận tải quốc tế” có
nghĩa là bất cứ sự vận chuyển nào bằng tầu thuỷ hoặc máy bay được thực hiện bởi
một doanh nghiệp của một Nước ký kết, trừ khi chiếc tầu thuỷ hoặc máy bay đó
chỉ hoạt động giữa những địa điểm trong Nước ký kết kia; và
i) thuật ngữ “nhà chức trách có
thẩm quyền” có nghĩa:
(i) trong trường hợp của Việt Nam là Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc đại diện được uỷ quyền của Bộ trưởng; và
(ii) trong trường hợp của Cu Ba là
Bộ trưởng Bộ Tài chính và Vật giá hoặc đại diện được uỷ quyền của Bộ trưởng.
2. Trong khi một Nước ký kết áp
dụng Hiệp định này, bất kỳ thuật ngữ nào chưa được định nghĩa trong Hiệp định
sẽ có nghĩa được ghi trong luật của Nước đó liên quan đến các loại thuế mà Hiệp
định này áp dụng, trừ trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác.
Điều 4. Đối
tượng cư trú
1. Theo nội dung của Hiệp định này,
thuật ngữ “đối tượng cư trú của một Nước ký kết” có nghĩa là bất cứ đối tượng
nào, mà theo các luật của Nước đó, là đối tượng chịu thuế căn cứ vào nhà ở, nơi
cư trú, trụ sở điều hành, nơi đăng ký hoặc các tiêu chuẩn khác có tính chất
tương tự. Nhưng thuật ngữ này không bao gồm bất kỳ đối tượng nào phải chịu thuế
tại Nước đó chỉ đối với thu nhập từ các nguồn tại Nước đó.
2. Trường hợp theo những quy định
tại khoản 1, khi một cá nhân là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết, thì
thân phận cư trú của cá nhân đó sẽ được xác định như sau:
a) cá nhân đó sẽ được coi là đối
tượng cư trú của Nước nơi cá nhân đó có nhà ở thường trú; nếu cá nhân đó có nhà
ở thường trú tại cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú của
Nước mà cá nhân đó có các quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ hơn (trung tâm
của các quyền lợi chủ yếu);
b) nếu như không thể xác định được
Nước ký kết nơi cá nhân đó có trung tâm các quyền lợi chủ yếu, hoặc nếu cá nhân
đó không có nhà ở thường trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng
cư trú của Nước mà cá nhân đó thường sống;
c) nếu cá nhân đó thường sống ở cả
hai Nước hay không sống thường xuyên ở Nước nào, cá nhân đó sẽ được coi là đối
tượng cư trú của Nước mà cá nhân đó mang quốc tịch;
d) nếu thân phận cư trú của cá nhân
không được xác định thông qua các tiêu thức nêu trên, nhà chức trách có thẩm
quyền của hai Nước ký kết sẽ giải quyết vấn đề này bằng thoả thuận chung.
3. Trường hợp do những quy định tại
khoản 1, khi một đối tượng không phải là cá nhân, là đối tượng cư trú của cả
hai Nước ký kết thì nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ xác
định đối tượng đó là đối tượng cư trú của một Nước ký kết theo nghĩa của Hiệp
định này bằng thoả thuận chung.
Điều 5. Cơ
sở thường trú
1. Theo nội dung của Hiệp định này,
thuật ngữ “cơ sở thường trú” có nghĩa là một cơ sở kinh doanh cố định mà qua đó
doanh nghiệp thực hiện toàn bộ hay một phần hoạt động kinh doanh của mình.
2. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” chủ
yếu bao gồm:
a) trụ sở điều hành;
b) chi nhánh;
c) văn phòng;
d) nhà máy;
e) xưởng;
f) mỏ, giếng dầu hoặc khí, mỏ đá
hoặc bất kỳ địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên nào khác;
g) nhà kho; và
h) kết cấu lắp đặt hay thiết bị
được sử dụng để thăm dò tài nguyên thiên nhiên.
3. Thuật ngữ “cơ sở thường trú”
cũng bao gồm:
a) địa điểm xây dựng, công trình
xây dựng, dự án lắp ráp hoặc lắp đặt hay các hoạt động giám sát liên quan đến
các công trình, địa điểm trên, nhưng chỉ khi địa điểm, công trình hay các hoạt
động đó kéo dài trong giai đoạn trên sáu tháng;
b) việc cung cấp các dịch vụ, bao gồm
cả dịch vụ tư vấn do một doanh nghiệp của một Nước ký kết thực hiện thông qua
các nhân viên hay đối tượng khác được doanh nghiệp giao thực hiện với điều kiện
các hoạt động nêu trên kéo dài tại một nước (trong cùng một dự án hay một dự án
liên quan) trong một giai đoạn hay nhiều giai đoạn gộp lại hơn sáu tháng trong
thời gian 12 tháng liên tục.
4. Mặc dù có những quy định trên
của Điều này, thuật ngữ “cơ sở thường trú” sẽ được coi là không bao gồm:
a) việc sử dụng các phương tiện
riêng cho mục đích lưu kho hay trưng bày hàng hóa hay tài sản của doanh nghiệp;
b) việc duy trì kho hàng hóa hoặc
tài sản của doanh nghiệp chỉ với mục đích lưu kho hay trưng bày hàng hóa;
c) việc duy trì kho hàng hóa hoặc
tài sản của doanh nghiệp chỉ với mục đích để cho doanh nghiệp khác gia công;
d) việc duy trì một cơ sở kinh
doanh cố định chỉ nhằm mục đích mua hàng hóa hoặc tài sản hay để thu thập thông
tin cho doanh nghiệp; và
e) việc duy trì một cơ sở kinh
doanh cố định chỉ với mục đích tiến hành bất kỳ hoạt động nào khác có tính chất
chuẩn bị hoặc phụ trợ cho doanh nghiệp.
5. Mặc dù có những quy định tại
khoản 1 và 2, trường hợp một đối tượng - trừ đại lý có tư cách độc lập được
điều chỉnh bởi khoản 7 – hoạt động tại một Nước ký kết thay mặt cho một doanh
nghiệp của Nước ký kết kia, doanh nghiệp đó sẽ được coi là có cơ sở thường trú
tại Nước ký kết thứ nhất đối với các hoạt động mà đối tượng trên thực hiện cho
doanh nghiệp, nếu đối tượng đó:
a) có và thường xuyên thực hiện tại
Nước đó thẩm quyền ký kết các hợp đồng đứng tên doanh nghiệp, trừ khi các hoạt
động của đối tượng đó chỉ giới hạn trong phạm vi các hoạt động nêu tại khoản 4
mà những hoạt động đó nếu được thực hiện thông qua một cơ sở kinh doanh cố định
thì sẽ không làm cho cơ sở kinh doanh cố định đó trở thành một cơ sở thường trú
theo những quy định tại khoản đó; hay
b) không có thẩm quyền nêu trên,
nhưng thường xuyên duy trì tại Nước thứ nhất một kho hàng hóa hay tài sản, tại
đó đối tượng này thường xuyên giao hàng hóa hay tài sản thay mặt cho doanh
nghiệp.
