BỘ
TƯ PHÁP
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
2225-HCTP
|
Hà
Nội, ngày 24 tháng 10 năm 1956
|
THÔNG TƯ
VỀ CHẤN CHỈNH VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN
BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP
Kính gửi: Các ông Tòa
án nhân dân các liên khu, khu, thành phố, tỉnh, châu
Quyền bào chữa được các văn bản
quy định : Sắc lệnh ngày 10-10-1945 duy trì tổ chức đoàn thể luật sư cũ, đồng
thời các sắc lệnh 69 ngày 18-06-1949 và 144 ngày 22-12-1949 mở rộng chế độ bào
chữa “Nguyên cáo, bị cáo và bị can có thể nhớ một công nhân không phải là luật
sư bênh vực cho mình. Nếu bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án có thể tự
mình hay theo lời yêu cầu của bị can, cử một người ra bào chữa cho bị can”.
Nay kiểm điểm lại việc thực hiện
quyền bào chữa của bị can trong công tác điều tra và xét xử về hình sự, Bộ có một
số nhận xét như sau:
1) Quyền tự bào chữa của bị can
không được coi trọng, nhất là trong thời gian gần đây:
- Trong lúc điều tra, thẩm cứu
cũng như thẩm vấn trước phiên tòa, có tòa án không tôn trọng quyền tự do bào chữa
của bị can, thường có hiện tượng mớm cung, bứu cung, trấn áp không để bị can được
tự do khai nại, đến nỗi nhân chứng khai có lợi cho bị can cũng bị trấn áp như bị
can, v.v…
- Bị can trước khi ra phiên tòa
không biết rõ nội dung buộc tội mình như thế nào để chuẩn bị việc bào chữa, vì
sau khi tuyên án cũng có tòa án không báo cho bị can biết họ có quyền chống án.
2) Thêm vào những thiếu sót sai
lầm đó, quyền chọn người bào chữa của bị can cũng không được thực hiện đầy đủ:
- Đoàn thể luật sư tạm ngừng hoạt
động trong kháng chiến, đã bắt đầu hoạt động từ ngày hòa bình lập lại, nhưng
cũng chưa được chú ý giúp đỡ để đẩy mạnh công tác của họ.
- Chế độ bào chữa nhân dân quy định
theo các sắc lệnh 69 và 144 nói trên chưa được xây dựng đến nơi đến chốn, vì
chúng ta chưa tích cực khắc phục những khó khăn trở ngại trong việc thực hiện
chế độ đó. Do đó bị can chưa sử dụng được một cách đầy đủ quyền chọn người bào
chữa cho mình.
3) Nguyên nhân chính của những
thiếu sót sai lầm trên là:
- Chúng ta chưa nhận thấy một
cách sâu sắc tầm quan trọng của quyền tự do bào chữa trong chế độ dân chủ nhân
dân của ta nói chung và trong nền tư pháp dân chủ nhân dân của ta nói riêng.
- Ý thức tôn trọng pháp luật của
Nhà nước của chúng ta còn thiếu sót nhiều.
Để đảm bảo chế độ pháp trị của
ta và thực hiện đúng mức quyền tự do bào chữa của bị can Bộ thấy cần đề ra hướng
sửa chữa như sau:
1) Cần có một quan niệm chính
xác về quyền tự do bào chữa của bị can và nhận rõ vị trí của bộ phận bào chữa
trong toàn bộ công tác tư pháp.
2) Trong khi chờ đợi nghiên cứu
chỉnh đốn chế độ bào chữa nhân dân và chế độ luật sư, cần phải thực hiện ngay
quyền tự bào chữa của bị can trong công tác điều tra và xét xử.
I. – CẦN QUAN
NIỆM VỀ QUYỀN TỰ DO BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN VÀ VỊ TRÍ CỦA BỘ PHẬN BÀO CHỮA TRONG
TOÀN BỘ CÔNG TÁC TƯ PHÁP NHƯ THẾ NÀO?
1) Dưới chế độ dân chủ nhân dân
quyền bào chữa là một quyền tự do dân chủ trọng yếu trong các quyền tự do dân
chủ của người công dân. Đại hội Luật gia dân chủ quốc tế họp vừa rồi đã nhận định
rằng quyền tự do bào chữa là “thành trì cần thiết cho các quyền tự do khác”.
Xâm phạm đến quyền tự do bào chữa thì không thể nào thực hiện được các quyền tự
do dân chủ khác, mặc nhiên thủ tiêu các quyền tự do đó. Vì vậy nó đã trở thành
một nguyên tắc tố tụng căn bản phải được tôn trọng và triệt để thực hiện.
2) Trong nền tư pháp dân chủ
nhân dân của ta chế độ bào chữa là một chế độ trọng yếu trong tố tụng của ta.
Nó giúp cho công tác xét xử tiến hành được toàn diện và khách quan hơn, xét xử
được chính xác, bênh vực được quyền lợi hợp pháp của người bị can đồng thời bảo
vệ pháp luật của Nhà nước.
Ở các nước dân chủ nhân dân và
xã hội chủ nghĩa, người ta cho rằng nếu bị can không được sử dụng đầy đủ quyền
bào chữa thì không gọi là có công lý; bởi vì trước mặt Công tố viện là cơ quan
đã nắm sự việc, đã quen việc dẫn chứng cớ, cũng như trước mặt cán bộ điều tra
là người dễ chủ quan trong công tác của mình, bị can cần được sử dụng đầy đủ
quyền tự do bào chữa và nhờ người khác bào chữa cho mình để chống cãi sự khống
tố không chính xác hoặc trình bày trình huống giảm nhẹ tội. Có như thế cuộc điều
tra, thẩm cứu cũng như thẩm vấn trước phiên tòa mới có tính chất kháng nghi và
tranh luận thì mới sáng tỏ sự việc, tìm ra sự thực, mới thực hiện được một
nguyên tắc tố tụng quan trọng là “trước khi tuyên án bị can phải coi như người
vô tội”.
