VĂN PHÒNG QUỐC HỘI
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
33/VBHN-VPQH
|
Hà Nội, ngày 07 tháng 12 năm 2020
|
LUẬT
PHÒNG, CHỐNG NHIỄM VI RÚT GÂY RA HỘI
CHỨNG SUY GIẢM MIỄN DỊCH MẮC PHẢI Ở NGƯỜI (HIV/AIDS)
Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn
dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) số 64/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006 của
Quốc hội, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2007, được sửa đổi, bổ sung bởi:
Luật số 71/2020/QH14 ngày 16 tháng 11 năm 2020 của Quốc hội
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng
suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng
7 năm 2021.
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25
tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10;
Luật này quy định về
phòng, chống HIV/AIDS[1].
Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH
CHUNG
Điều
1. Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
1. Luật này quy định
các biện pháp phòng, chống HIV/AIDS; việc chăm sóc, điều trị, hỗ trợ người nhiễm
HIV và các điều kiện bảo đảm thực hiện biện pháp phòng, chống HIV/AIDS.
2. Luật này áp dụng đối
với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tại Việt
Nam.
Điều
2. Giải thích từ ngữ
Trong
Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1.
HIV là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh "Human Immunodeficiency
Virus" là vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người, làm cho cơ thể suy giảm
khả năng chống lại các tác nhân gây bệnh.
2.
AIDS là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh "Acquired Immune
Deficiency Syndrome" là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải do HIV gây
ra, thường được biểu hiện thông qua các nhiễm trùng cơ hội, các ung thư và có
thể dẫn đến tử vong.
3.
Nhiễm trùng cơ hội là nhiễm trùng xảy ra do cơ thể bị suy giảm miễn dịch
vì bị nhiễm HIV.
4. Kỳ thị người nhiễm
HIV là thái độ khinh thường hay thiếu tôn trọng người khác vì biết hoặc
nghi ngờ người đó nhiễm HIV hoặc vì người đó có quan hệ gần gũi với người nhiễm
HIV hoặc bị nghi ngờ nhiễm HIV.
5. Phân biệt đối xử
với người nhiễm HIV là hành vi xa lánh, từ chối, tách biệt, ngược đãi, phỉ
báng, có thành kiến hoặc hạn chế quyền của người khác vì biết hoặc nghi ngờ người
đó nhiễm HIV hoặc vì người đó có quan hệ gần gũi với người nhiễm HIV hoặc bị
nghi ngờ nhiễm HIV.
6. Hành vi nguy cơ
cao là hành vi dễ làm lây nhiễm HIV như quan hệ tình dục không an
toàn, dùng chung bơm kim tiêm và những hành vi khác dễ làm lây nhiễm HIV.
7. Phơi nhiễm với
HIV là nguy cơ bị lây nhiễm HIV do tiếp xúc trực tiếp với máu hoặc dịch
sinh học của cơ thể người nhiễm HIV.
8. Giám sát dịch tễ
học HIV/AIDS là việc thu thập thông tin định kỳ và hệ thống về các chỉ số dịch
tễ học HIV/AIDS của các nhóm đối tượng có nguy cơ khác nhau để biết được chiều
hướng và kết quả theo thời gian nhằm cung cấp thông tin cho việc lập kế hoạch,
dự phòng, khống chế và đánh giá hiệu quả các biện pháp phòng, chống HIV/AIDS.
9. Giám sát trọng điểm
HIV/AIDS là việc thu thập thông tin thông qua xét nghiệm HIV theo định kỳ
và hệ thống trong các nhóm đối tượng được lựa chọn để theo dõi tỷ lệ và chiều
hướng nhiễm HIV qua các năm nhằm cung cấp thông tin cho việc lập kế hoạch, dự
phòng, khống chế và đánh giá hiệu quả các biện pháp phòng, chống HIV/AIDS.
10. Tư vấn về
HIV/AIDS là quá trình đối thoại, cung cấp các kiến thức, thông tin cần thiết
về phòng, chống HIV/AIDS giữa người tư vấn và người được tư vấn nhằm giúp người
được tư vấn tự quyết định, giải quyết các vấn đề liên quan đến dự phòng lây nhiễm
HIV, chăm sóc và điều trị người nhiễm HIV.
