BỘ
TÀI CHÍNH
******
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc
********
|
Số:
276-BTC-NN
|
Hà
Nội, ngày 27 tháng 09 năm 1956
|
ĐIỀU LỆ TẠM THỜI
VỀ THUẾ NÔNG NGHIỆP Ở MIỀN NÚI (VÙNG CHƯA THÀNH LẬP KHU TỰ
TRỊ
Điều 1. –
Điều lệ chi tiết này căn cứ vào bản điều lệ tạm thời thuế
nông nghiệp ban hành ngày 15-07-1951 (Sắc lệnh số 40-SL) và nghị định số
1056-TTg ngày 22-09-1965 của Thủ tướng Chính phủ nhằm giảm nhẹ đóng góp cho
nông dân miền núi, đơn giản cách tính thuế, phát triển sản xuất, đồng thời hợp
với yêu cầu xây dựng các Khu tự trị.
Chương 1:
NGUYÊN TẮC CHUNG
Điều 2.
- Thuế nông nghiệp là thuế duy nhất đánh vào hoa lợi
ruộng đất. Ngoài thuế nông nghiệp, địa phương không được tự động đặt ra một thứ
đóng góp nào khác.
Điều 3.
- Thuế nông nghiệp đánh vào tổng số hoa lợi ruộng đất
và nương rẫy của nông hộ thu hoạch cả năm. Hoa lợi ruộng đất chịu thuế theo một
biểu thuế lũy tiến toàn ngạch, hoa lợi nương rẫy chịu thuế theo một thuế suất
riêng, mỗi nhân khẩu nông nghiệp trong nông hộ được trừ 100kg thóc không phải
chịu thuế.
Nông hộ là một đơn vị sản xuất
nông nghiệp, gồm những người làm chung, hưởng chung hoa lợi.
Nhân khẩu nông nghiệp là những
người lấy hoa lợi nông nghiệp làm nguồn sống chính, không phân biệt gái, trai,
già, trẻ.
Phần đất đai có hoa lợi nông
nghiệp thì người được hưởng hoa lợi phải nộp thuế, trừ những trường hợp miễn
thuế quy định dưới đây:
Điều 4.
– Những đất đai dưới đây được miễn thuế hẳn:
- Đất đai chưa khai khẩn.
- Ruộng đất bỏ hoang có lý do
chính đáng (nếu vì lười biếng mà bỏ hoang thì không được miễn).
- Vườn ươm trồng, trại thí nghiệm
về nông nghiệp và lâm nghiệp của Nhà nước.
- Bãi cỏ chăn nuôi, ruộng đất do
người chủ dùng vào việc làm gạch, làm ngói, làm đồ gốm, đúc khuôn, sân thể
thao, thể dục, nghĩa địa.
- Ruộng đất do nhà thương, trường
học, nhà nuôi trẻ, trại an dưỡng, trại cải hối, trại giáo dưỡng cày cấy để cải
thiện sinh hoạt.
- Diện tích ruộng đất đào giếng,
đào mương để chống hạn
- Đất ở gồm nền nhà, sân phơi và
vườn chung quanh nhà trồng các thứ linh tinh để dùng trong gia đình.
- Hồ ao.
- Ruộng chuyên gieo mạ thường
năm không trồng cây.
- Rẫy hốc đá (đem đất nơi khác
lên núi đá để trồng trọt).
Những đất đai khác được Chính phủ
đặc biệt miễn thuế.
Điều 5.
– Những đất đai dưới đây được miễn thuế trong một thời
hạn:
- Đất hoang mới khai khẩn được
miễn thuế 5 năm kể từ năm khai khẩn.
- Ruộng đất bỏ hoang từ 2 vụ trở
lên mới phục hồi được miễn thuế 3 năm.
Chương 2:
CÁCH TÍNH HOA LỢI NÔNG
NGHIỆP
Điều 6.
– Hoa lợi ruộng đất để tính thuế là sản lượng bình
thường hàng năm (gọi tắt là sản lượng thường năm) của ruộng đất, theo lề lối
canh tác thông thường ở mỗi địa phương, không kể những năm được mùa hay mất
mùa. Nếu do chăm bón kỹ hơn, trồng cấy thêm vụ, trồng những thứ cây có lợi nhiều
thì dù có thu hoạch nhiều hơn sản lượng thường năm, thuế vẫn chỉ tính theo sản
lượng thường năm. Ngược lại, nếu lười biếng thu hoạch sút kém, thuế cũng vẫn
tính theo sản lượng thường năm.