3) Vị trí của bộ phận bào chữa
là một vị trí bình đẳng với Công tố viện. Chỉ trong chế độ dân chủ nhân dân và
xã hội chủ nghĩa mới thực hiện được nguyên tắc đó. Công tố ủy viên tại phiên
tòa không phải là một nhà chức trách có uy quyền riêng biệt mà là đương sự
nguyên cáo của việc kiện như bị can (và người bào chữa) là đương sự bị cáo: hai
bên có ngang quyền như nhau. Việc kháng định lại nguyên tắc bình đẳng giữa công
tố và bào chữa chỉ có thể tăng cường thêm lòng tin tưởng của nhân dân ở sự công
minh của tòa án trong chế độ dân chủ nhân dân của ta.
II. - CẦN THỰC
HIỆN QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN NHƯ THẾ NÀO?
1) Nói chung người bị can có quyền
tham gia tất cả quá trình điều tra xét xử. Cụ thể là:
- Bị can có quyền trình bày lời
lẽ bào chữa, khai nại, đưa ra chứng cớ mới, xin mời người làm chứng mới, mời
người giám định v.v…
- Bị can được đề xuất bất cứ một
thỉnh cầu nào hoặc phản đối bất cứ một thỉnh cầu nào của người khác trong quá
trình vụ án;
- Bị can lại có quyền trình bày
viết những lời thanh minh và những điều chỉnh thỉnh cầu của mình.
- Bị can phải được biết về nội
dung buộc tội trước ngày phiên tòa xét xử một thời gian cần thiết để bị can có
đủ thì giờ chuẩn bị việc bào chữa trước phiên tòa.
- Trong phiên tòa, bị can được
viện dẫn tất cả chứng cớ và lý lẽ để chứng minh rằng mình không có tội hoặc
trình bày những tình huống giảm nhẹ tội mà không bị ai cản trở.
- Sau khi cuộc thẩm vấn kết
thúc, bị can được nói lời cuối cùng. Bị can có quyền chống án trong thời hạn luật
định nếu họ không phục bản án xử sơ thẩm.
2) Bị can có quyền chọn luật sư
hoặc người công nhân khác bào chữa cho mình. Trong lúc chờ đợi chỉnh đốn tổ chức
bào chữa viên nơi nào không có luật sư nếu bị can tự chọn người bào chữa thời
tòa án sẽ xét chấp nhận theo tinh thần Nghị định 01-NĐ-VY ngày 12-01-1950 của Bộ
Tư pháp.
III. - MẤY ĐIỀU
MÀ CÔNG TỐ ỦY VIÊN VÀ TÒA ÁN CẦN CHÚ Ý THI HÀNH ĐỂ THỰC HIỆN ĐƯỢC THIẾT THỰC
QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN
1) Đồng thời với việc ra quyết định
khởi tố, phải báo cáo cho bị can biết họ bị truy tố về tội gì và nên giải quyết
cho họ biết nội dung quyền bào chữa của họ đã nói ở trên để họ biết mà sử dụng
(tự bào chữa, nhờ người bào chữa).
2) Nghị quyết đưa ra phiên tòa
xét xử cùng với nội dung cáo trạng phải tống dạt cho bị can (và cho tất cả người
bào chữa nếu có) ít nất là 3 ngày trước ngày phiên tòa.
3) Trong quá trình điều tra cũng
xét xử, tuyện đối không được mớm cung, bức cung hay trấn áp bị can bất cứ bằng
hình thức nào, hoặc dùng lời lẽ dụ dỗ, hứa hẹn để bị can nhận tội. Lời thú tội
của bị can không kết thúc cuộc thẩm cứu mà còn phải có bằng chứng xác minh mới
được dùng làm cơ sở để kết tội. Tòa án chỉ dựa trên những sự việc đã xác minh
rõ rệt ở phiên tòa mà kết luận.
4) Không nên có định kiến hễ người
bị truy tố là nhất định có tội mà đối xử như với người có tội; bị can trước khi
tuyên án được coi như có tội để tòa án có thái độ hoàn toàn khách quan.
5) Khi cuộc thẩm vấn phiên tòa kết
thúc, ông Chánh án phải hỏi một lần cuối cùng bị can có muốn nói thêm điều gì nữa
không .
6) Sau khi tuyên án, tòa án sơ
thẩm phải nói rõ cho bị can biết họ có quyền chống án và thời hạn chống án.
Tóm lại, chúng ta phải thực hiện
quyền bào chữa của bị can với ý thức thực sự coi trọng quyền lợi hợp pháp của bị
can, một quyền tự do dân chủ trọng yếu của người công dân dưới chế độ dân chủ
nhân dân, cho nên Công tố ủy viên và tòa án phải đặc biệt quan tâm giúp đỡ bị
can sử dụng đầy đủ quyền tự do bào chữa của họ, nhất là quyền tử bào chữa,
trong lúc chúng ta chưa có một tổ chức bào chữa viện đầy đủ để giúp đỡ họ.
Nhận được Thông tư này, các tòa
án nên tổ chức thảo luận để có một cơ quan niệm chính xác về quyền tự do bào chữa
của bị can, và liên hệ kiểm điểm để thấy rõ những thiếu sót và sai lầm của tòa
án trong công tác điều tra xét xử trong giữa vừa qua và kiên quyết sửa chữa.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP
Vũ Đình Hòe
|