11.[2] Xét nghiệm
HIV là việc thực hiện các kỹ thuật chuyên môn nhằm xác định tình trạng nhiễm
HIV trong mẫu máu, mẫu dịch sinh học của cơ thể người, bao gồm xét nghiệm sàng
lọc HIV và xét nghiệm khẳng định HIV dương tính.
12. HIV dương tính
là kết quả xét nghiệm mẫu máu, mẫu dịch sinh học của cơ thể người đã được xác định
nhiễm HIV.
13. Nhóm giáo dục đồng
đẳng là những người tự nguyện tập hợp thành một nhóm để thực hiện công tác
tuyên truyền, vận động và giúp đỡ những người có cùng cảnh ngộ.
14.[3] Người di biến động là
người thường xuyên sống xa gia đình, thay đổi chỗ ở và nơi làm việc.
15.[4] Biện pháp
can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV là giải pháp nhằm giảm
tác động có hại của hành vi nguy cơ cao lây nhiễm HIV đối với cá nhân và cộng đồng.
16.[5] Dự phòng trước
phơi nhiễm với HIV bằng thuốc kháng HIV là việc sử dụng thuốc kháng
HIV để phòng ngừa, giảm nguy cơ nhiễm HIV.
Điều
3. Nguyên tắc phòng, chống HIV/AIDS
1.
Kết hợp các biện pháp xã hội và biện pháp chuyên môn kỹ thuật y tế trong phòng,
chống HIV/AIDS trên nguyên tắc lấy phòng ngừa là chính, trong đó thông tin,
giáo dục, truyền thông nhằm thay đổi hành vi là biện pháp chủ yếu.
2. Thực hiện việc phối hợp liên ngành và huy động xã hội
trong phòng, chống HIV/AIDS; lồng ghép các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS
trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội.
3. Kết hợp chặt chẽ phòng, chống HIV/AIDS với phòng, chống
ma túy, mại dâm, chú trọng triển khai các biện pháp can thiệp giảm tác hại
trong dự phòng lây nhiễm HIV.
4. Không kỳ thị,
phân biệt đối xử với người nhiễm HIV và thành viên gia đình họ; tạo điều kiện để
người nhiễm HIV và thành viên gia đình họ tham gia các hoạt động xã hội, đặc biệt
là các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS.
Điều 4. Quyền và nghĩa vụ của người nhiễm HIV
1. Người nhiễm HIV có các quyền sau đây:
a) Sống hòa nhập với cộng đồng và xã hội;
b) Được điều trị và chăm sóc sức khỏe;
c) Học văn hóa, học nghề, làm việc;
d) Được giữ bí mật riêng tư liên quan đến HIV/AIDS;
đ) Từ chối khám bệnh, chữa bệnh khi đang điều trị bệnh AIDS
trong giai đoạn cuối;
e) Các quyền khác theo quy định của Luật này và các quy định
khác của pháp luật có liên quan.
2. Người nhiễm
HIV có các nghĩa vụ sau đây:
a) Thực hiện
các biện pháp phòng lây nhiễm HIV sang người khác;
b)[6] Thông báo kịp
thời kết quả xét nghiệm HIV dương tính của mình cho vợ, chồng, người dự định kết
hôn, người chung sống như vợ chồng với mình;
c)[7] Thực hiện các
quy định về điều trị khi tham gia điều trị bằng thuốc kháng HIV;
d) Các nghĩa vụ
khác theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên
quan.
Điều
5. Trách nhiệm trong phòng, chống HIV/AIDS
1. Cơ quan, tổ
chức, đơn vị vũ trang nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được giao có
trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình hành động về phòng,
chống HIV/AIDS.
2. Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có trách nhiệm tuyên truyền, vận động
Nhân dân tham gia phòng, chống HIV/AIDS; tham gia và giám sát thực hiện biện
pháp phòng, chống HIV/AIDS; tổ chức, thực hiện phong trào hỗ trợ về vật chất,
tinh thần đối với người nhiễm HIV.
3. Cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tại Việt Nam có trách nhiệm thực hiện
các quy định của pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS.
4. Gia đình có
trách nhiệm thực hiện các biện pháp phòng, chống HIV/AIDS.
