HIỆP ĐỊNH
GIỮA
CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CHÍNH PHỦ VƯƠNG QUỐC THÁI
LAN VỀ TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN VÀ NGĂN NGỪA VIỆC TRỐN LẬU THUẾ ĐỐI VỚI THUẾ
ĐÁNH VÀO THU NHẬP
Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Vương quốc Thái Lan,
Mong muốn ký kết một Hiệp định về
việc tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại
thuế đánh vào thu nhập,
Đã thỏa thuận như sau:
ĐIỀU 1. PHẠM VI ÁP DỤNG
Hiệp định này được áp dụng cho các
đối tượng là những đối tượng cư trú tại một hoặc tại cả hai Nước ký kết.
ĐIỀU 2. CÁC LOẠI THUẾ BAO GỒM
TRONG HIỆP ĐỊNH
1. Hiệp định này áp dụng đối với
các loại thuế do một Nước ký kết hoặc các cơ quan, chính quyền địa phương của
Nước đó, đánh vào thu nhập, bất kể hình thức áp dụng của các loại thuế đó như
thế nào.
2. Tất cả các loại thuế thu trên tổng
thu nhập, hoặc những phần của thu nhập, bao gồm các khoản thuế đối với lợi nhuận
từ việc chuyển nhượng động sản hoặc bất động sản, thuế đánh trên tổng số tiền
lương hoặc tiền công do xí nghiệp trả cũng như các khoản thuế đánh vào trị giá
tài sản tăng thêm đều được coi là thuế đánh vào thu nhập.
3. Những loại thuế hiện hành được
áp dụng trong Hiệp định này là:
a. tại Việt Nam:
(i) thuế thu nhập cá nhân; (ii) thuế
lợi tức; (iii) thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài; (iv) thuế đối với nhà thầu
nước ngoài; và (v) thuế đối với nhà thầu phụ nước ngoài trong ngành dầu khí;
(dưới đây được gọi là "thuế Việt
Nam");
b. tại Thái Lan:
(i) thuế thu nhập; (ii) thuế thu nhập
dầu khí;
(dưới đây được gọi là "thuế
Thái Lan").
4. Hiệp định này cũng sẽ được áp dụng
cho các loại thuế có tính chất tương tự hay về căn bản giống như các loại thuế
trên được ban hành sau ngày ký kết Hiệp định để bổ sung, hoặc thay thế các loại
thuế hiện hành. Các nhà chức trách có thẩm quyền của các Nước ký kết sẽ thông
báo cho nhau biết những thay đổi quan trọng trong luật thuế của từng Nước.
ĐIỀU 3. CÁC ĐỊNH NGHĨA CHUNG
1. Theo Hiệp định này, trừ trường hợp
ngữ cảnh đòi hỏi một sự giải thích khác:
a. từ "Việt Nam" để chỉ
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, khi dùng theo nghĩa địa lý, bao gồm
toàn bộ lãnh thổ quốc gia Việt Nam, kể cả lãnh hải Việt Nam, và mọi vùng ở
ngoài lãnh hải Việt Nam mà theo luật pháp Việt Nam và phù hợp với luật pháp quốc
tế, Việt Nam có chủ quyền đối với việc thăm dò và khai thác tài nguyên thiên
nhiên của đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và khối nước ở trên;
b. từ "Thái Lan" để chỉ
Vương quốc Thái Lan và bao gồm bất kỳ vùng nào tiếp giáp với lãnh hải của Vương
quốc Thái Lan mà theo như luật Thái Lan và phù hợp với luật pháp quốc tế, nằm
trong phạm vi quyền tài phán của Vương quốc Thái Lan;
c. Thuật ngữ “Nước ký kết” và “Nước
ký kết kia” có nghĩa là Thái Lan hay Việt Nam tùy theo ngữ cảnh;
d. Thuật ngữ "đối tượng"
bao gồm, cá nhân, công ty và bất cứ tổ chức nào cũng như những thực thể được
coi là đối tượng chịu thuế theo như luật thuế hiện hành tại từng Nước ký kết;
e. Thuật ngữ "công ty" để
chỉ các tổ chức hoặc bất kỳ một thực thể nào được coi là tổ chức dưới giác độ thuế;
f. Thuật ngữ "xí nghiệp của Nước
ký kết" và "xí nghiệp của Nước ký kết kia" có nghĩa là một xí
nghiệp được điều hành bởi đối tượng cư trú của một Nước ký kết và một xí nghiệp
được điều hành bởi đối tượng cư trú của Nước ký kết kia;
g. Thuật ngữ "đối tượng mang
quốc tịch" có nghĩa:
(i) tất cả các cá nhân có quốc tịch
của một Nước ký kết; (ii) tất cả các pháp nhân, tổ chức góp vốn, hiệp hội và bất
kỳ thực thể khác có tư cách được chấp nhận theo pháp luật hiện hành của một Nước
ký kết;
h. Thuật ngữ "vận tải quốc tế"
có nghĩa là bất cứ sự vận chuyển nào bằng máy bay hoặc tàu, thuyền được thực hiện
bởi một xí nghiệp của một Nước ký kết, trừ trường hợp khi chiếc tàu, thuyền hoặc
máy bay đó chỉ hoạt động giữa những địa điểm trong Nước ký kết kia; và
i. Thuật ngữ "nhà chức trách
có thẩm quyền" có nghĩa, trong trường hợp đối với Việt Nam, là ông Bộ trưởng
Bộ Tài chính hoặc người đại diện được ủy quyền của Bộ trưởng, và, trong trường
hợp đối với Thái Lan là ông Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc người đại diện được ủy
quyền của Bộ trưởng.
2. Trong khi một Nước ký kết áp dụng
Hiệp định này, mọi thuật ngữ chưa được định nghĩa trong Hiệp định sẽ có nghĩa
theo như định nghĩa trong luật pháp của Nước đó đối với các loại thuế mà Hiệp định
này áp dụng, trừ trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác.
ĐIỀU 4. ĐỐI TƯỢNG CƯ TRÚ
1. Theo nghĩa trong Hiệp định này,
thuật ngữ "đối tượng cư trú của một Nước ký kết" có nghĩa là bất cứ đối
tượng nào, mà theo luật pháp của Nước đó, là đối tượng chịu thuế căn cứ vào nhà
ở, nơi cư trú, địa điểm đăng ký thành lập, trụ sở điều hành của đối tượng đó hoặc
các tiêu chuẩn khác có tính chất tương tự. Tuy nhiên, thuật ngữ này không bao gồm
các đối tượng là đối tượng chịu thuế tại Nước đó chỉ đối với thu nhập từ các
nguồn tại Nước đó.
