HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: /2022/NQ-HĐTP
|
Hà Nội, ngày tháng năm 2022
|
DỰ THẢO
|
|
NGHỊ QUYẾT
HƯỚNG
DẪN MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24 tháng 11 năm 2014;
Căn cứ Luật
Hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 ngày 19 tháng 6 năm 2014;
Căn cứ Bộ
luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015;
Để áp dụng
đúng và thống nhất các quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp hôn
nhân và gia đình;
Sau khi có ý kiến của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Nghị quyết này
hướng dẫn một số vấn đề về giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quy
định của Luật Hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 ngày 19 tháng 6 năm 2014; Bộ
luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015.
Điều 2. Căn cứ cho ly hôn
1. Tòa án công
nhận thuận tình ly hôn đối với trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn khi đáp ứng
đủ các điều kiện sau:
a) Hai bên tự
nguyện ly hôn;
b) Đã thỏa thuận
về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên
cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con.
2. Trường hợp
thuận tình ly hôn thông qua hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì Tòa án ra quyết
định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các bên tham gia hòa giải,
đối thoại theo quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
3. Toà án quyết định cho ly hôn theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia
đình khi có căn cứ về
việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền,
nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
Bạo lực gia
đình bao gồm bạo lực vật chất, như: Vợ, chồng thường xuyên đánh đập, ngược đãi,
hành hạ làm cho người bị ngược đãi, hành hạ bị thương tích, tổn hại đến sức khỏe;
bạo lực tinh thần như: lăng mạ, sỉ nhục, xâm phạm danh dự, nhân phẩm và uy tín
khiến người bị ngược đãi bị tổn thất về danh dự, đau khổ về tinh thần.
4. Được coi là tình trạng của vợ chồng
trầm trọng khi:
Vợ,
chồng đánh đập, ngược đãi, hành hạ làm cho người bị ngược đãi, hành hạ
luôn bị giày vò về mặt tình cảm, bị tổn thất về danh dự, đau khổ về tinh thần
hoặc bị thương tích, tổn hại đến sức khỏe mà chưa đến mức xử lý về hình sự hoặc
đã bị xử phạt vi phạm hành chính đã được những người họ hàng của bên vợ
và chồng hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở,.
Vợ, chồng không
chung thủy với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc
người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở,
khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình;
5. Để có cơ sở nhận định đời sống chung
của vợ chồng không thể kéo dài được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của
vợ chồng đã đến mức trầm trọng như hướng dẫn tại khoản 2, khoản 3 Điều này.
Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hoà giải, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ
ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có
hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống
chung của vợ chồng không thể kéo dài được.
6. Mục
đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng
về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín
của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng;
không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng
muốn sống ra sao thì sống.
Điều 3. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
1. Cha, mẹ, con đã thành niên có đầy đủ năng lực hành vi dân
sự, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên
vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ
được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ
của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của
họ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình.
2. Cha, mẹ, người thân thích khác là cha, mẹ; ông, bà ruột,
anh ruột, chị ruột, em ruột, con thành niên của người bị bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn
nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
Điều 4. Trường hợp vợ hoặc chồng của người
bị Tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn
1.
Người vợ hoặc người chồng đồng thời yêu cầu Toà án tuyên bố người chồng hoặc
người vợ của mình mất tích và yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn. Trong trường
hợp này nếu Toà án tuyên bố người đó mất tích thì giải quyết cho ly hôn; nếu
Toà án thấy chưa đủ điều kiện tuyên bố người đó mất tích thì bác các yêu cầu của
người vợ hoặc người chồng.
2.
Người vợ hoặc người chồng đã bị Toà án tuyên bố mất tích theo yêu cầu của người
có quyền, lợi ích liên quan. Sau khi bản án của Toà án tuyên bố người vợ hoặc
người chồng mất tích đã có hiệu lực pháp luật thì người chồng hoặc người vợ của
người đó có yêu cầu xin ly hôn với người đó. Trong trường hợp này Toà án giải
quyết cho ly hôn.
3.
Khi Toà án giải quyết cho ly hôn với người tuyên bố mất tích thì cần chú ý giải
quyết việc quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích theo quy định tại Điều
69 của Bộ luật Dân sự.
Điều 5. Về thỏa thuận nuôi con
1. Khi giải quyết vụ án ly hôn nếu vợ chồng không thỏa thuận
được về người trực tiếp nuôi con chung thì Tòa án quyết định giao con cho một
bên trực tiếp nuôi dưỡng, nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện
vọng của con. Tòa án cân nhắc ý kiến của con và đưa ra quyết định, căn cứ vào
quyền lợi mọi mặt của con để giao con cho người kia có điều kiện nuôi con tốt
hơn trực tiếp nuôi dưỡng. Việc không lấy được ý kiến của các con không phải là
căn cứ để đình chỉ hay tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Trường hợp lợi ích
của trẻ em xung đột với lợi ích của bố mẹ thì ưu tiên bảo đảm lợi ích của con.