Điều 6. Chính sách của Nhà nước về phòng, chống HIV/AIDS
1. Khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và nước
ngoài hợp tác, giúp đỡ dưới mọi hình thức trong phòng, chống HIV/AIDS; phát triển
các mô hình tự chăm sóc của người nhiễm HIV.
2. Hỗ trợ sản
xuất thuốc kháng HIV trong nước; thực hiện các biện pháp giảm giá thuốc kháng
HIV.
3. Khuyến
khích doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị vũ trang nhân dân tổ chức đào tạo và tuyển
dụng người nhiễm HIV và thành viên gia đình họ vào làm việc hoặc đầu tư nguồn lực
vào phòng, chống HIV/AIDS.
4. Huy động sự
tham gia của toàn xã hội, sự đóng góp về tài chính, kỹ thuật của cơ quan, tổ chức,
cá nhân trong nước và nước ngoài trong phòng, chống HIV/AIDS.
5. Huy động và
điều phối các nguồn lực cho phòng, chống HIV/AIDS phù hợp với điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội và tình hình dịch HIV/AIDS của đất nước trong từng giai
đoạn.
6. Hỗ trợ
nghiên cứu khoa học, trao đổi và đào tạo chuyên gia, chuyển giao kỹ thuật trong
phòng, chống HIV/AIDS.
7. Hỗ trợ
phòng, chống lây nhiễm HIV từ mẹ sang con, nuôi dưỡng trẻ em dưới 6 tháng tuổi
sinh ra từ người mẹ nhiễm HIV bằng sữa thay thế và bệnh nhân AIDS có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn.
8. Điều trị,
chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp.
Điều 7. Cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống HIV/AIDS
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về phòng, chống
HIV/AIDS.
2. Bộ Y tế chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản
lý nhà nước về phòng, chống HIV/AIDS.
3. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Y tế trong việc thực hiện quản lý nhà nước
về phòng, chống HIV/AIDS.
4. Ủy ban nhân
dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống HIV/AIDS trong phạm vi địa
phương mình.
Điều 8. Những hành vi bị nghiêm cấm
1. Cố ý lây truyền hoặc truyền HIV cho người khác.
2. Đe dọa truyền HIV cho người khác.
3. Kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV.
4. Cha, mẹ bỏ
rơi con chưa thành niên nhiễm HIV; người giám hộ bỏ rơi người được mình giám hộ
nhiễm HIV.
5. Công khai tên, địa chỉ, hình ảnh của người nhiễm HIV hoặc
tiết lộ cho người khác biết việc một người nhiễm HIV khi chưa được sự đồng ý của
người đó, trừ trường hợp quy định tại Điều 30 của Luật này.
6. Đưa tin bịa đặt về nhiễm HIV đối với người không nhiễm
HIV.
7. Bắt buộc
xét nghiệm HIV, trừ trường hợp quy định tại Điều 28 của Luật này.
8. Truyền máu, sản phẩm máu, ghép mô, bộ phận cơ thể có HIV
cho người khác.
9. Từ chối khám bệnh, chữa bệnh cho người bệnh vì biết hoặc
nghi ngờ người đó nhiễm HIV.
10. Từ chối
mai táng, hỏa táng người chết vì lý do liên quan đến HIV/AIDS.
11. Lợi dụng
hoạt động phòng, chống HIV/AIDS để trục lợi hoặc thực hiện các hành vi trái
pháp luật.
12. Các hành
vi bị nghiêm cấm khác theo quy định của pháp luật.
Chương II
CÁC
BIỆN PHÁP XÃ HỘI TRONG PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS
Mục 1. THÔNG TIN, GIÁO DỤC, TRUYỀN THÔNG VỀ PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS
Điều 9. Mục đích và yêu cầu của thông tin, giáo dục, truyền
thông về phòng, chống HIV/AIDS
1. Thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống
HIV/AIDS nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ và hành vi, chống kỳ thị,
phân biệt đối xử với người nhiễm HIV.
2. Việc cung cấp
thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS phải bảo đảm các yêu
cầu sau đây:
a) Chính xác,
rõ ràng, đơn giản, thiết thực;
b) Phù hợp với từng đối tượng, trình độ, lứa tuổi, giới
tính, truyền thống, văn hóa, bản sắc dân tộc, tôn giáo, đạo đức xã hội, tín ngưỡng
và phong tục tập quán;
c) Không phân
biệt đối xử, không làm ảnh hưởng đến bình đẳng giới và không đưa thông tin,
hình ảnh tiêu cực về người nhiễm HIV.