Điều 7.
– Hoa lợi nương rẫy để tính thuế là hoa lợi thu hoạch
thực tế từng năm của nương rẫy.
Điều 8.
– Hoa lợi ruộng đất và nương rẫy đều tính bằng thóc.
Hoa lợi đất trồng các thứ hoa màu lương thực: ngô, khoai, sắn và hoa lợi nương
rẫy trồng ngô đều quy ra thóc để tính thuế.
Đối với ruộng đất trồng các thứ
hoa màu khác (bông, đỗ, lạc, mía v.v…):
+ Nếu nguyên là ruộng cấy lúa
thì định sản lượng theo ruộng cấy lúa;
+ Nếu nguyên là đất trồng màu
thì định sản lượng theo đất trồng ngô, khoai, sắn.
+ Nếu chỉ trồng xen lẫn vào lúa,
ngô, khoai, sắn thì không tính thuế.
Điều 9.
– Đối với những ruộng đất do nhân dân tự làm lấy công
trình thủy lợi để tăng thu hoạch thì trong 5 năm không tăng thuế; nếu Chính phủ
và nhân dân cùng làm thì trong 3 năm không tăng thuế; nếu do Chính phủ làm thì
trong 1 năm không tăng thuế.
Điều 10.
– Đối với ruộng đất trồng những loại cây lưu niên trồng
một lần thu hoạch nhiều năm (như chè, sơn, hồi, chẩu, nhãn, vải, cam, quýt
v.v…) có tính chất sản vật đặc biệt của từng địa phương, thì hoa lợi không gộp
vào hoa lợi ruộng đất, để tính thuế theo chế độ chung, mà tính thuế riêng. Thuế
đánh vào số thu hoạch thực tế hàng năm, thuế suất là 7%.
Việc quy định vùng nào có sản vật
đặc biệt do Ủy ban Hành chính tỉnh đề nghị, Ủy ban Hành chính Khu quyết định.
Ngoài những vùng đã quy định là
có sản vật đặc biệt thì đất trồng những loại cây trên vẫn tính sản lượng thường
năm như những ruộng đất khác, coi như trồng lúa hay ngô, khoai, sắn và gộp với
hoa lợi ruộng đất để tính thuế theo biểu thuế chung.
Chương 3:
TÍNH NHÂN KHẨU NÔNG NGHIỆP
Điều 11.
- Mỗi người chỉ được tính nhân khẩu nông nghiệp một
lần ở một nơi.
Khi tính nhân khẩu nông nghiệp
thì tính số người hiện có trong nông hộ lúc kê khai.
Những người ở thuê không tính
nhân khẩu nông nghiệp ở nhà chủ, mà tính nhân khẩu nông nghiệp ở nhà mình.
Đối với con nuôi, con rễ, người ở
nhỏ, nếu cùng làm cùng hưởng, muốn tính nhân khẩu nông nghiệp vào nông hộ người
nuôi, hay nông hộ nhà mình thì tùy ý.
Điều 12.
- Để khuyến khích nông dân khôi phục và phát triển
nghề phụ, những người làm nghề phụ vẫn được tính nhân khẩu nông nghiệp.
Điều 13.
– Đối với những gia đình có một nghề khác làm nguồn
sống chính, đồng thời có làm thêm ruộng thì những người thực sự làm ruộng được
tính nhân khẩu nông nghiệp.
Cán bộ, công nhân viên được hưởng
lương, học sinh các trường học được Chính phủ đài thọ hoàn toàn, không được
tính nhân khẩu nông nghiệp.
Phạm nhân đã thành án, sống
trong các trại cải hối không được tính nhân khẩu nông nghiệp, nếu chưa thành án
thì vẫn được tính.
Điều 14.
- Để ưu đãi những gia đình có công với Tổ quốc, những
người sau đây tuy không sống dựa vào hoa lợi nông nghiệp nhưng vẫn được tính
nhân khẩu nông nghiệp.
- Bộ đội chủ lực và bộ đội địa
phương tại ngũ
- Thương bệnh binh ở trại an dưỡng,
thương binh chuyển sang công tác ở các ngành khác.
- Cảnh vệ hưởng theo chế độ bộ đội.
- Liệt sĩ (theo đúng quy định của
Chính phủ).