2. Khi xem xét quyền lợi mọi mặt của con thì Tòa án dựa vào
đánh giá tổng hợp dựa theo các tiêu chí sau: Ý kiến của con; Quyền của trẻ được
sống chung với người trực tiếp nuôi hoặc được duy trì mối quan hệ với người
cha, mẹ không trực tiếp nuôi; mối quan hệ của trẻ với từng người cha hoặc mẹ;
khả năng của cha, mẹ trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con
bao gồm cả khả năng bảo vệ trẻ khởi bị xâm hại, sao nhãng, bóc lột; mối quan
tâm, chia sẻ của con; sự ổn định, liên tục và giảm thiểu sự xáo trộn với môi
trường sống và giáo dục của trẻ; mong muốn của anh, chị, em (nếu có) được ở
cùng nhau; ưu tiên giao tất cả các con cho một bên cha, mẹ trực tiếp nuôi dưỡng
để bảo đảm ổn định tâm lý và tình cảm của trẻ em.
3. Việc lấy ý kiến của trẻ chưa thành niên cần bảo đảm các
yêu cầu sau:
a) Đảm bảo sự thân thiện và cách thức lấy ý kiến phù hợp để
trẻ em có thể bày tỏ đúng và đầy đủ ý kiến của mình; phải lấy ý kiến trẻ em tại
Phòng họp riêng mà không có sự tham gia của cha, mẹ để tránh gây áp lực tâm lý
cho trẻ em.
Trường hợp cần thiết thì có thể mời cán bộ bảo vệ trẻ em cấp
xã tham gia để trẻ em thêm tự tin khi bày tỏ ý kiến.
b) Không ép buộc trẻ em bày tỏ ý kiến; đồng thời không gây áp
lực, căng thẳng cho trẻ em khi bày tỏ ý kiến;
c) Cân nhắc ý kiến của trẻ em một cách phù hợp theo độ tuổi
và mức độ trưởng thành của trẻ em để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ
em.
4. Để hỗ trợ xây dựng đánh giá tổng quan theo khoản 2, Toà án
cần, theo quy định tại khoản 2 và 3 Điều 72 Luật Trẻ em năm 2016, yêu cầu cán bộ
bảo vệ trẻ em cấp xã tìm hiểu và cung cấp thông tin về tình trạng cá nhân và
gia đình của đứa trẻ để đưa ra quyết định phù hợp.
Điều 6. Cấp dưỡng nuôi con
Tiền
cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí cho việc nuôi dưỡng và học hành của
con và do các bên thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được
thì Tòa án quyết định mức cấp dưỡng ít nhất bằng 2/3 mức lương cơ sở và không
được thấp hơn 30% mức thu nhập bình quân của người có nghĩa vụ cấp dưỡng trong
06 tháng liền kề.
Điều 7. Phương thức cấp dưỡng nuôi con
Phương
thức cấp dưỡng do các bên thoả thuận định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm,
hàng năm hoặc một lần. Trường hợp các bên không thỏa thuận được thì Tòa án quyết
định phương thức cấp dưỡng hàng tháng hoặc phương thức khác phù hợp với nhu cầu,
lợi ích của con và điều kiện của người cấp dưỡng.
Điều 8. Hiệu lực của việc cấp dưỡng nuôi con
Thời
điểm cấp dưỡng nuôi con thực hiện theo thỏa thuận của các bên. Nếu các bên
không có thỏa thuận thì thời điểm cấp dưỡng tính từ ngày Tòa án ra bản án, quyết
định.
Điều
9. Nghĩa vụ chung về tài sản chung của vợ chồng
1.
Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình
theo quy định tại khoản 2 Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình.
2.
Nhu cầu thiết yếu là nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập,
khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho
cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình.
Điều
10. Việc định đoạt tài sản riêng của vợ chồng
1. Trường hợp tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng
riêng của vợ hoặc chồng đưa vào quản lý, sử dụng chung nếu tài sản sau quá
trình được đưa vào quản lý, sử dụng mà giá trị tài sản đó tăng lên so với lúc đầu
thì vợ, chồng phải chứng minh việc tăng lên này. Nếu việc tăng giá trị chứng
minh được là từ tài sản riêng của chủ sở hữu, chủ sử dụng thì việc định đoạt tài
sản không cần người vợ hoặc người chồng còn lại đồng ý. Ngược lại, nếu không chứng
minh việc tăng giá trị tài sản từ tài sản riêng của chủ sở hữu, chủ sử dụng thì
việc định đoạt cần phải có sự đồng ý của hai vợ chồng.