6. Mặc dù có những quy định trên
của Điều này, một doanh nghiệp bảo hiểm của một Nước ký kết, trừ trường hợp đối
với tái bảo hiểm, sẽ được coi là có cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia nếu
doanh nghiệp đó thu phí bảo hiểm trên lãnh thổ của Nước kia hay bảo hiểm các rủi
ro tại Nước kia thông qua một đối tượng không phải là một đại lý có tư cách độc
lập được điều chỉnh bởi khoản 7.
7. Một doanh nghiệp sẽ không được
coi là có cơ sở thường trú tại một Nước ký kết nếu doanh nghiệp chỉ thực hiện
kinh doanh tại Nước đó thông qua một đại lý môi giới, một đại lý hoa hồng hoặc
bất kỳ một đại lý nào khác có tư cách độc lập, với điều kiện những đối tượng
này chỉ hoạt động trong khuôn khổ kinh doanh thông thường của họ. Tuy nhiên,
khi các hoạt động của đại lý đó dành toàn bộ hay hầu như toàn bộ cho việc đại
diện cho doanh nghiệp, đại lý đó sẽ không được coi là đại lý có tư cách độc lập
theo nội dung của khoản này.
8. Việc một công ty là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết kiểm soát hoặc chịu sự kiểm soát bởi một công ty là đối
tượng cư trú của Nước ký kết kia hoặc tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước
kia (có thể thông qua một cơ sở thường trú hay dưới hình thức khác) sẽ không
làm cho bất kỳ công ty nào trở thành cơ sở thường trú của công ty kia.
Điều 6. Thu
nhập từ bất động sản
1. Thu nhập mà một đối tượng cư trú
tại một Nước ký kết thu được từ bất động sản (kể cả thu nhập từ nông nghiệp
hoặc lâm nghiệp) nằm tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thuật ngữ “bất động sản” sẽ có
nghĩa theo như luật của Nước ký kết nơi có tài sản. Trong mọi trường hợp sẽ bao
gồm cả các tài sản đi liền với bất động sản, đàn gia súc và thiết bị sử dụng
trong nông nghiệp và lâm nghiệp, các quyền áp dụng theo các quy định tại luật
chung về điền sản, quyền sử dụng bất động sản và các quyền được hưởng các khoản
thanh toán thay đổi hay cố định trả cho việc khai thác hay quyền khai thác các
mỏ, nguồn khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên khác; các tầu thuỷ và máy
bay sẽ không được coi là bất động sản.
3. Những quy định tại khoản 1 sẽ áp
dụng đối với thu nhập thu được từ việc trực tiếp sử dụng, cho thuê hay sử dụng
các loại bất động sản dưới bất kỳ hình thức nào khác.
4. Những quy định tại khoản 1 và 3
cũng sẽ áp dụng đối với thu nhập từ bất động sản của một doanh nghiệp và đối
với thu nhập từ bất động sản được sử dụng để thực hiện các hoạt động dịch vụ cá
nhân độc lập.
Điều 7. Lợi
tức kinh doanh
1. Lợi tức của một doanh nghiệp của
một Nước ký kết sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ trường hợp doanh nghiệp có
tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường
trú tại Nước kia. Nếu doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh theo cách trên thì
các khoản lợi tức của doanh nghiệp có thể bị đánh thuế tại Nước kia, nhưng chỉ
trên phần lợi tức phân bổ cho:
(a) cơ sở thường trú đó;
(b) việc bán tại Nước kia những
hàng hóa hoặc tài sản cùng loại hay tương tự với hàng hóa hoặc tài sản được bán
thông qua cơ sở thường trú đó; hay
(c) các hoạt động kinh doanh khác
được thực hiện tại Nước kia cùng loại hay tương tự với những hoạt động được
thực hiện thông qua cơ sở thường trú đó.
2. Thể theo các quy định tại khoản
3, khi một doanh nghiệp của một Nước ký kết tiến hành hoạt động kinh doanh tại
Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú tại đó thì tại mỗi Nước ký kết
sẽ có những khoản lợi tức được phân bổ cho cơ sở thường trú nói trên mà cơ sở
đó có thể thu được, nếu nó là một doanh nghiệp riêng và tách biệt cùng tham gia
vào các hoạt động như nhau hay tương tự trong cùng những điều kiện như nhau hay
tương tự và có quan hệ hoàn toàn độc lập với doanh nghiệp mà cơ sở đó được coi
là cơ sở thường trú.
3. Trong khi xác định lợi tức của
một cơ sở thường trú, cơ sở này sẽ được phép khấu trừ tất cả các khoản chi phí
phát sinh phục vụ cho hoạt động kinh doanh của cơ sở thường trú đó, bao gồm cả
chi phí điều hành và chi phí quản lý chung phát sinh tại Nước nơi cơ sở thường
trú đó đóng hoặc ở bất kỳ nơi nào khác. Tuy nhiên, sẽ không cho phép tính vào
các khoản chi phí được trừ bất kỳ khoản tiền nào, nếu có, do cơ sở thường trú
trả cho (trừ khi là khoản thanh toán các chi phí thực tế) trụ sở chính của
doanh nghiệp hay bất kỳ văn phòng nào khác của doanh nghiệp dưới hình thức tiền
bản quyền , các khoản lệ phí hay bất kỳ khoản thanh toán nào tương tự để được
phép sử dụng bằng phát minh hay các quyền khác, hay dưới hình thức tiền hoa
hồng trả cho việc thực hiện các dịch vụ riêng biệt hay trả cho công việc quản
lý hay dưới hình thức lãi tính trên tiền cho cơ sở thường trú vay, trừ trường
hợp lãi từ tiền cho vay của doanh nghiệp ngân hàng. Cũng tương tự, trong khi
xác định lợi tức của cơ sở thường trú sẽ không tính đến các khoản tiền (trừ các
khoản tiền thanh toán các chi phí thực tế) do cơ sở thường trú thu từ trụ sở
chính của doanh nghiệp hay bất kỳ văn phòng khác của doanh nghiệp, dưới hình
thức tiền bản quyền, các khoản lệ phí hay các khoản thanh toán tương tự để cho
phép sử dụng bằng phát minh hay các quyền khác, hay dưới hình thức tiền hoa
hồng trả cho việc thực hiện các dịch vụ riêng biệt hay trả cho công việc quản
lý, hay dưới hình thức lãi tính trên tiền cho trụ sở chính của doanh nghiệp hay
bất kỳ văn phòng nào của doanh nghiệp vay, trừ trường hợp lãi từ tiền cho vay
của doanh nghiệp ngân hàng.