2. Trường hợp theo những quy định tại
khoản 1 khi một cá nhân là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết, thì thân phận
cư trú của cá nhân đó sẽ được xác định như sau:
a. cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng
cư trú của Nước mà tại đó cá nhân đó có nhà ở thường trú; nếu cá nhân đó có nhà
ở thường trú ở cả hai Nước, thì cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú của
Nước mà cá nhân đó có các quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ hơn (trung tâm của
các quyền lợi chủ yếu);
b. nếu như không thể xác định được
Nước mà ở đó cá nhân đó có trung tâm các quyền lợi chủ yếu, hoặc nếu cá nhân đó
không có nhà ở thường trú ở cả hai Nước thì cá nhân đó được coi là đối tượng cư
trú của Nước mà cá nhân đó thường sống;
c. nếu cá nhân đó thường sống ở hai
Nước hay không sống thường xuyên ở Nước nào thì cá nhân đó được coi là đối tượng
cư trú của Nước mà cá nhân đó mang quốc tịch;
d. nếu cá nhân đó mang quốc tịch của
cả hai Nước ký kết hoặc không mang quốc tịch của hai Nước này, thì nhà chức
trách có thẩm quyền của các Nước ký kết sẽ giải quyết vấn đề đó bằng thỏa thuận
chung.
3. Trường hợp do những quy định tại
khoản 1, khi một đối tượng không phải cá nhân, là đối tượng cư trú của cả hai
Nước ký kết, lúc đó, đối tượng trên sẽ được coi là đối tượng cư trú của Nước
nơi đối tượng đó đăng ký thành lập.
ĐIỀU 5. CƠ SỞ
THƯỜNG TRÚ
1. Theo Hiệp định này, thuật ngữ
"cơ sở thường trú" có nghĩa là một cơ sở kinh doanh cố định mà qua đó
xí nghiệp thực hiện toàn bộ hay một phần hoạt động kinh doanh của mình.
2. Thuật ngữ "cơ sở thường
trú" chủ yếu bao gồm:
a. trụ sở điều hành;
b. chi nhánh;
c. văn phòng;
d. nhà máy;
e. xưởng;
f. mỏ, giếng dầu hoặc khí, mỏ đá hoặc
bất kỳ địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên khác;
g. một địa điểm xây dựng, công
trình xây dựng, lắp đặt hoặc lắp ráp hay các hoạt động giám sát những cơ sở
trên, nếu thời gian hoạt động của địa điểm, công trình hay hoạt động đó kéo dài
liên tục vượt quá sáu tháng.
3. Mặc dù có những quy định trên của
Điều này, thuật ngữ "cơ sở thường trú" không bao gồm:
a. việc sử dụng các phương tiện
dành riêng cho mục đích lưu kho, trưng bày hoặc chuyển giao hàng hóa hay tài sản
của xí nghiệp;
b. việc duy trì kho hàng hóa hoặc
tài sản của xí nghiệp chỉ với mục đích lưu kho, trưng bày hoặc giao hàng;
c. việc duy trì kho hàng hóa hoặc
tài sản của xí nghiệp với mục đích chỉ để cho xí nghiệp khác gia công;
d. việc duy trì một cơ sở kinh
doanh cố định chỉ nhằm mục đích mua hàng hóa hoặc tài sản hay để thu thập thông
tin cho xí nghiệp đó;
e. việc duy trì một cơ sở kinh
doanh cố định chỉ để phục vụ cho việc quảng cáo, hay để cung cấp thông tin, để
nghiên cứu khoa học hay các hoạt động tương tự có tính chất chuẩn bị hay phụ trợ
cho xí nghiệp;
f. việc duy trì một cơ sở kinh
doanh cố định chỉ để phục vụ cho bất kỳ sự kết hợp nào của các hoạt động đã được
nêu từ điểm a. đến e. với điều kiện toàn bộ hoạt động của cơ sở kinh doanh cố định
bắt nguồn từ sự kết hợp này có tính chất chuẩn bị hay phụ trợ.
4. Mặc dù có những quy định tại khoản
1 và 2, trường hợp một đối tượng - trừ đại lý có tư cách độc lập được điều chỉnh
bởi khoản 5 - hoạt động thay mặt cho một xí nghiệp, có và thông thường thực hiện
tại một Nước ký kết thẩm quyền ký kết các hợp đồng mang tên xí nghiệp đó thì xí
nghiệp đó sẽ được coi là có cơ sở thường trú tại Nước đó đối với các hoạt động
mà đối tượng này thực hiện cho xí nghiệp, trừ khi các hoạt động của đối tượng
này được giới hạn trong các hoạt động ghi tại khoản 3 mà những hoạt động này nếu
được thực hiện thông qua một cơ sở kinh doanh cố định thì sẽ không làm cho cơ sở
kinh doanh cố định đó trở thành một cơ sở thường trú theo như các quy định tại
khoản này.
5. Một xí nghiệp của một Nước ký kết
sẽ không được coi là có cơ sở thường trú ở Nước ký kết kia nếu xí nghiệp đó chỉ
thực hiện hoạt động kinh doanh tại Nước kia thông qua một đại lý môi giới, một đại
lý hoa hồng hoặc bất kỳ một đại lý nào có tư cách độc lập với điều kiện những đối
tượng này chỉ hoạt động trong khuôn khổ kinh doanh thông thường của họ.
6. Việc một công ty là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết kiểm soát hoặc chịu sự kiểm soát bởi một công ty là đối
tượng cư trú của Nước ký kết kia hoặc đang tiến hành hoạt động kinh doanh tại
Nước kia (có thể thông qua một cơ sở thường trú hay dưới hình thức khác) sẽ
không làm cho bất kỳ công ty nào trở thành cơ sở thường trú của công ty kia.