Điều 10. Nội dung thông tin, giáo dục, truyền thông về
phòng, chống HIV/AIDS
1. Nguyên nhân, đường lây truyền HIV, các biện pháp dự
phòng lây nhiễm HIV và các biện pháp chăm sóc, điều trị người nhiễm HIV.
2. Hậu quả của HIV/AIDS đối với sức khỏe, tính mạng con người
và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
3. Quyền, nghĩa vụ của cá nhân, gia đình và của người nhiễm
HIV trong phòng, chống HIV/AIDS.
4. Các phương pháp, dịch vụ xét nghiệm, chăm sóc, hỗ trợ và
điều trị người nhiễm HIV.
5. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân
dân và cộng đồng trong phòng, chống HIV/AIDS.
6. Các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây
nhiễm HIV.
7. Chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV.
8. Đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống
HIV/AIDS.
Điều 11. Đối tượng tiếp cận thông tin, giáo dục, truyền
thông về phòng, chống HIV/AIDS
1. Mọi người đều
có quyền tiếp cận thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS.
2.[8] Ưu tiên tiếp cận
thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS cho các đối tượng
sau đây:
a) Người nhiễm
HIV;
b) Người sử dụng
ma túy;
c) Người bán
dâm;
d) Người có quan
hệ tình dục đồng giới;
đ) Người chuyển
đổi giới tính;
e) Vợ, chồng
và thành viên khác của gia đình cùng sống chung với người nhiễm HIV; vợ, chồng của
đối tượng quy định tại các điểm b, c, d và đ khoản này;
g) Người có
quan hệ tình dục với người nhiễm HIV;
h) Người mắc
các bệnh lây truyền qua đường tình dục;
i) Người di biến
động;
k) Phụ nữ mang
thai;
l) Phạm nhân,
người bị tạm giam, trại viên cơ sở giáo dục bắt buộc, học sinh trường
giáo dưỡng, học viên cơ sở cai nghiện ma túy;
m) Người dân tộc
thiểu số; người sống ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, khu vực biên giới,
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn;
n) Người từ đủ
13 tuổi đến dưới 30 tuổi.
Điều 12. Trách nhiệm thông tin, giáo dục, truyền thông về
phòng, chống HIV/AIDS
1. Cơ quan, tổ
chức, đơn vị trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thông
tin, giáo dục, truyền thông kiến thức về phòng, chống HIV/AIDS.
2. Bộ Y tế có
trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan trong việc cung cấp
chính xác và khoa học các thông tin về HIV/AIDS.
3.[9] Bộ Thông tin và
Truyền thông trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức,
chỉ đạo các cơ quan truyền thông, báo chí thường xuyên thực hiện hoạt động
thông tin, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS, lồng ghép chương trình phòng,
chống HIV/AIDS với chương trình thông tin, truyền thông khác.
3a.[10]
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo đưa thông tin, tuyên truyền về phòng, chống
HIV/AIDS vào các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch và đời sống gia đình.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm chủ trì, phối hợp
với Bộ Y tế, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, các bộ, ngành có liên quan
xây dựng chương trình, nội dung giảng dạy; kết hợp giáo dục phòng, chống
HIV/AIDS với giáo dục giới tính, sức khoẻ sinh sản và chỉ đạo các cơ sở giáo dục
thuộc hệ thống giáo dục quốc dân giáo dục về phòng, chống HIV/AIDS.
5.[11]
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành
có liên quan chỉ đạo công tác thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống
HIV/AIDS tại các cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện
ma túy, cơ sở bảo trợ xã hội, trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giam
giữ khác.
6. Ủy ban nhân
dân các cấp có trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác thông tin, giáo dục, truyền
thông về phòng, chống HIV/AIDS cho Nhân dân trên địa bàn địa phương.