4. Không có nội dung nào tại Điều
này sẽ ảnh hưởng đến việc áp dụng luật của một Nước ký kết liên quan đến việc
xác định nghĩa vụ nộp thuế của một đối tượng trong các trường hợp nhà chức
trách có thẩm quyền của Nước đó không có đủ thông tin để xác định lợi tức phân
bổ cho cơ sở thường trú, với điều kiện luật đó được áp dụng phù hợp với các
nguyên tắc nêu tại Điều này trong phạm vi thông tin sẵn có của nhà chức trách
có thẩm quyền cho phép.
5. Trường hợp theo thông lệ tại một
Nước ký kết vẫn thường xác định các khoản lợi tức được phân bổ cho một cơ sở
thường trú trên cơ sở phân chia tổng các khoản lợi tức của doanh nghiệp thành
những phần khác nhau, không có nội dung nào tại khoản 2 ngăn cản Nước ký kết đó
xác định lợi tức để đánh thuế theo cách phân chia theo thông lệ trên; tuy
nhiên, phương pháp phân chia được áp dụng như vậy phải đưa ra kết quả phù hợp
với những nguyên tắc nêu tại Điều này.
6. Không có khoản lợi tức nào sẽ
được phân bổ cho một cơ sở thường trú nếu cơ sở thường trú đó chỉ đơn thuần mua
hàng hóa hoặc tài sản cho doanh nghiệp.
7. Theo nội dung các khoản trên,
các khoản lợi tức được phân bổ cho cơ sở thường trú sẽ được xác định theo cùng
một phương pháp giữa các năm trừ khi có đủ lý do chính đáng để xác định theo
phương pháp khác.
8. Khi lợi tức bao gồm các khoản
thu nhập được đề cập riêng tại các Điều khác của Hiệp định này, thì các quy
định của các Điều đó không bị ảnh hưởng bởi những quy định tại Điều này.
Điều 8. Vận
tải biển và vận tải hàng không
1. Lợi tức do một doanh nghiệp của
một Nước ký kết thu được từ hoạt động của tầu thuỷ hoặc máy bay trong vận tải
quốc tế sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Những quy định tại khoản 1 cũng
sẽ áp dụng đối với lợi tức thu được từ việc tham gia vào một tổ hợp, một liên
doanh hay một hãng hoạt động quốc tế.
Điều 9. Những
doanh nghiệp liên kết
Khi:
a) một doanh nghiệp của một Nước ký
kết tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp
vốn vào một doanh nghiệp của Nước ký kết kia, hoặc
b) các đối tượng cùng tham gia trực
tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn vào một doanh
nghiệp của một Nước ký kết và vào một doanh nghiệp của Nước ký kết kia,
và trong cả hai trường hợp, trong
mối quan hệ tài chính và thương mại giữa hai doanh nghiệp trên có những điều
kiện được đưa ra hoặc áp đặt khác với điều kiện được đưa ra giữa các doanh
nghiệp độc lập, lúc đó mọi khoản lợi tức mà một doanh nghiệp có thể thu được
nếu không có những điều kiện trên nhưng nay vì những điều kiện này mà doanh
nghiệp đó không thu được, sẽ vẫn được một Nước ký kết tính vào các khoản lợi
tức của doanh nghiệp đó và bị đánh thuế tương ứng.
Điều 10. Tiền
lãi cổ phần
1. Tiền lãi cổ phần do một công ty
là đối tượng cư trú của một Nước ký kết trả cho một đối tượng cư trú của Nước
ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền lãi
cổ phần đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi công ty trả tiền lãi cổ
phần là đối tượng cư trú và theo các luật của Nước đó, nhưng nếu đối tượng thực
hưởng tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia thì thuế được
tính khi đó sẽ không vượt quá:
a) năm phần trăm (5%) tổng số tiền
lãi cổ phần nếu đối tượng thực hưởng là một công ty (trừ tổ chức hùn vốn) trực
tiếp sở hữu ít nhất 70 phần trăm vốn của công ty trả tiền lãi cổ phần;
b) mười phần trăm (10%) tổng số
tiền lãi cổ phần nếu đối tượng thực hưởng là một công ty (trừ tổ chức hùn vốn)
trực tiếp sở hữu ít nhất 25 phần trăm vốn của công ty chia lãi cổ phần;
c) mười lăm phần trăm (15%) tổng số
tiền lãi cổ phần trong tất cả các trường hợp khác.
Khoản này sẽ không ảnh hưởng tới
việc đánh thuế công ty đối với lợi tức được dùng để chia tiền lãi cổ phần.
3. Thuật ngữ “tiền lãi cổ phần”
được sử dụng trong Điều này có nghĩa là thu nhập từ cổ phần, cổ phần
“jouissance” hay quyền lợi “jouissance”, cổ phần khai thác mỏ, cổ phần sáng lập
hoặc các quyền lợi khác, không kể các khoản nợ, được hưởng lợi tức, cũng như
thu nhập từ các quyền lợi công ty khác cùng chịu sự điều chỉnh của chính sách
thuế đối với thu nhập từ cổ phần theo luật của Nước nơi công ty chia lãi cổ
phần là đối tượng cư trú. Thuật ngữ này cũng bao gồm cả lợi tức nhận được từ
việc tham gia vào hợp đồng liên kết kinh tế.
4. Những quy định tại khoản 1 và 2
sẽ không áp dụng trong trường hợp đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi cổ
phần là đối tượng cư trú tại một Nước ký kết có tiến hành hoạt động kinh doanh
tại Nước ký kết kia, nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú,
thông qua một cơ sở thường trú nằm tại Nước đó, hay tiến hành tại Nước kia các
hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia, và
quyền nắm giữ cổ phần nhờ đó được hưởng tiền lãi cổ phần, có sự liên hệ thực tế
đến cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định nói trên. Trong trường hợp như vậy các
quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14 của Hiệp định này, tuỳ từng trường hợp, sẽ
được áp dụng.