ĐIỀU 6. THU NHẬP TỪ BẤT ĐỘNG SẢN
1. Thu nhập mà một đối tượng cư trú
tại một Nước ký kết thu được từ bất động sản (kể cả thu nhập từ lâm nghiệp hoặc
nông nghiệp) nằm tại Nước ký kết kia thì có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thuật ngữ "bất động sản"
sẽ có nghĩa theo như luật pháp của Nước nơi có bất động sản đó. Trong mọi trường
hợp, thuật ngữ này sẽ bao gồm cả những phần tài sản phụ kèm theo bất động sản,
đàn gia súc và thiết bị sử dụng trong nông nghiệp và lâm nghiệp, các quyền lợi
được áp dụng theo như những quy định tại luật chung về điền sản, quyền sử dụng
bất động sản, và quyền được hưởng các khoản thanh toán cố định hoặc thay đổi dưới
dạng tiền công cho việc khai thác hoặc quyền khai thác các mỏ, nguồn khoáng sản
và các tài nguyên thiên nhiên khác; các tàu, thuyền và máy bay không được coi
là bất động sản.
3. Những quy định ở khoản 1 sẽ áp dụng
đối với thu nhập phát sinh từ việc sử dụng trực tiếp, cho thuê hay sử dụng các
loại bất động sản dưới bất kỳ hình thức nào khác.
4. Những quy định tại khoản 1 và 3
cũng sẽ áp dụng cho thu nhập từ bất động sản của một xí nghiệp và đối với thu
nhập từ bất động sản được sử dụng để thực hiện các hoạt động dịch vụ cá nhân độc
lập.
ĐIỀU 7. LỢI TỨC DOANH NGHIỆP
1. Thu nhập hay
lợi tức của xí nghiệp tại một Nước ký kết sẽ chỉ chịu thuế tại Nước đó, trừ trường
hợp xí nghiệp có tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một
cơ sở thường trú tại Nước kia. Nếu xí nghiệp có hoạt động kinh doanh theo cách
trên, thì các khoản thu nhập hay lợi tức của xí nghiệp có thể bị đánh thuế tại
Nước kia, nhưng chỉ trên phần thu nhập hay lợi tức phân bổ cho cơ sở thường trú
đó.
2. Thể theo các quy định tại khoản
3, khi một xí nghiệp của một Nước ký kết tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước
ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú tại Nước kia thì tại mỗi Nước ký kết
sẽ có những khoản thu nhập hay lợi tức được phân bổ cho cơ sở thường trú nói
trên mà cơ sở đó có thể thu được, nếu nó là một xí nghiệp riêng, tách biệt cùng
tham gia vào các hoạt động tương tự trong cùng những điều kiện và có quan hệ
hoàn toàn độc lập với xí nghiệp mà cơ sở đó được coi là cơ sở thường trú.
3. Trong khi xác định lợi tức của một
cơ sở thường trú, cơ sở này sẽ được phép khấu trừ các khoản chi phí phát sinh
phục vụ cho hoạt động kinh doanh của cơ sở thường trú này, bao gồm chi phí điều
hành và chi phí quản lý chung phát sinh tại Nước nơi cơ sở thường trú đó đóng
hay bất kỳ nơi nào khác.
4. Tại một Nước ký kết nếu vẫn thường
xác định lợi tức được phân bổ cho một cơ sở thường trú dựa trên cơ sở tỷ lệ tổng
doanh thu của xí nghiệp hay của cơ sở thường trú, hay trên cơ sở phân bổ tổng lợi
tức của xí nghiệp thành các phần khác nhau, thì không có nội dung nào tại khoản
2 sẽ ngăn cản Nước này xác định lợi tức chịu thuế theo phương pháp phân bổ nói
trên; tuy nhiên, phương pháp phân bổ được chấp nhận đó phải có những kết quả
phù hợp với nguyên tắc của Điều này.
5. Không một khoản thu nhập hay lợi
tức nào sẽ được phân bổ cho một cơ sở thường trú nếu cơ sở thường trú đó chỉ
đơn thuần mua hàng hóa hoặc tài sản cho xí nghiệp đó.
6. Theo những quy định tại các khoản
trên, thu nhập hay lợi tức, được phân bổ cho một cơ sở thường trú sẽ được xác định
hàng năm theo cùng một phương pháp, trừ khi có đủ lý do chính đáng để làm theo
phương pháp khác.
7. Khi thu nhập hay lợi tức bao gồm
các khoản thu nhập được đề cập riêng tại các Điều khác của Hiệp định này thì
các quy định của các Điều khoản đó sẽ không bị ảnh hưởng bởi những quy định tại
Điều khoản này.
ĐIỀU 8. VẬN TẢI BIỂN VÀ VẬN TẢI
HÀNG KHÔNG
1. Thu nhập hay lợi tức do một xí
nghiệp của một Nước ký kết thu được từ hoạt động của máy bay trong vận tải quốc
tế sẽ chỉ chịu thuế tại Nước ký kết đó.
2. Thu nhập hay lợi tức do một xí
nghiệp của một Nước ký kết thu được từ hoạt động của tàu, thuyền trong vận tải
quốc tế có thể chịu thuế tại Nước ký kết kia, song số thuế đánh tại Nước kia sẽ
được giảm 50% tổng số thuế phải nộp tại Nước đó.
3. Các quy định tại khoản 1 và 2
cũng sẽ áp dụng đối với thu nhập hay lợi tức thu được từ việc tham gia vào một
tổ hợp, một liên doanh hoặc một hãng hoạt động quốc tế.
ĐIỀU 9. NHỮNG XÍ NGHIỆP LIÊN KẾT
Khi:
a. một xí nghiệp của một Nước ký kết
tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn
vào một xí nghiệp của Nước ký kết kia, hoặc
b. các đối tượng cùng tham gia trực
tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn vào một xí nghiệp
của một Nước ký kết và vào một xí nghiệp của Nước ký kết kia,
và trong cả hai trường hợp, trong mối
quan hệ tài chính và thương mại giữa hai xí nghiệp trên có những điều kiện được
đưa ra hoặc áp đặt khác với điều kiện được đưa ra giữa các xí nghiệp độc lập,
lúc đó mọi khoản thu nhập hay lợi tức mà một xí nghiệp có thể thu được nếu
không có những điều kiện trên nhưng nay vì những điều kiện này mà xí nghiệp đó
không thu được, sẽ vẫn được tính vào tổng số các khoản thu nhập hay lợi tức của
xí nghiệp đó và phải nộp thuế tương ứng.