- Bộ đội phục viên chuyển sang
công tác ở các ngành khác được tính nhân khẩu nông nghiệp trong 2 năm kể từ khi
rời hàng ngũ bộ đội.
CHƯƠNG IV
BIỂU THUẾ VÀ CÁCH TÍNH THUẾ
Điều 15.
– Hoa lợi ruộng đất sau khi đã trừ cho mỗi nhân khẩu
nông nghiệp 100kg, số còn lại tính thuế theo biểu thuế sau đây:
Bậc
thuế
|
Hoa
lợi bình quân một nhân khẩu nông nghiệp (đã trừ 100kg)
|
Thuế
suất cả chính tăng và phụ thu
|
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
|
Từ 1 ki-lô thóc đến 100 ki-lô
thóc
Từ 101 ki-lô thóc đến 200
ki-lô thóc
Từ 201 ki-lô thóc đến 300
ki-lô thóc
Từ 301 ki-lô thóc đến 400
ki-lô thóc
Từ 401 ki-lô thóc đến 500
ki-lô thóc
Từ 501 ki-lô thóc đến 600
ki-lô thóc
Từ 601 ki-lô thóc đến 700
ki-lô thóc
Từ 701 ki-lô thóc đến 800
ki-lô thóc
Từ 801 ki-lô thóc đến 900
ki-lô thóc
Từ 901 ki-lô trở lên
|
15%
17%
19%
21%
23%
25%
27%
29%
32%
35%
|
Điều 16.
- Thuế nông nghiệp về nương rẫy đánh vào số thu hoạch
thực tế từng năm của nương rẫy sau khi trừ cho mỗi nhân khẩu nông nghiệp 100kg,
thuế suất định là 10%.
Điều 17.
– Đối với những nông hộ vừa làm ruộng vừa làm nương
rẫy, mỗi nhân khẩu nông nghiệp cũng chỉ được trừ 100kg thóc không phải chịu thuế.
Số 100kg thóc được miễn thuế trừ trước tiên vào hoa lợi ruộng đất; nếu hoa lợi
ruộng đất không đủ để trừ thì trừ thêm vào hoa lợi nương rẫy.
Điều 18.
- Trường hợp ruộng đất phát canh và lĩnh canh thì chủ
ruộng và người cày cấy cùng chịu thuế. Mỗi bên thu hoạch bao nhiêu thì gộp vào
hoa lợi ruộng đất của nông hộ mình mà tính thuế (không tăng giảm 25% như trước).
Điều 19.
- Nếu một nông hộ có ruộng đất ở nhiều nơi thì hoa lợi
ruộng đất ở tất cả các nơi phải gộp lại để tính thuế ở nơi hộ cư trú.
Điều 20.
- Để khuyến khích làm lâu năm trên một đám nương rẫy,
đồng thời để bảo vệ rừng:
Nương rẫy làm năm đầu, tính thuế
trên toàn bộ số thu hoạch, làm năm thứ hai, thu hoạch mười phần, chỉ tính thuế
vào tám phần, miễn thuế hai phần.
Làm từ năm thứ ba trở đi, chỉ
tính thuế vào một nửa số thu hoạch.
Điều 21.
- Thuế nông nghiệp chỉ đánh vào những nương rẫy trồng
lúa và trồng ngô. Nương rẫy trồng các thứ hoa màu khác như: khoai, sắn, đỗ,
bông, lạc, vừng v.v… đều được miễn thuế.
Điều 22.
– Những đất đai dưới đây được chiếu cố:
- Ruộng bậc thang, ruộng thụt, sản
lượng thường năm mười phần, thuế chỉ tính vào tám phần, miễn thuế hai phần.
- Nương rẫy định canh ở hốc đá
và sườn núi dốc trước đánh thuế theo thổ canh, nay chia làm hai loại để đánh
thuế :
+ Những nơi tương đối bằng phẳng,
dễ làm thì tính thuế như ruộng, nương rẫy năm đầu.
+ Nhưng nơi dốc nhiều và lởm chởm
đá, khó làm thì tính thuế như nương rẫy năm thứ ba.
Điều 23.
– Đối với những ruộng đất tôn giáo như ruộng nhà
chung, nhà chùa v.v… thuế thu 8% sản lượng thường năm. Trường hợp phát canh,
lĩnh canh thuế cũng chỉ thu 8% sản lượng thường năm. Số thuế trên do chủ ruộng
nộp cả hay người cày cấy cả, hai bên thương lượng rồi báo cho Ủy ban Hành chính
xã trước khi lập sổ thuế.