5. Khi một công ty là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết có lợi tức hay thu nhập phát sinh từ Nước ký kết kia
thì Nước kia có thể không đánh thuế đối với những khoản tiền lãi cổ phần do
công ty này trả, trừ trường hợp những khoản tiền lãi cổ phần này được trả cho
đối tượng cư trú của Nước ký kết kia, hoặc quyền nắm giữ cổ phần có các khoản
tiền lãi cổ phần được trả có sự liên hệ thực tế với một cơ sở thường trú hay một
cơ sở cố định tại Nước kia, đồng thời Nước kia cũng buộc các khoản lợi tức
không chia của công ty trên phải chịu thuế đối với những khoản lợi tức không
chia của công ty, cho dù những khoản tiền lãi cổ phần được chia hoặc các khoản
lợi tức không chia bao gồm toàn bộ hay một phần các khoản lợi tức hoặc thu nhập
phát sinh tại Nước kia.
Điều 11. Lãi
từ tiền cho vay
1. Lãi từ tiền cho vay phát sinh
tại một Nước ký kết và được trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể
bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Tuy nhiên, khoản tiền lãi này
cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh lãi và phù hợp với các
luật của Nước đó, nhưng nếu đối tượng thực hiện lãi từ tiền cho vay là đối
tượng cư trú của Nước ký kết kia thì mức thuế được tính khi đó sẽ không vượt
quá mười phần trăm (10%) tổng số khoản lãi từ tiền cho vay. Nhà chức trách có
thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ xây dựng phương thức áp dụng giới hạn này
bằng thoả thuận chung.
3. Thuật ngữ “lãi từ tiền cho vay”
được sử dụng tại Điều này có nghĩa là thu nhập từ các khoản cho vay dưới bất kỳ
dạng nào, có hay không được đảm bảo bằng thế chấp và có hoặc không có quyền
được hưởng lợi tức của người đi vay, và đặc biệt là khoản thu nhập từ chứng
khoán của chính phủ và thu nhập từ trái phiếu hoặc trái phiếu công ty, bao gồm
cả tiền thưởng và giải thưởng đi liền với các chứng khoán, trái phiếu hoặc trái
phiếu thông thường đó. Tiền phạt thanh toán chậm sẽ không được coi là lãi từ
tiền cho vay theo nội dung của Điều này.
4. Những quy định tại khoản 1 và 2
sẽ không được áp dụng nếu người thực hưởng các khoản lãi từ tiền cho vay là đối
tượng cư trú tại của Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký
kết kia nơi phát sinh các khoản lãi từ tiền cho vay thông qua một cơ sở thường
trú tại Nước kia hoặc thực hiện tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc
lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia và khoản nợ có các khoản tiền lãi
được trả có sự liên hệ thực tế với (a) cơ sở thường trú hay cơ sở cố định đó,
hoặc với (b) các hoạt động kinh doanh được nêu tại điểm (c) khoản 1 Điều 7.
Trong trường hợp như vậy, các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tuỳ từng trường
hợp, sẽ được áp dụng.
5. Lãi từ tiền cho vay sẽ được coi
là phát sinh tại một Nước ký kết khi đối tượng trả chính là Nước đó, chính
quyền cơ sở, chính quyền địa phương hoặc đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy
nhiên, khi đối tượng trả lãi có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hay một
cơ sở cố định liên quan đến các khoản nợ đã phát sinh các khoản lãi này, và
khoản tiền lãi đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì dù đối
tượng đó có là đối tượng cư trú của một Nước ký kết hay không, khoản tiền lãi
này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước nơi cơ sở thường trú hay cơ sở cố định
đó đóng.
6. Trường hợp do mối quan hệ đặc
biệt giữa đối tượng trả lãi và đối tượng thực hưởng lãi hoặc giữa cả hai đối
tượng trên và các đối tượng khác, khoản lãi từ tiền cho vay, liên quan đến
khoản cho vay có số tiền lãi được trả vượt quá khoản tiền được thoả thuận giữa
đối tượng đi vay và đối tượng thực hưởng thì không có mối quan hệ này, thì khi
đó, các quy định của Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với các khoản tiền thanh toán
khi không có mối quan hệ trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị
đánh thuế theo luật của từng Nước ký kết có xem xét tới các quy định khác của
Hiệp định này.
Điều 12. Tiền
bản quyền
1. Tiền bản quyền phát sinh tại một
Nước ký kết và được trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh
thuế tại Nước ký kết kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền bản
quyền đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh, và phù hợp với
các luật của Nước đó, nhưng nếu đối tượng thực hưởng tiền bản quyền là đối
tượng cư trú của Nước ký kết kia thì mức thuế được tính khi đó sẽ không vượt
quá mười phần trăm (10%) tổng số tiền bản quyền. Nhà chức trách có thẩm quyền
của hai Nước ký kết sẽ xây dựng phương thức áp dụng giới hạn này bằng thoả
thuận chung.
3. Thuật ngữ “tiền bản quyền” được
sử dụng trong Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán ở bất kỳ dạng nào được
trả cho việc sử dụng, hoặc quyền sử dụng, bản quyền tác giả của một tác phẩm
văn học, nghệ thuật hay khoa học, kể cả phim điện ảnh, hay các loại phim hoặc
băng dùng trong phát thanh và truyền hình, bất kỳ bằng phát minh, nhãn hiệu
thương mại, thiết kế hoặc mẫu, đồ án, công thức hoặc quy trình bí mật, hay trả
cho việc sử dụng, hay quyền sử dụng thiết bị công nghiệp, thương mại hoặc khoa
học, hay trả cho thông tin liên quan đến các kinh nghiệm công nghiệp, thương
mại hoặc khoa học.