ĐIỀU 10. TIỀN LÃI CỔ PHẦN
1. Tiền lãi cổ phần do một công ty
là đối tượng cư trú của một Nước ký kết trả cho một đối tượng cư trú của một Nước
ký kết kia có thể bị đánh thuế ở Nước kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền lãi
cổ phần đó có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi công ty trả tiền lãi cổ phần
là đối tượng cư trú và theo luật pháp của nước đó, nhưng nếu người nhận là người
thực hưởng tiền lãi cổ phần, thuế khi đó phải nộp sẽ không vượt quá 15% tổng số
tiền lãi cổ phần. Khoản này sẽ không ảnh hưởng đến việc đánh thuế công ty đối với
những khoản lợi tức dùng để trả các khoản tiền lãi cổ phần này.
3. Thuật ngữ "tiền lãi cổ phần"
được sử dụng trong Điều này có nghĩa là thu nhập từ cổ phần, cổ phần về mỏ, cổ
phần của người sáng lập hoặc các quyền lợi khác, không kể các khoản nợ, được hưởng
lợi tức, cũng như thu nhập từ các quyền lợi công ty khác mà được luật thuế áp dụng
như thu nhập từ cổ phần theo luật pháp của Nước mà công ty chia lãi cổ phần là
đối tượng cư trú.
4. Những quy định tại khoản 1 và 2
sẽ không áp dụng trong trường hợp đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi cổ phần
là đối tượng cư trú tại một Nước ký kết có tiến hành hoạt động kinh doanh tại
Nước ký kết kia, nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú, thông
qua một cơ sở thường trú nằm tại Nước đó, hay tiến hành tại Nước kia các hoạt động
dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định nằm tại Nước kia, và quyền
nắm giữ cổ phần có số tiền lãi cổ phần được hưởng có sự liên hệ thực tế đến cơ
sở thường trú hoặc cơ sở cố định nói trên. Trong trường hợp nêu trên, các quy định
tại Điều 7 hoặc Điều 14, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Khi một công ty là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết có lợi tức hay thu nhập phát sinh từ Nước ký kết kia
thì Nước kia có thể không đánh thuế đối với những khoản tiền lãi cổ phần do
công ty này trả, trừ trường hợp những khoản tiền lãi cổ phần này được trả cho đối
tượng cư trú của Nước ký kết kia, hoặc quyền nắm giữ cổ phần có các khoản tiền
lãi cổ phần được trả có sự liên hệ thực tế với một cơ sở thường trú hay một cơ
sở cố định tại Nước ký kết kia, đồng thời Nước ký kết kia cũng không buộc các
khoản lợi tức không chia của công ty trên phải chịu thuế đối với những khoản lợi
tức không chia của công ty, cho dù những khoản tiền lãi cổ phần được chia hoặc
các khoản lợi tức không chia bao gồm toàn bộ hay một phần các khoản lợi tức hoặc
thu nhập phát sinh tại Nước kia. Không có nội dung nào tại khoản này được giải
thích là không cho phép một Nước ký kết đánh thuế thu nhập theo luật pháp của
Nước đó trên phần lợi tức do cơ sở thường trú nằm tại Nước đó phân phối.
ĐIỀU 11. LÃI TIỀN CHO VAY
1. Lãi tiền cho vay phát sinh tại một
Nước ký kết và được trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh
thuế tại Nước kia.
2. Tuy nhiên, khoản tiền lãi này
cũng có thể bị đánh thuế ở Nước ký kết nơi phát sinh lãi và theo luật pháp của
Nước đó, nhưng nếu người nhận là người thực hưởng các khoản lãi này thì mức thuế
khi đó được tính sẽ không vượt quá:
a. 10% của tổng số khoản lãi tiền
cho vay nếu do một tổ chức tài chính (kể cả công ty bảo hiểm) nhận được;
b. 15% của tổng số khoản lãi tiền
cho vay trong những trường hợp khác.
3. Mặc dù đã có những quy định tại
khoản 2, lãi tiền cho vay phát sinh tại một Nước ký kết và trả cho Chính phủ của
Nước ký kết kia sẽ được miễn thuế tại Nước ký kết thứ nhất. Theo nội dung của
Điều này, thuật ngữ "Chính phủ"
a. trong trường hợp đối với Việt
Nam có nghĩa là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và sẽ bao gồm:
(i) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ;
(ii) các cơ quan chính quyền địa phương; và (iii) những tổ chức có vốn do Chính
phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hay bất kỳ cơ quan địa phương sở hữu
toàn bộ theo như thỏa thuận trong từng thời gian giữa các nhà chức trách có thẩm
quyền của hai Nước ký kết;
b. trong trường hợp đối với Thái
Lan có nghĩa là Chính phủ Vương quốc Thái Lan và sẽ bao gồm:
(i) Ngân hàng Thái Lan; (ii) các cơ
quan chính quyền địa phương; và (iii) những tổ chức có vốn do Chính phủ Vương
quốc Thái Lan hay bất kỳ cơ quan địa phương sở hữu toàn bộ theo như thỏa thuận
trong từng thời gian giữa các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết.
4. Thuật ngữ "lãi tiền cho
vay" dùng ở Điều này có nghĩa là thu nhập từ các khoản cho vay dưới bất kỳ
dạng nào, có hay không được bảo đảm bằng thế chấp và có hoặc không có quyền được
hưởng lợi tức của người đi vay, và đặc biệt là khoản thu nhập từ chứng khoán của
nhà nước và thu nhập từ công trái hoặc trái phiếu, kể cả tiền thưởng và giải
thưởng gắn liền với các chứng khoán, công trái hoặc trái phiếu đó cũng như thu
nhập giống như thu nhập từ khoản tiền cho vay theo luật thuế của Nước ký kết
nơi thu nhập phát sinh. Các khoản tiền phạt do thanh toán chậm sẽ không được
coi là lãi tiền cho vay theo như nội dung của Điều khoản này.