Điều 24.
– Đối với ruộng đất sử dụng có tính chất công cộng
như ruộng đất dự trữ, ruộng phe giáp, họ, ruộng giao cho các đoàn thể như thanh
niên, phụ nữ cày cấy để gây quỹ, v.v… thuế thu 10% sản lượng thường năm.
Điều 25.
– Đối với thương bệnh binh, bộ đội phục viên về xã tự
túc, nếu về sống một mình thì riêng phần ruộng đất của thương bệnh binh, bộ đội
phục viên được miễn thuế 2 năm; nếu về sống chung với gia đình thì gia đình được
miễn thuế trong 2 năm, mỗi năm 50kg thóc.
Chương 5:
GIẢM, MIỄN THUẾ VỀ RUỘNG
ĐẤT
Điều 26.
- Trường hợp ruộng đất bị thiệt hại như hạn, bão, lụt,
sâu bọ, v.v… tùy theo thiệt hại nhiều hay ít được giảm hoặc miễn thuế như sau:
- Thiệt hại dưới 1/6 tổng số hoa
lợi thường niên : không giảm thuế.
- Thiệt hại từ 1/6 đến 1/2 số
hoa lợi thường niên tỷ lệ số thuế được giảm bằng tỷ lệ số thiệt hại.
- Thiệt hại từ 1/2 đến 2/3 số
hoa lợi thường niên: giảm 3/4 số thuế.
- Thiệt hại trên 2/3 số hoa lợi
thường niên: miễn hẳn thuế.
Điều 27.
- Trường hợp một vùng mùa màng bị thiệt hại liên tiếp
hai ba năm liền, Ủy ban Hành chính khu có thể đề nghị giảm, miễn cao hơn tỷ lệ
quy định ở điều 26.
Trường hợp một vùng thiên tai đặc
biệt nghiêm trọng, thiệt hại nặng nề, Ủy ban Hành chính tỉnh có thể đề nghị giảm
hoặc miễn thuế cho cả vùng.
Những đề nghị giảm, miễn trong cả
hai trường hợp trên đều phải do Bộ Tài chính chuẩn y trước khi thi hành.
Điều 28.
– Đối với những nông hộ vì gặp tai nạn bất ngờ hay
vì một lý do chính đáng mà bị mất sức lao động làm ảnh hưởng đến đời sống và khả
năng đóng góp thì nhân dân bình nghị đề nghị chiếu cố giảm miễn, tùy hoàn cảnh
cụ thể từng nông hộ, không căn cứ vào những tỷ lệ quy định ở điều 26 đối với
thiệt hại về mùa màng.
Đề nghị giảm, miễn trên phải do Ủy
ban Hành chính tỉnh chuẩn y trước khi thi hành.
Chương 6:
LẬP SỔ THUẾ - THU THUẾ
Điều 29.
- Thuế nông nghiệp mỗi năm tính một lần và thu làm
hai vụ: vụ hạ và vụ đông. Sổ thu của mỗi vụ nhiều hay ít là tùy theo số thu hoạch
của từng vụ.
Điều 30.
- Thuế nông nghiệp thu bằng thóc; nhưng để tiện lợi
cho nhân dân, những nơi sản xuất ít thóc có thể nộp bằng nông sản hay bằng tiền
thay thóc.
Việc định giá thóc để thu thuế,
việc định tỷ lệ các nông sản khác ra thóc để thu thuế, do Bộ Tài chính quy định.
Điều 31.
- Sổ thuế lập xong Ủy ban Hành chính tỉnh duyệt, duyệt
xong, sổ ấy không được sửa chữa: nếu sau đó có những thay đổi về ruộng đất, thì
mỗi bên có liên quan sẽ thương lượng để nộp đủ số thuế đã ấn định cho người đứng
tên trong sổ thuế. Sau khi sổ thuế được duyệt y, Ủy ban Hành chính xã có nhiệm
vụ báo cho các nông hộ biết số thuế phải nộp, thời hạn nộp và nơi nộp.
Điều 32.
- Mỗi nông hộ có nhiệm vụ:
1) Kê khai đúng số nhân khẩu
nông nghiệp, diện tích và sản lượng.