4. Những quy định tại khoản 1 và 2
sẽ không áp dụng nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền bản quyền, là đối
tượng cư trú của một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký
kết kia nơi có khoản tiền bản quyền phát sinh, thông qua một cơ sở thường trú
nằm tại Nước kia hoặc tiến hành tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc
lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia, và quyền hay tài sản có các khoản
tiền bản quyền được trả có sự liên hệ thực tế với (a) cơ sở thường trú hoặc cơ
sở cố định đó, hoặc với (b) các hoạt động kinh doanh được nêu tại điểm (c)
khoản 1 Điều 7. Trong trường hợp như vậy, các quy định của Điều 7 hoặc Điều 14,
tuỳ từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Tiền bản quyền sẽ được coi là
phát sinh tại một Nước ký kết khi đối tượng trả tiền bản quyền chính là Nước
đó, chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương hay đối tượng cư trú của Nước
đó. Tuy nhiên, khi đối tượng trả tiền bản quyền, là hay không là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết, có tại một Nước ký kết một cơ sở thường trú hay một cơ
sở cố định liên quan đến trách nhiệm trả tiền bản quyền đã phát sinh và tiền
bản quyền đó do cơ sở thường trú hay cơ sở cố định đó chịu thì khoản tiền bản
quyền này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước nơi có cơ sở thường trú hay cơ sở
cố định đó đóng.
6. Trường hợp vì mối quan hệ đặc biệt
giữa đối tượng trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên với
các đối tượng khác, khoản tiền bản quyền, liên quan đến việc sử dụng, quyền hay
thông tin có số tiền bản quyền được trả, đối với việc sử dụng, quyền hoặc thông
tin, vì bất cứ lý do gì, vượt quá khoản tiền được thoả thuận giữa đối tượng trả
tiền và đối tượng thực hưởng khi không có mối quan hệ đặc biệt này, thì các quy
định của Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với khoản tiền thanh toán khi không có mối
quan hệ trên. Trong trường hợp như vậy, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế
theo các luật của từng Nước ký kết có xem xét đến các quy định khác của Hiệp
định này.
Điều 13. Lợi
nhuận từ chuyển nhượng tài sản
1. Lợi nhuận từ việc chuyển nhượng
bất động sản, được định nghĩa tại Điều 6, có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết
nơi có tài sản đó.
2. Lợi nhuận từ việc chuyển nhượng
động sản là một phần của tài sản kinh doanh của một cơ sở thường trú mà một
doanh nghiệp của một Nước ký kết có tại Nước ký kết kia hoặc động sản thuộc một
cơ sở cố định của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết có tại Nước ký kết
kia để tiến hành hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập kể cả lợi nhuận từ việc
chuyển nhượng cơ sở thường trú đó (riêng cơ sở thường trú đó hoặc cùng với toàn
bộ doanh nghiệp) hoặc cơ sở cố định đó có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
3. Lợi nhuận từ việc chuyển nhượng
tầu thuỷ hoặc máy bay của một doanh nghiệp của một Nước ký kết hoạt động trong
vận tải quốc tế hoặc từ việc chuyển nhượng động sản gắn liền với hoạt động của
tầu thuỷ hay máy bay đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết đó.
4. Lợi nhuận do đối tượng cư trú
của một Nước ký kết nhận được từ việc chuyển nhượng cổ phiếu hay các quyền lợi
tương ứng của một công ty mà tài sản của công ty đó bao gồm toàn bộ hay chủ yếu
là bất động sản nằm tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
5. Lợi nhuận từ việc chuyển nhượng
cổ phiếu khác với cổ phiếu nêu tại khoản 4 tại một công ty là đối tượng cư trú
của một Nước ký kết có thể bị đánh thuế tại Nước đó.
6. Lợi nhuận từ việc chuyển nhượng
bất kỳ tài sản nào khác với những tài sản đã được nêu tại các khoản 1, 2, 3, 4
và 5 sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi đối tượng chuyển nhượng là đối
tượng cư trú.
Điều 14. Hoạt
động dịch vụ cá nhân độc lập
1. Thu nhập do một đối tượng cư trú
của một Nước ký kết thu được từ các hoạt động dịch vụ ngành nghề hay các hoạt
động khác có tính chất độc lập sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó trừ các trường
hợp sau thu nhập đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia:
a) Nếu đối tượng đó thường xuyên có
tại Nước ký kết kia một cơ sở cố định để thực hiện các hoạt động của mình;
trong trường hợp đó, chỉ phần thu nhập phân bổ cho cơ sở cố định đó có thể bị
đánh thuế tại Nước ký kết kia; hoặc
b) Nếu đối tượng đó có mặt tại Nước
ký kết kia trong một giai đoạn hay nhiều giai đoạn gộp lại đến hoặc vượt quá
183 ngày trong năm tài chính liên quan; trong trường hợp đó, chỉ phần thu nhập
thu được từ các hoạt động mà đối tượng đó thực hiện tại Nước kia có thể bị đánh
thuế tại Nước đó.
2. Thuật ngữ “dịch vụ ngành nghề”
bao gồm chủ yếu những hoạt động khoa học, văn học, nghệ thuật, giáo dục hay
giảng dạy mang tính chất độc lập cũng như các hoạt động độc lập của các thầy
thuốc, bác sĩ, luật sư, kỹ sư, kiến trúc sư, nha sĩ và kế toán viên.
Điều 15. Hoạt
động dịch vụ cá nhân phụ thuộc
1. Thể theo các quy định tại Điều
16, 18, 19, 20 và 21, các khoản tiền lương, tiền công, và các khoản tiền thù
lao tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao
động làm công sẽ bị đánh thuế tại Nước đó trừ khi công việc của đối tượng đó
được thực hiện tại Nước ký kết kia. Nếu việc làm công được thực hiện như vậy
thì tiền thù lao trả cho lao động đó có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Mặc dù có những quy định tại
khoản 1, các khoản tiền thù lao do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết
nhận được từ lao động làm công tại Nước ký kết kia sẽ bị đánh thuế tại Nước thứ
nhất nếu:
a) người nhận tiền công có mặt tại
Nước kia trong một khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời gian gộp lại không
quá 183 ngày trong năm tài chính có liên quan, và
b) chủ lao động hay đối tượng đại
diện chủ lao động trả tiền công lao động không phải là đối tượng cư trú của
Nước kia, và
c) số tiền công không phải phát
sinh tại một cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định mà đối tượng chủ lao động có
tại Nước kia.