5. Những quy định tại khoản 1 và 2
sẽ không được áp dụng nếu người thực hưởng các khoản tiền lãi là đối tượng cư
trú tại một Nước ký kết, tiến hành hoạt động doanh nghiệp tại Nước ký kết kia
nơi phát sinh các khoản lãi tiền vay thông qua một cơ sở thường trú tại Nước
kia hoặc thực hiện tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua
một cơ sở cố định nằm tại Nước kia, và khoản nợ có các khoản lãi được trả có sự
liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hay cơ sở cố định đó. Trong trường hợp
này, các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
6. Lãi tiền cho vay sẽ được coi là
phát sinh tại một Nước ký kết khi người trả chính là Nhà nước đó, chính quyền
cơ sở, chính quyền địa phương, hoặc đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy nhiên,
khi một đối tượng trả lãi có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hay một cơ
sở cố định liên quan đến các khoản nợ đã phát sinh các khoản lãi này, và khoản
tiền lãi đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì dù đối tượng đó
có là đối tượng cư trú của một Nước ký kết hay không, khoản tiền lãi này sẽ vẫn
được coi là phát sinh ở Nước mà cơ sở thường trú hay cơ sở cố định đó đóng.
7. Trường hợp do mối quan hệ đặc biệt,
giữa đối tượng trả lãi và đối tượng hưởng lãi hoặc giữa cả hai đối tượng và các
đối tượng khác, khoản lãi tiền vay đối với khoản nợ vượt quá khoản tiền được thỏa
thuận giữa đối tượng đi vay và đối tượng thực hưởng khi không có mối quan hệ
này, thì khi đó, các quy định của Điều khoản này sẽ chỉ áp dụng đối với các khoản
tiền thanh toán khi không có mối quan hệ đặc biệt trên. Trong trường hợp này,
phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo luật pháp của từng Nước ký kết có xem
xét tới các quy định khác của Hiệp định này.
ĐIỀU 12. TIỀN BẢN QUYỀN
1. Tiền bản
quyền phát sinh tại một Nước ký kết và được trả cho đối tượng cư trú của Nước
ký kết có thể phải chịu thuế tại Nước kia.
2. Tuy nhiên,
những khoản tiền bản quyền đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát
sinh và theo luật của Nước này nhưng nếu người nhận là người thực hưởng thì mức
thuế được tính sẽ không vượt quá 15% tổng số tiền bản quyền được trả.
3. Thuật ngữ
"tiền bản quyền" được sử dụng trong Điều này có nghĩa là các khoản
thanh toán ở bất kỳ dạng nào được trả cho việc sử dụng, hoặc quyền sử dụng, bản
quyền tác giả của một tác phẩm văn học, nghệ thuật hay khoa học, kể cả phim điện
ảnh hoặc các loại phim khác hoặc các loại băng dùng trong phát thanh và truyền
hình, bằng phát minh, nhãn hiệu thương mại, thiết kế hoặc mẫu, đồ án, công thức
hoặc quy trình bí mật hoặc quyền sử dụng hoặc việc sử dụng thiết bị công nghiệp,
thương nghiệp, hoặc khoa học, hay trả cho thông tin liên quan đến các kinh nghiệm
công nghiệp, thương nghiệp hoặc khoa học.
4. Những quy định tại khoản 1 và 2
sẽ không áp dụng nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền bản quyền, là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết, tiến hành hoạt động doanh nghiệp ở Nước ký kết kia
nơi mà có khoản tiền bản quyền phát sinh, thông qua một cơ sở thường trú nằm tại
Nước kia, hoặc tiến hành tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập
thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia, và quyền hay tài sản có các khoản tiền
bản quyền được trả có sự quan hệ thực tế với cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định
đó. Trong những trường hợp này, các quy định của Điều 7 hoặc Điều 14 tùy theo từng
trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Tiền bản quyền sẽ được coi là
phát sinh tại một Nước ký kết khi đối tượng trả tiền bản quyền chính là Nhà nước
đó, chính quyền cơ sở, chính quyền địa phương hoặc là đối tượng cư trú của Nước
đó. Tuy nhiên, khi một đối tượng trả tiền bản quyền, là hay không là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết, có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hay một
cơ sở cố định liên quan đến trách nhiệm trả tiền bản quyền đã phát sinh, và tiền
bản quyền đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì khoản tiền bản
quyền này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước nơi có cơ sở thường trú hay cơ sở
cố định đó.
6. Trường hợp vì mối quan hệ đặc biệt
giữa đối tượng trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên với
các đối tượng khác, khoản tiền bản quyền được trả đối với việc sử dụng, quyền
hoặc thông tin vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng trả tiền và đối
tượng thực hưởng khi không có mối quan hệ đặc biệt này, thì các quy định của Điều
khoản này sẽ chỉ áp dụng đối với khoản tiền thanh toán khi không có mối quan hệ
trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo luật của
từng Nước ký kết có xem xét đến các quy định khác của Hiệp định này.
ĐIỀU 13. LỢI TỨC TỪ CHUYỂN NHƯỢNG
TÀI SẢN
1. Lợi tức do một đối tượng cư trú
của một Nước ký kết thu được từ việc chuyển nhượng bất động sản được nêu ở Điều
6, và nằm tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Những khoản lợi tức từ việc chuyển
nhượng động sản là một phần của tài sản kinh doanh của một cơ sở thường trú mà
một xí nghiệp của một Nước ký kết này có tại Nước ký kết kia hoặc động sản thuộc
một cơ sở cố định của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết có ở Nước ký kết
kia để tiến hành hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập kể cả những lợi tức từ việc
chuyển nhượng cơ sở thường trú đó (riêng cơ sở thường trú đó hoặc cùng với toàn
bộ xí nghiệp) hoặc cơ sở cố định đó, có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
3. Lợi tức do một xí nghiệp của một
Nước ký kết thu được từ việc chuyển nhượng tàu, thuyền hoặc máy bay trong vận tải
quốc tế hoặc động sản liên quan đến hoạt động của những tàu, thuyền hay máy bay
này sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết đó.
4. Lợi tức từ việc chuyển nhượng bất
kỳ tài sản nào khác với những tài sản đã được nêu ở khoản 1, 2 và 3 sẽ chỉ bị
đánh thuế tại Nước nơi mà người chuyển nhượng là đối tượng cư trú. Không nội
dung nào tại khoản này sẽ ngăn cản bất kỳ Nước ký kết nào đánh thuế trên lợi tức
hay thu nhập từ việc bán hay chuyển nhượng cổ phần hay các chứng khoán khác.