2.
Trường hợp tài sản riêng của vợ, chồng phát sinh hoa lợi, lợi tức mà hoa lợi, lợi
tức đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó
cần sự đồng ý của vợ, chồng.
Điều 11. Hiệu lực thỏa thuận xác lập chế độ tài sản chung vợ
chồng
1.
Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa
thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng
hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận có hiệu lực kể từ
ngày đăng ký kết hôn.
2.
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận, sửa đổi, bổ sung một phần
hoặc toàn bộ nội dung chế độ tài sản đó hoặc áp dụng chế độ tài sản theo luật định.
Thỏa thuận sửa đổi sung chế độ tài sản của vợ chồng phải được công chứng, chứng
thực theo quy định của pháp luật.
Điều 12. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
Trường
hợp Tòa án giải quyết phân chia tài sản chung của vợ chồng trong vụ án ly hôn nếu
thấy thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng vi phạm khoản 1 Điều 50 của Luật
Hôn nhân và gia đình thì Tòa án có quyền tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản
của vợ chồng bị vô hiệu.
Điều 13. Chia tài sản chung vợ chồng liên quan đến người thứ
ba
Trong vụ án ly
hôn, khi giải quyết yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng mà đương sự
(nguyên đơn hoặc bị đơn) có yêu cầu giải quyết quyền, nghĩa vụ về tài sản
đối với người thứ ba nhưng Tòa án triệu tập người thứ ba đến thì người thứ
ba không yêu cầu giải quyết, nguyên đơn và bị đơn vẫn giữ nguyên yêu
cầu thì Tòa án vẫn giải quyết quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng với
người thứ ba.
Trường hợp
này, trong bản án, Tòa án phải ghi nhận quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ, chồng
là chung hay riêng và giành quyền khởi kiện cho người thứ ba trong một vụ án
khác.
Điều 14. Thẩm quyền giải quyết của Tòa án trong vụ án hôn
nhân và gia đình
1. Vụ án hôn nhân và gia đình mà nguyên đơn và bị
đơn đều có cùng nơi cư trú hoặc có nơi
cư trú khác nhau nhưng tài sản tranh chấp là bất
động sản ở một nơi khác thì thì thẩm
quyền giải quyết của Tòa án được xác định như sau:
a) Vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà
nguyên đơn và bị đơn đều cư trú ở hai nơi khác nhau, tài sản là bất động sản lại
ở nơi khác thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm
việc.
b) Trường hợp các đương sự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa
án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn thì Tòa án nơi cư trú, làm việc của
nguyên đơn có thẩm quyền giải quyết.
2. Trường hợp vụ án tranh chấp chia tài sản là bất động sản
sau khi ly hôn mà nơi cư trú của bị đơn và nơi có bất động sản tranh chấp khác
nhau thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm
việc theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Điều 15. Việc cung cấp địa chỉ của nguyên đơn
1. Trường hợp người Việt Nam ở trong nước
xin ly hôn với người Việt Nam ở nước ngoài và chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư
trú cuối cùng ở Việt Nam của bị đơn mà không cung cấp được địa chỉ của bị đơn ở
nước ngoài, nếu thông qua thân nhân của bị đơn mà có căn cứ bị đơn vẫn có liên
hệ với thân nhân ở trong nước nhưng thân nhân của họ không cung cấp địa chỉ,
tin tức của bị đơn cho Tòa án cũng như không thực hiện yêu cầu của Tòa án thông
báo cho bị đơn biết để gửi lời khai về cho Tòa án thì coi đây là trường hợp bị
đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần
thiết.
2. Nếu Tòa án đã yêu cầu đến lần thứ hai
mà thân nhân của họ cũng không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho
Tòa án cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho bị đơn biết
thì Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung.
Điều 16. Hiệu lực thi hành
1. Nghị quyết
này đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày ....
tháng ..... năm 2021 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày ... tháng .... năm
2021.
2. Trong quá
trình thực hiện nếu có vướng mắc, đề nghị phản ánh cho Tòa án nhân dân tối cao
(thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để hướng dẫn bổ sung kịp thời.
Nơi nhận:
- Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;
- Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội;
- Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội;
- Ban Chỉ đạo CCTPTW;
- Ban Nội chính Trung ương;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Văn phòng Chính phủ (02 bản);
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Bộ Tư pháp;
- Các TAND và TAQS;
- Các Thẩm phán TANDTC;
- Các đơn vị thuộc TANDTC;
- Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải);
- Lưu: VT, Vụ PC&QLKH (TANDTC).
|
TM. HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
CHÁNH ÁN
Nguyễn Hòa Bình
|