3. Mặc dù có những quy định trên
của Điều này, các khoản tiền thù lao nhận được từ lao động làm công trên tầu
thuỷ hoặc máy bay do một doanh nghiệp của một Nước ký kết điều hành trong vận
tải quốc tế sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
Điều 16. Thù
lao cho giám đốc
Các khoản thù lao cho giám đốc và
các khoản thanh toán tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết
nhận được với tư cách là một thành viên của ban giám đốc của một công ty là đối
tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
Điều 17. Nghệ
sĩ và vận động viên
1. Mặc dù có những quy định tại
Điều 14 và 15, thu nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được
với tư cách người biểu diễn như diễn viên sân khấu, điện ảnh, nghệ sỹ phát
thanh hay truyền hình, hoặc nhạc công, hoặc với tư cách là vận động viên từ
những hoạt động cá nhân của đối tượng đó thực hiện tại Nước ký kết kia có thể
bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Trường hợp thu nhập liên quan
đến các hoạt động trình diễn cá nhân của người biểu diễn hoặc vân động viên
nhưng không được trả cho bản thân người biểu diễn hoặc vận động viên, mà trả
cho đối tượng khác thì thu nhập đó có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi diễn
ra những hoạt động trình diễn của người biểu diễn hoặc vận động viên, mặc dù đã
có những quy định tại Điều 7, 14 và 15.
3. Mặc dù đã có các quy định tại
khoản 1 và 2, thu nhập mà người biểu diễn hoặc vận động viên là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết nhận được từ các hoạt động thực hiện tại Nước ký kết
kia theo kế hoạch trao đổi văn hóa hoặc thể thao giữa Chính phủ của cả hai Nước
ký kết sẽ được miễn thuế tại Nước ký kết kia.
Điều 18. Tiền
lương hưu
Thể theo các quy định tại khoản 2
Điều 19, tiền lương hưu và các khoản tiền thù lao tương tự khác được trả cho
một đối tượng cư trú của một Nước ký kết do các công việc đã làm trước đây sẽ
chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
Điều 19. Phục
vụ chính phủ
1. a) Tiền thù lao, trừ tiền lương
hưu, do một Nước ký kết hoặc chính quyền có sở hay chính quyền địa phương của
Nước đó trả cho một cá nhân đối với việc phục vụ cho Nhà nước hoặc chính quyền
cơ sở hay chính quyền địa phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
b) Tuy nhiên, khoản thù lao như vậy
sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết kia nếu việc phục vụ này được thực hiện tại
Nước kia và nếu cá nhân này là đối tượng cư trú của Nước kia, đồng thời:
(i) là đối tượng mang quốc tịch của
Nước kia; hoặc
(ii) không trở thành đối tượng cư
trú của Nước kia chỉ đơn thuần vì thực hiện những công việc trên.
2. a) Bất kỳ khoản tiền lương hưu
nào do một Nước ký kết, chính quyền cơ sở, chính quyền địa phương của Nước đó
hoặc do các quỹ của những cơ quan này lập ra trả cho một cá nhân đối với các
công việc phục vụ cho Nhà nước hoặc chính quyền cơ sở hay chính quyền địa
phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
b) Tuy nhiên, những khoản tiền
lương hưu này sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết kia nếu cá nhân này là đối
tượng cư trú và là đối tượng mang quốc tịch của Nước kia.
3. Các quy định của Điều 15, 16, và
18 sẽ áp dụng đối với những khoản tiền thù lao tương tự và tiền lương hưu đối
với các công việc liên quan đến một hoạt động kinh doanh được thực hiện bởi một
Nước ký kết hoặc chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của Nước đó.
Điều 20. Sinh
viên và thực tập sinh
1. Những khoản tiền mà một sinh
viên hay tu nghiệp sinh ngay trước khi đến một Nước ký kết đang hay đã là đối
tượng cư trú của Nước ký kết kia và hiện có mặt tại Nước thứ nhất chỉ với mục
đích học tập hay đào tạo nhận được để trang trải các chi phí sinh hoạt, học tập
hay đào tạo sẽ không bị đánh thuế tại Nước đó với điều kiện những khoản tiền đó
có nguồn gốc từ các nguồn bên ngoài Nước đó.
2. Mặc dù đã có các quy định của
Điều 14 và 15, tiền thu lao từ hoạt động dịch vụ do sinh viên hay tu nghiệp
sinh thực hiện tại một Nước ký kết sẽ không bị đánh thuế tại Nước đó, với điều
kiện là các hoạt động dịch vụ như vậy có liên quan tới việc học tập hay đào tạo
của sinh viên hay tu nghiệp sinh đó.
Điều 21. Giáo
viên, giáo sư và nhà nghiên cứu
1. Cá nhân là người ngay trước khi
đến một Nước ký kết đang hay đã là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia và hiện
có mặt tại Nước ký kết thứ nhất với mục đích chủ yếu là giảng dạy, thuyết trình
hay tiến hành nghiên cứu tại một trường đại học, trường cao đẳng, trường học
hay cơ sở giáo dục hoặc cơ sở nghiên cứu khoa học được Chính phủ của Nước ký
kết thứ nhất chấp nhận sẽ được miễn thuế tại Nước ký kết thứ nhất đối với tiền
thù lao trả cho công việc giảng dạy, thuyết trình hay nghiên cứu đó trong một
khoảng thời gian hai năm kể từ ngày đầu tiên cá nhân đó đến Nước ký kết thứ
nhất.
2. Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với
thu nhập từ hoạt động nghiên cứu nếu hoạt động nghiên cứu đó do một cá nhân
thực hiện vì lợi ích công và chủ yếu không phải vì lợi ích của một hay nhiều
đối tượng tư nhân khác.
Điều 22. Thu
nhập khác
1. Những khoản thu nhập của một đối
tượng cư trú của một Nước ký kết, cho dù phát sinh ở đâu, chưa được đề cập đến
tại những Điều trên của Hiệp định này, sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Các quy định của khoản 1 sẽ
không áp dụng đối với thu nhập, trừ thu nhập từ bất động sản được định nghĩa
tại khoản 2 Điều 6, nếu đối tượng nhận thu nhập đó là đối tượng cư trú của một
Nước ký kết, có tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua
một cơ sở thường trú nằm tại Nước kia, hay thực hiện tại Nước kia các hoạt động
dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định nằm tại Nước kia và quyền
hay tài sản liên quan tới khoản thu nhập được chi trả có sự liên hệ thực tế với
cơ sở thường trú hay cơ sở cố định nói trên. Trong trường hợp như vậy, những
quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tuỳ từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
3. Mặc dù đã có các quy định của
khoản 1 và 2, các khoản thu nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết
chưa được đề cập đến tại các Điều trên của Hiệp định này và phát sinh tại Nước
ký kết kia cũng có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
Điều 23. Các
biện pháp xóa bỏ việc đánh thuế hai lần
1. Khi một đối tượng cư trú của một
Nước ký kết nhận được thu nhập, lợi tức hay lợi nhuận mà phù hợp với Hiệp định
này có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia, Nước ký kết thứ nhất sẽ cho phép
được trừ vào thuế trên thu nhập, lợi tức hay lợi nhuận của đối tượng cư trú đó
một khoản tiền tương đương với số thuế đã nộp tại Nước ký kết kia. Tuy nhiên,
số thuế được trừ như vậy sẽ không vượt quá phần thuế phải nộp trên thu nhập,
lợi tức hay lợi nhuận được tính phù hợp với các luật và quy định về thuế của
Nước ký kết thứ nhất.