ĐIỀU 14. HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ CÁ
NHÂN ĐỘC LẬP
1. Thu nhập do một đối tượng cư trú
của một Nước ký kết thu được từ các hoạt động dịch vụ ngành nghề hay các hoạt động
có tính chất độc lập khác sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ khi nếu đối tượng
đó thường xuyên có một cơ sở cố định ở Nước ký kết kia để tiến hành hoạt động của
mình trong khoảng thời gian hay nhiều khoảng thời gian gộp lại đến và vượt quá
183 ngày trong năm tài chính đó; trong trường hợp này chỉ có phần thu nhập được
phân bổ cho cơ sở cố định này có thể phải nộp thuế tại Nước kia.
2. Thuật ngữ "dịch vụ ngành
nghề" bao gồm chủ yếu những hoạt động khoa học, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục
hay giảng dạy mang tính chất độc lập cũng như các hoạt động độc lập của các thầy
thuốc, bác sĩ, luật sư, kỹ sư, kiến trúc sư, bác sĩ nha khoa và kế toán viên.
ĐIỀU 15. HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ CÁ
NHÂN PHỤ THUỘC
1. Thể theo các quy định tại Điều
16, 18 và 19, các khoản tiền lương và các khoản tiền công tương tự khác do một
đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm công sẽ chỉ chịu
thuế tại Nước đó, trừ khi công việc của đối tượng đó được thực hiện tại Nước ký
kết kia. Nếu công việc lao động được thực hiện như vậy, số tiền công trả cho
lao động đó có thể phải nộp thuế tại Nước kia.
2. Mặc dù có những quy định tại khoản
1, tiền công lao động của một đối tượng cư trú tại một Nước ký kết thu được từ
lao động làm công tại Nước ký kết kia sẽ chỉ phải nộp thuế tại Nước thứ nhất nếu:
a. người nhận tiền công có mặt ở nước
kia trong một thời gian hoặc nhiều thời gian gộp lại không quá 183 ngày trong
năm tài chính, và
b. chủ lao động hay người đại diện
chủ lao động trả tiền công lao động không phải là đối tượng cư trú tại Nước
kia, và
c. số tiền công không phải phát
sinh tại một cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định mà người chủ lao động có tại
Nước kia.
3. Mặc dù có những quy định trên của
Điều này, tiền công từ lao động làm trên tàu, thuyền hoặc máy bay trong vận tải
quốc tế, do một xí nghiệp của một Nước ký kết điều hành sẽ chỉ phải nộp thuế tại
Nước đó.
ĐIỀU 16. THÙ LAO CHO GIÁM ĐỐC
Các khoản thù lao cho giám đốc và
các khoản thanh toán tiền tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết nhận được với tư cách là thành viên của ban giám đốc công ty là đối tượng
cư trú của Nước kia có thể phải nộp thuế ở Nước kia.
ĐIỀU 17. NGHỆ SĨ VÀ VẬN ĐỘNG
VIÊN
1. Mặc dù có những quy định tại Điều
14 và 15, thu nhập của một đối tượng cư trú của Nước ký kết thu được với tư
cách là người biểu diễn như diễn viên sân khấu, điện ảnh, phát thanh hoặc truyền
hình, hoặc nhạc công hoặc với tư cách là vận động viên, từ những hoạt động cá
nhân của mình thực hiện tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế ở Nước kia.
2. Trường hợp thu nhập liên quan đến
các hoạt động trình diễn cá nhân của người biểu diễn hoặc vận động viên nhưng
không được trả cho bản thân người biểu diễn hoặc vận động viên, mà trả cho một
đối tượng khác thì thu nhập này có thể phải nộp thuế tại Nước ký kết nơi diễn
ra những hoạt động trình diễn của người biểu diễn hoặc vận động viên, mặc dù có
những quy định tại Điều 7, 14 và 15.
3. Những quy định tại khoản 1 và 2
sẽ không áp dụng cho khoản tiền công, lợi tức, lương và các khoản thu nhập
tương tự khác do nghệ sĩ và vận động viên thu được từ các hoạt động tiến hành tại
một Nước ký kết, nếu đợt trình diễn tại Nước ký kết đó chủ yếu do quỹ công của
Nước ký kết hỗ trợ.
ĐIỀU 18. TIỀN LƯƠNG HƯU
Thể theo các quy định tại khoản 2 của
Điều 19, tiền lương hưu và các khoản tiền công tương tự được trả cho một đối tượng
cư trú của một Nước ký kết do các công việc đã làm trước đây sẽ chỉ chịu thuế ở
Nước đó.
ĐIỀU 19. PHỤC VỤ CHÍNH PHỦ
1. a. Tiền công lao động, trừ tiền
lương hưu, do một Nước ký kết hoặc một cơ quan chính quyền cơ sở hoặc chính quyền
địa phương trả cho một cá nhân với việc phục vụ cho Nhà nước hoặc chính quyền
cơ sở hoặc chính quyền địa phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế ở Nước đó.
b. Tuy nhiên, khoản tiền công lao động
này sẽ chỉ bị đánh thuế ở Nước ký kết kia nếu việc phục vụ này được thực hiện tại
Nước kia và nếu cá nhân này là đối tượng cư trú của Nước kia, đồng thời:
(i) là đối tượng mang quốc tịch của
Nước kia; hoặc (ii) không trở thành đối tượng cư trú của Nước kia chỉ đơn thuần
vì thực hiện những công việc trên.
2. a. Bất kỳ khoản tiền lương hưu
nào do một Nước ký kết hoặc một cơ quan chính quyền địa phương của Nước này hoặc
do các quỹ của những cơ quan này lập ra trả cho một cá nhân đối với các công việc
phục vụ cho Nhà nước hoặc các cơ quan này sẽ chỉ chịu thuế ở Nước này.
b. Tuy nhiên, những khoản tiền
lương hưu này sẽ chỉ bị đánh thuế ở Nước ký kết kia nếu cá nhân này là đối tượng
cư trú, và là đối tượng mang quốc tịch của Nước ký kết kia.
3. Các quy định của Điều 15, 16 và
18 sẽ áp dụng đối với những khoản tiền công lao động và lương hưu đối với các
công việc liên quan đến kinh doanh được tiến hành bởi một Nước ký kết hoặc
chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của Nước đó.