2) Nộp đủ thuế đúng hạn, thóc nộp
phải khô, sạch, không ẩm ướt, lẫn sạn cát.
3) Chuyển thóc thuế đến kho
trong phạm vi nghĩa vụ do Bộ Tài chính quy định.
Điều 33.
– Nông hộ nào nhận thấy nhân khẩu, diện tích, sản lượng
định không đúng hoặc tính toán sai lầm có quyền đề nghị Ủy ban Hành chính xã
xét lại: nếu không được xét và trả lời, có quyền khiếu nại lên Ủy ban Hành
chính huyện hay tỉnh. Ủy ban Hành chính huyện hay tỉnh, phải kịp thời điều tra
và giải quyết. Trong khi chờ đợi, nông hộ vẫn phải nộp đủ thuế đúng hạn. Sau
khi giải quyết nếu thừa thì được trả lại, nếu thiếu thì phải nộp thêm cho đủ.
Điều 34.
- Để tiến hành việc thu thuế nông nghiệp, ở mỗi xã
thành lập một ban thuế nông nghiệp.
Ban thuế nông nghiệp do Ủy ban
Hành chính và Nông hội xã tổ chức và do Ủy ban Hành chính xã trực tiếp lãnh đạo.
Thành phần Ban thuế nông nghiệp
gồm có:
- Chủ tịch hay Phó Chủ tịch Ủy
ban Hành chính xã: Trưởng ban
- Một đại biểu ban Chấp hành
Nông hội xã: Phó Trưởng ban
- Cán bộ thuế xã: Thư ký
- Mỗi thôn một đại biểu: Ủy viên
Bộ phận thường trực của Ban thuế
nông nghiệp là Trưởng ban, Phó Trưởng ban và Thư ký.
Nhiệm vụ của Ban thuế nông nghiệp
là:
- Tuyên truyền giải thích chính
sách trong nhân dân.
- Điều tra và tổ chức nhân dân
bình nghị kê khai; kiểm soát diện tích, sản lượng, nhân khẩu của mỗi nông hộ.
- Tính thuế và lập sổ thuế.
- Tổ chức và đôn đốc việc thu
thuế, kiểm soát phẩm chất thóc.
- Giữ tài liệu sổ sách về thuế
nông nghiệp.
Chương 7:
THƯỞNG PHẠT
Điều 35.
– Những người đủ tiêu chuẩn dưới đây sẽ được khen
thưởng:
- Những người kê khai thành thật,
hăng hái nộp đủ thuế đúng hạn, nộp thóc khô, sạch, tốt, có ý thức bảo vệ kho
tàng, có tác dụng gương mẫu.
- Cán bộ tích cực công tác, chí
công vô tư, chấp hành đúng chính sách, tác phong tốt, có nhiều sáng kiến.
Điều 36.
– Những người cố tình khai man nhân khẩu, diện tích,
sản lượng, sau khi khám phá, phải khai lại cho đúng và nộp thêm cho đủ. Ngoài
ra, Ủy ban Hành chính xã có thể phạt một số thóc hay tiền ngang số thuế gian lậu.
Những người cố tình dây dưa
không nộp thuế đúng hạn có thể bị phạt một số thóc hay tiền ngang số thuế thiếu.
Trong cả hai trường hợp trên, nếu
người phạm lỗi là cán bộ thì bị phạt gấp đôi.
Điều 37.
– Cán bộ thuế tham ô, che chở cho họ hàng, bà con
khai man, ẩn lậu thuế, cố tình làm sai chính sách, gây thiệt hại cho Chính phủ
và nhân dân thì bị thi hành kỷ luật hay đưa truy tố trước tòa án.
Điều 38.
- Tất cả những hành động có tính chất chống phá
chính sách thuế nông nghiệp sẽ bị đưa truy tố trước tòa án để xét xử theo pháp
luật hiện hành.
Chương 8:
ĐIỀU KHOẢN PHỤ
Điều 39.
– Điều lệ này thi hành ở những vùng sau đây:
- Các tỉnh: Lào Cai. Yên Bái, Hà
Giang, Hòa Bình, Hải Ninh.
- Các huyện, xã miền núi thuộc
các tỉnh khác do Ủy ban Hành chính tỉnh đề nghị và Bộ Tài chính quyết định.
Thi hành điều 13 nghị định số
1056-TTg ngày 22 tháng 09 năm 1956 của Thủ tướng Chính phủ.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Trịnh Văn Bính
|