2. Tuy nhiên, phù hợp với bất kỳ
quy định nào của Hiệp định, trường hợp thu nhập do một đối tượng cư trú của một
Nước ký kết nhận được chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết kia, Nước ký kết thứ
nhất có thể tính đến phần thu nhập đó, khi tính toán số thuế thu trên thu nhập
còn lại của đối tượng cư trú đó.
3. Thuế đã nộp tại Nước ký kết kia
được nêu tại khoản 1 Điều này sẽ được coi là gồm cả số thuế lẽ ra phải nộp
nhưng được hưởng giảm, miễn thuế hoặc các ưu đãi thuế khác theo quy định trong
các luật và quy định của Nước ký kết đó được xây dựng nhằm khuyến khích phát
triển kinh tế.
Điều 24. Không
phân biệt đối xử
1. Những đối tượng mang quốc tịch
của một Nước ký kết sẽ không phải chịu tại Nước ký kết kia bất kỳ hình thức
thuế nào hay bất kỳ yêu cầu nào liên quan đến hình thức thuế đó khác với hay
nặng hơn hình thức thuế và các yêu cầu liên quan hiện đang và có thể áp dụng
cho các đối tượng mang quốc tịch của Nước kia trong cùng những hoàn cảnh như
nhau, đặc biệt là đối với tình trạng cư trú.
2. Thuế áp dụng đối với cơ sở
thường trú của một doanh nghiệp của một Nước ký kết đặt tại Nước ký kết kia sẽ
không kém thuận lợi hơn thuế áp dụng đối với các doanh nghiệp của Nước kia cùng
thực hiện những hoạt động đó. Quy định này sẽ không được giải thích là ngăn cản
một Nước ký kết phải cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia được hưởng các
suất miễn thu cá nhân, khoản miễn thuế và giảm thuế căn cứ vào tư cách dân sự
hay trách nhiệm gia đình mà Nước đó dành cho đối tượng cư trú của Nước mình
được hưởng.
3. Các doanh nghiệp của một Nước ký
kết có toàn bộ hay một phần vốn do một hay nhiều đối tượng cư trú của Nước ký
kết kia kiểm soát hay sở hữu trực tiếp hay gián tiếp, sẽ không phải chịu tại
Nước ký kết thứ nhất bất kỳ hình thức thuế hay yêu cầu liên quan đến hình thức
thuế đó khác với hay nặng hơn hình thức thuế và những yêu cầu liên quan hiện
đang hoặc có thể được áp dụng cho các doanh nghiệp tương tự khác của Nước thứ
nhất.
4. Những quy định tại khoản 2 và 3
Điều này sẽ không áp dụng đối với thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài của Việt Nam.
5. Mặc dù đã có các quy định của
Điều này, trong thời gian Việt Nam tiếp tục cấp giấy phép cho các nhà đầu tư
theo Luật Đầu tư Nước ngoài tại Việt Nam, trong đó quy định chi tiết hình thức
thuế áp dụng cho nhà đầu tư thì việc áp dụng hình thức thuế đó sẽ không bị coi
là vi phạm quy định tại khoản 2 và 3 Điều này.
Điều 25. Thủ
tục thoả thuận song phương
1. Trường hợp một đối tượng là đối
tượng cư trú của một Nước ký kết nhận thấy rằng việc giải quyết của nhà chức
trách có thẩm quyền của một hay cả hai Nước ký kết làm cho hay sẽ làm cho đối
tượng đó phải nộp thuế không đúng theo những quy định của Hiệp định này, lúc đó
đối tượng này có thể giải trình trường hợp của mình với nhà chức trách có thẩm quyền
của Nước ký kết nơi đối tượng đó là đối tượng cư trú, mặc dù trong các luật
trong nước của hai Nước ký kết đã quy định những chế độ xử lý khiếu nại. Trường
hợp đó phải được giải trình trong thời hạn 3 năm kể từ lần thông báo giải quyết
đầu tiên dẫn đến hình thức thuế áp dụng không đúng với những quy định của Hiệp
định.
2. Nhà chức trách có thẩm quyền sẽ
cố gắng, nếu như việc khiếu nại là hợp lý và nếu bản thân nhà chức trách đó
không thể đi đến một giải pháp thoả đáng, phối hợp với nhà chức trách có thẩm
quyền của Nước ký kết kia để cùng giải quyết trường hợp khiếu nại bằng thoả
thuận chung, nhằm mục đích tránh đánh thuế không phù hợp với nội dung của Hiệp
định này. Mọi thoả thuận đạt được sẽ được thực hiện không căn cứ vào những giới
hạn thời gian ghi trong nội luật của hai Nước ký kết.
3. Nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết sẽ cùng nhau cố gắng giải quyết mọi khó khăn hay vướng mắc nảy
sinh trong quá trình áp dụng Hiệp định. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai
Nước cũng có thể cùng nhau tham vấn nhằm xoá bỏ việc đánh thuế hai lần trong
các trường hợp không được quy định tại Hiệp định.
4. Nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết có thể liên hệ trực tiếp với nhau, với mục đích nhằm đạt được
một thoả thuận theo nội dung những khoản trên đây. Nhà chức trách có thẩm quyền
thông qua các cuộc tham vấn, sẽ xây dựng các thủ tục, điều kiện, các phương
pháp và kỹ thuật song phương thích hợp để thực hiện thủ tục thoả thuận song
phương được quy định tại Điều này.