ĐIỀU 20. SINH VIÊN
Những khoản tiền mà một sinh viên
hay thực tập sinh nhận được để trang trải các chi phí sinh hoạt, học tập hay
đào tạo mà người sinh viên hay thực tập sinh này ngay trước khi đến Nước này
đang và đã là người cư trú của Nước ký kết kia và hiện đến nước này chỉ với mục
đích học tập hay đào tạo thì không bị đánh thuế tại Nước này, với điều kiện nguồn
của những khoản tiền đó có nguồn gốc từ bên ngoài Nước này.
ĐIỀU 21. GIÁO SƯ, GIÁO VIÊN VÀ
NHÀ NGHIÊN CỨU
1. Một cá nhân là đối tượng cư trú
của một Nước ký kết ngay trước khi sang làm việc tại Nước ký kết kia, và là người
thể theo lời mời của trường đại học, cao đẳng, trung học hay cơ sở giáo dục
tương tự khác được nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết kia công nhận,
sang Nước ký kết kia trong một thời gian không quá 2 năm chỉ với mục đích giảng
dạy hay nghiên cứu hay với cả hai mục đích trên tại cơ sở giáo dục nói trên, sẽ
được miễn thuế tại Nước ký kết kia đối với khoản tiền thù lao nhận được từ hoạt
động giảng dạy hay nghiên cứu này.
2. Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với
thu nhập từ việc nghiên cứu nếu việc nghiên cứu này do một cá nhân thực hiện phục
vụ cho lợi ích công và ngay từ khi khởi đầu không phải nhằm phục vụ cho lợi ích
của một hoặc nhiều đối tượng cá thể khác.
ĐIỀU 22. THU NHẬP KHÁC
Những khoản thu nhập của một đối tượng
cư trú của một Nước ký kết, không được đề cập đến tại các điều khoản trên của
Hiệp định này sẽ chỉ bị đánh thuế ở nước nơi thu nhập đó phát sinh.
ĐIỀU 23. BIỆN PHÁP LOẠI TRỪ VIỆC
ĐÁNH THUẾ HAI LẦN
1. Các luật hiện hành tại từng Nước
ký kết sẽ vẫn tiếp tục điều chỉnh các loại thuế thu nhập tại từng Nước ký kết
trừ khi trong Hiệp định này có quy định rõ ràng khác với các luật đó. Khi thu
nhập phải nộp thuế tại cả hai Nước ký kết, việc tránh đánh thuế hai lần sẽ được
thực hiện theo những khoản sau của Điều này.
2. a. Khi đối tượng cư trú của Việt
Nam có thu nhập mà theo những quy định của bản Hiệp định này có thể phải nộp
thuế tại Thái Lan, Việt Nam sẽ cho phép trừ vào số thuế thu nhập của đối tượng
cư trú đó một khoản bằng số thuế đã nộp tại Thái Lan. Tuy nhiên, số thuế được
trừ đó sẽ không vượt quá phần thuế tại Việt Nam được tính cho khoản thu nhập đó
trước khi cho phép trừ.
b. Theo quy định tại điểm a. trên
đây, thuật ngữ "số thuế đã nộp tại Thái lan" sẽ được coi là bao gồm số
tiền thuế tại Thái Lan theo như các luật Thái Lan và phù hợp với Hiệp định này,
lẽ ra sẽ phải nộp nếu số thuế tại Thái Lan này không được miễn hoặc giảm theo:
(i) những quy định tại các Điều 31,
33, 34, 35(2), 35(3), 35(4) hay 36(4) của đạo luật khuyến khích đầu tư B.E.2520
(1977) và các quy định có liên quan, có hiệu lực tại ngày ký Hiệp định này hay
được sửa đổi chỉ trong phạm vi nhỏ sau ngày ký kết Hiệp định này; hay (ii) bất
kỳ biện pháp khuyến khích đặc biệt nào khác được xây dựng nhằm khuyến khích
phát triển kinh tế tại Thái Lan có thể được ban hành sau này nhằm sửa đổi hay bổ
sung cho những luật hiện hành với điều kiện phải có sự thỏa thuận giữa hai nhà
chức trách có thẩm quyền.
3. a. Khi đối tượng cư trú của Thái
Lan có thu nhập mà theo những quy định tại bản Hiệp định này có thể phải nộp
thuế tại Việt Nam, Thái Lan sẽ cho phép trừ vào số thuế thu nhập của đối tượng
cư trú đó một khoản bằng số thuế đã nộp tại Việt Nam. Tuy nhiên, số thuế được
trừ đó sẽ không vượt quá phần thuế tại Thái Lan được tính cho khoản thu nhập đó
trước khi cho phép trừ.
b. Theo quy định tại điểm a. trên
đây, thuật ngữ "số thuế đã nộp tại Thái Lan" sẽ được coi là bao gồm số
tiền thuế tại Thái Lan theo như các luật Thái Lan và phù hợp với Hiệp định này,
lẽ ra sẽ phải nộp nếu số thuế tại Thái Lan này không được miễn hoặc giảm theo:
(i) những quy định tại các Điều 31,
33, 34 ,35 (2), 35(3), 35(4) hay 36(4) của đạo luật khuyến khích đầu tư
B.E.2520 (1977) và các quy định có liên quan, có hiệu lực tại ngày ký Hiệp định
này hay được sửa đổi chỉ trong phạm vi nhỏ sau ngày ký kết Hiệp định này; hay
(ii) bất kỳ biện pháp khuyến khích đặc biệt nào khác được xây dựng nhằm khuyến
khích phát triển kinh tế tại Thái Lan có thể được ban hành sau này nhằm sửa đổi
hay bổ sung cho những luật hiện hành với điều kiện phải có sự thỏa thuận giữa
hai nhà chức trách có thẩm quyền.
ĐIỀU 24. CÁC THỦ TỤC THỎA THUẬN
SONG PHƯƠNG
1. Trường hợp một đối tượng là đối
tượng cư trú tại một Nước ký kết nhận thấy rằng việc giải quyết và xử lý của
nhà chức trách có thẩm quyền tại một hay cả hai Nước ký kết làm cho hay sẽ làm
cho đối tượng đó phải nộp thuế không đúng nội dung Hiệp định này, lúc đó đối tượng
này có thể giải trình trường hợp của mình với nhà chức trách có thẩm quyền của
Nước ký kết nơi đối tượng đó đang cư trú, mặc dù trong các luật trong nước của
các Nước ký kết đã quy định những chế độ xử lý khiếu nại. Trường hợp như trên
phải được gửi tới nhà chức trách có thẩm quyền trong vòng 3 năm kể từ khi có
thông báo xử lý đầu tiên dẫn đến khoản thuế phải nộp không đúng với quy định của
Hiệp định này.
2. Nhà chức trách có thẩm quyền sẽ
cố gắng nếu như việc khiếu nại là hợp lý và bản thân nhà chức trách đó không thể
đi đến một giải pháp thỏa đáng, phối hợp với nhà chức trách có thẩm quyền của
Nước ký kết kia để cùng giải quyết các khiếu nại, nhằm mục đích tránh đánh thuế
hai lần không phù hợp với nội dung của Hiệp định này.
3. Nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết sẽ cố gắng giải quyết bằng thỏa thuận chung mọi khó khăn, vướng
mắc nảy sinh trong quá trình giải thích hay áp dụng Hiệp định này. Nhà chức
trách có thẩm quyền cũng có thể trao đổi với nhau nhằm loại bỏ việc đánh thuế
hai lần trong các trường hợp chưa quy định tại Hiệp định này.
4. Nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết có thể trực tiếp thông báo cho nhau với mục đích nhằm đạt được
thỏa thuận theo nội dung của những khoản trên đây.
ĐIỀU 25. TRAO ĐỔI THÔNG TIN
1. Nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết sẽ trao đổi với nhau những thông tin cần thiết cho việc triển
khai thực hiện Hiệp định này hay các luật trong nước của từng Nước ký kết liên
quan đến các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng sao cho việc đánh thuế theo các
luật trong nước sẽ không trái với Hiệp định này. Mọi thông tin do một Nước ký kết
nhận được sẽ được giữ bí mật giống như thông tin thu nhận theo luật trong nước
của Nước này và chỉ được cung cấp cho các đối tượng hay các cơ quan chức trách
(bao gồm cả các tòa án, các cơ quan hành chính) có liên quan đến việc tính
toán, thu, cưỡng chế hay truy tố hoặc xác định các khiếu nại về các loại thuế
mà Hiệp định này áp dụng. Các đối tượng hoặc các cơ quan chức trách này sẽ chỉ
sử dụng các thông tin đó vào các mục đích nêu trên. Các đối tượng hoặc các cơ
quan đó có thể cung cấp các thông tin này trong quá trình tố tụng công khai của
tòa án hay trong các quyết định của tòa án.
2. Không có trường hợp nào những
quy định tại khoản 1 được giải thích là buộc một Nước ký kết có nghĩa vụ:
a. thực hiện các biện pháp hành
chính khác với luật pháp hay thông lệ về quản lý hành chính của Nước đó hay của
Nước ký kết kia; hay
b. cung cấp những thông tin không
thể tiết lộ được theo các bộ luật hay theo như quá trình quản lý hành chính
thông thường của Nước đó hay của Nước ký kết kia; hay
c. cung cấp những thông tin có thể
làm tiết lộ bí mật về mậu dịch, thương mại, công nghiệp, thương nghiệp hay bí mật
nghề nghiệp hoặc các phương thức kinh doanh; hoặc cung cấp những thông tin mà
việc tiết lộ chúng có thể trái với chính sách nhà nước.
ĐIỀU 26. CÁC VIÊN CHỨC NGOẠI
GIAO VÀ LÃNH SỰ
Những nội dung trong Hiệp định này
sẽ không ảnh hưởng đến những ưu đãi về thuế của các viên chức ngoại giao hay
lãnh sự theo những nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế hay những quy định của
các hiệp định đặc biệt.
ĐIỀU 27. ĐIỀU KHOẢN HIỆU LỰC
1. Hiệp định này sẽ được phê chuẩn
và các văn kiện được phê chuẩn sẽ được trao đổi tại Hà Nội sớm nhất.
2. Hiệp định này sẽ có hiệu lực kể
từ khi trao đổi các văn kiện được phê chuẩn và những điều khoản này sẽ được áp
dụng:
a. đối với các khoản thuế khấu trừ
tại gốc đánh trên những khoản tiền được thanh toán hay chuyển ra khỏi nước đó kể
từ ngày 1 tháng 1 của năm sau năm trao đổi văn kiện phê chuẩn Hiệp định;
b. đối với những khoản thuế khác
đánh trên thu nhập cho năm tính thuế hay kỳ hạn hạch toán bắt đầu từ ngày 1
tháng 1 của năm sau năm trao đổi văn kiện phê chuẩn Hiệp định.
ĐIỀU 28. ĐIỀU KHOẢN KẾT THÚC
Hiệp định này sẽ có hiệu lực vô thời
hạn, song mỗi Nước ký kết đều có thể gửi cho Nước kia thông qua con đường ngoại
giao văn bản thông báo về việc kết thúc Hiệp định trước ngày 30 tháng 6 của bất
kỳ năm dương lịch nào sau thời hạn 5 năm kể từ ngày Hiệp định này có hiệu lực.
Trong trường hợp đó Hiệp định sẽ hết
hiệu lực thi hành:
a. đối với những khoản thuế khấu trừ
tại gốc đánh trên những khoản tiền được thanh toán hay chuyển ra khỏi nước đó kể
từ ngày 1 tháng 1 của năm sau năm gửi thông báo về việc kết thúc Hiệp định;
b. đối với những khoản thuế khác
đánh trên thu nhập trong năm tính thuế hay kỳ hạn hạch toán bắt đầu từ sau ngày
1 tháng 1 của năm sau năm gửi thông báo kết thúc Hiệp định.
Để làm bằng chứng, những người được
ủy quyền dưới đây của từng Chính phủ đã ký vào Hiệp định này.
Hiệp định làm thành hai bản tại Hà
Nội ngày 23 tháng 12 năm 1992 theo công lịch, mỗi bản gồm các thứ tiếng Việt,
tiếng Thái và tiếng Anh. Các văn bản đều có giá trị như nhau, trường hợp hiểu
khác nhau thì sẽ dùng bản tiếng Anh làm căn cứ.
THAY
MẶT CHÍNH PHỦ
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
Hồ Tế
|
THAY
MẶT CHÍNH PHỦ
VƯƠNG QUỐC
THÁI LAN
BỘ TRƯỞNG BỘ NGOẠI GIAO
Prasong Soonsiri
|
Ghi chú: Hiệp định này có hiệu lực
kể từ ngày 29/12/1992.