Điều 26. Trao
đổi thông tin
1. Nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết sẽ trao đổi những thông tin cần thiết cho việc triển khai thực
hiện những quy định của Hiệp định này hay của các luật trong nước của hai Nước
ký kết liên quan đến các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng sao cho việc đánh
thuế theo các luật trong nước sẽ không trái với Hiệp định này, đặc biệt là nhằm
ngăn chặn việc trốn lậu thuế. Mọi thông tin do một Nước ký kết nhận được sẽ
được giữ bí mật giống như thông tin thu nhận theo luật trong nước của Nước này
và thông tin đó sẽ chỉ được cung cấp cho các đối tượng hay các nhà chức trách
(bao gồm cả tòa án và các cơ quan hành chính) có liên quan đến việc tính hoặc
thu, cưỡng chế hoặc truy tố hoặc xác định các khiếu nại về các loại thuế mà
Hiệp định này áp dụng. Các đối tượng hoặc các nhà chức trách đó sẽ chỉ sử dụng
các thông tin vào các mục đích nêu trên. Các đối tượng và các cơ quan đó có thể
cung cấp các thông tin này trong quá trình tố tụng công khai của toà án hay
trong các quyết định của toà án. Các nhà chức trách có thẩm quyền thông qua
việc trao đổi sẽ xây dựng những điều kiện, biện pháp và kỹ thuật thích hợp liên
quan đến các vấn đề mà việc trao đổi thông tin được thực hiện, kể cả khi cần
thiết, trao đổi thông tin liên quan đến việc tránh thuế.
2. Không có trường hợp nào những
quy định tại khoản 1 được giải thích là buộc một Nước ký kết có nghĩa vụ:
(a) thực hiện các biện pháp hành
chính khác với luật pháp hay thông lệ về quản lý hành chính của Nước ký kết đó
hay của Nước ký kết kia;
(b) cung cấp những thông tin không
thể tiết lộ được theo các luật hay theo như quá trình quản lý hành chính thông
thường của Nước ký kết đó hay của Nước ký kết kia;
(c) cung cấp những thông tin có thể
làm tiết lộ bí mật về kinh doanh, thương mại, công nghiệp, thương nghiệp hay bí
mật nghề nghiệp hoặc các phương thức kinh doanh, hoặc cung cấp những thông tin
mà việc tiết lộ chúng có thể trái với chính sách nhà nước.
Điều 27. Các
viên chức ngoại giao và lãnh sự
Không nội dung nào trong Hiệp định
này sẽ ảnh hưởng đến những ưu đãi về thuế dành cho các viên chức ngoại giao
hoặc viên chức lãnh sự theo những nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế hay
những quy định trong các hiệp định đặc biệt.
Điều 28. Hiệu
lực
1. Từng Nước ký kết ký sẽ thông báo
cho Nước ký kết kia bằng văn bản thông qua đường ngoại giao về việc hoàn thành
các thủ tục cần thiết theo luật pháp của nước mình để Hiệp định có hiệu lực.
Hiệp định này sẽ có hiệu lực vào ngày thông báo sau cùng.
2. Hiệp định này sẽ có hiệu lực thi
hành đối với các loại thuế đã nộp trong các năm thuế bắt đầu vào ngày hoặc sau
ngày 01 tháng 01 tiếp theo năm dương lịch Hiệp định có hiệu lực.
Điều 29. Kết
thúc
Hiệp định này sẽ có hiệu lực thi
hành cho đến khi một trong hai Nước ký kết tuyên bố kết thúc. Từng Nước ký kết,
có thể thông qua đường ngoại giao, có thể gửi cho Nước ký kết kia văn bản thông
báo kết thúc Hiệp định vào ngày hoặc trước ngày 30 tháng 6 trong bất kỳ năm
dương lịch nào kể từ năm thứ năm tiếp theo năm Hiệp định có hiệu lực. Trong
trường hợp như vậy, Hiệp định sẽ hết hiệu lực thi hành đối với các loại thuế đã
nộp trong các năm thuế bắt đầu vào ngày hoặc sau ngày 01 tháng 01 tiếp theo năm
dương lịch gửi thông báo kết thúc Hiệp định.
Đã làm bằng những người được uỷ
quyền dưới đây của từng Chính phủ đã ký vào Hiệp định.
Hiệp định được làm thành hai bản
tại thành phố La Habana ngày 29 tháng 10 năm 2002, mỗi bản bằng tiếng Việt,
tiếng Tây Ban Nha và tiếng Anh, tất cả các bản đều có giá trị ngang nhau.
Trường hợp có sự khác nhau trong quá trình giải thích, văn bản bằng tiếng Anh
sẽ có giá trị quyết định./.
TM.
CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THỨ TRƯỞNG BỘ NGOẠI GIAO
Chu Tuấn Cáp
|
TM.
CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA CU BA
THỨ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH VÀ VẬT GIÁ
Hector Casals Simpson
|
NGHỊ ĐỊNH THƯ
Tại thời điểm ký Hiệp định về Tránh
Đánh thuế Hai lần và Ngăn ngừa việc Trốn lậu Thuế đối với các loại Thuế đánh
vào Thu nhập giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính
phủ nước Cộng hòa Cu Ba, những người ký dưới đây đã thống nhất các quy định sau
sẽ là một bộ phận hợp thành của Hiệp định.
1. Mặc dù đã có quy định tại khoản
1 Điều 4, trong trường hợp của Cu Ba liên quan đến công dân Cu Ba, thuật ngữ
đối tượng cư trú đề cập đến những người có quyền công dân của Cu Ba phù hợp với
nội luật của Cu Ba và là đối tượng cư trú thường xuyên tại lãnh thổ quốc gia.
2. Mặc dù đã có quy định tại khoản
2 Điều 12, thu nhập từ bản quyền quyền tác giả được trả có liên quan đến quyền
tác giả và các khoản thù lao tương tự khác để tái bản tác phẩm văn học hoặc
nghệ thuật phát sinh tại một Nước ký kết và trả cho một cá nhân là đối tượng cư
trú thường xuyên và có nghĩa vụ thuế tại Nước ký kết kia sẽ được miễn thuế tại
Nước thứ nhất khi người nhận tiền bản quyền đó là người thực hưởng.
3. Đối với Điều 16, thuật ngữ “thù
lao” bao gồm cả tiền khoán công tác phí.
4. Đối với khoản 1 Điều 26, thông
tin nhận được sẽ không được sử dụng cho các mục đích khác trừ khi nhà chức
trách có thẩm quyền của Nước ký kết cung cấp thông tin có giấy uỷ quyền cụ thể.
Thông tin nhận được sẽ chỉ được sử
dụng trong phạm vi lãnh thổ của hai Nước ký kết. Khi cần thiết phải sử dụng
thông tin đó trong quá trình tố tụng công khai hoặc các quyết định của tòa án,
nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết đã cung cấp thông tin sẽ được thông
báo về tình huống này, nếu như nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết kia
được biết về tình huống đó.
Để làm bằng những người được uỷ
quyền dưới đây của từng Chính phủ đã ký vào Nghị định thư này.