7.[12] Các cơ quan
thông tin đại chúng có trách nhiệm ưu tiên về thời điểm, thời lượng phát sóng thông
tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS trên đài phát thanh, đài
truyền hình; dung lượng và vị trí đăng trên báo in, báo hình, báo điện tử theo
quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông. Việc thực hiện thông tin, giáo dục,
truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS không thu phí, trừ trường hợp thực hiện
theo đặt hàng, giao nhiệm vụ có bố trí kinh phí của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, hợp đồng với chương trình, dự án về phòng, chống HIV/AIDS hoặc do tổ chức,
cá nhân trong nước, nước ngoài tài trợ.
Mục 2. HUY ĐỘNG GIA ĐÌNH, CƠ QUAN, TỔ CHỨC, CÁ NHÂN
TRONG PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS
Điều 13. Phòng, chống HIV/AIDS tại gia đình
1. Gia đình có
trách nhiệm tuyên
truyền, giáo dục cho các thành viên trong gia đình về phòng, chống
HIV/AIDS, chủ động thực hiện các biện pháp phòng lây nhiễm HIV.
2. Khuyến khích tự
nguyện xét nghiệm HIV đối với người trước khi kết hôn, dự định có con, phụ nữ
mang thai.
3. Gia đình của người nhiễm HIV có trách nhiệm nuôi
dưỡng, chăm sóc, động viên tinh thần giúp người nhiễm HIV sống hòa nhập với gia
đình, cộng đồng và xã hội; phối hợp với các cơ quan, tổ chức và cộng đồng
trong phòng, chống HIV/AIDS.
Điều 14. Phòng, chống HIV/AIDS tại nơi làm việc
1. Người sử dụng
lao động có các trách nhiệm sau đây:
a) Tổ chức việc
tuyên truyền, giáo dục các biện pháp phòng, chống HIV/AIDS, chống kỳ thị, phân
biệt đối xử với người nhiễm HIV trong cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân
dân;
b) Bố trí công
việc phù hợp với sức khỏe và trình độ chuyên môn của người lao động nhiễm HIV;
c) Tạo điều kiện
cho người lao động tham gia các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS;
d) Các trách
nhiệm khác về phòng, chống HIV/AIDS theo quy định của pháp luật.
2. Người sử dụng
lao động không được có các hành vi sau đây:
a) Chấm dứt hợp
đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc gây khó khăn trong quá trình làm việc của
người lao động vì lý do người lao động nhiễm HIV;
b) Ép buộc người
lao động còn đủ sức khỏe chuyển công việc mà họ đang đảm nhiệm vì lý do người
lao động nhiễm HIV;
c) Từ chối
nâng lương, đề bạt hoặc không bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của người lao
động vì lý do người lao động nhiễm HIV;
d) Yêu cầu xét
nghiệm HIV hoặc xuất trình kết quả xét nghiệm HIV đối với người dự tuyển lao động,
từ chối tuyển dụng vì lý do người dự tuyển lao động nhiễm HIV, trừ trường hợp
quy định tại khoản 3 Điều 28 của Luật này.
Điều 15. Phòng, chống HIV/AIDS trong cơ sở giáo dục thuộc hệ
thống giáo dục quốc dân
1. Cơ sở giáo
dục có trách nhiệm tổ chức giảng dạy cho học sinh, sinh viên, học viên về
phòng, chống HIV/AIDS, lồng ghép với giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản và
thực hiện các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS khác trong cơ sở đó.
2. Cơ sở giáo
dục không được có các hành vi sau đây:
a) Từ chối tiếp
nhận học sinh, sinh viên, học viên vì lý do người đó nhiễm HIV;
b) Kỷ luật, đuổi
học học sinh, sinh viên, học viên vì lý do người đó nhiễm HIV;
c) Tách biệt,
hạn chế, cấm đoán học sinh, sinh viên, học viên tham gia các hoạt động, dịch vụ
của cơ sở vì lý do người đó nhiễm HIV;
d) Yêu cầu xét
nghiệm HIV hoặc yêu cầu xuất trình kết quả xét nghiệm HIV đối với học sinh,
sinh viên, học viên hoặc người đến xin học.
Điều 16. Phòng, chống HIV/AIDS trong các nhóm người di biến
động
1. Ủy ban nhân
dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền về phòng, chống
HIV/AIDS cho người ở nơi khác đến cư trú tại địa phương mình.
2. Chủ, người
quản lý điều hành cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú, bến bãi đậu xe, đậu tàu,
thuyền, cơ sở kinh doanh du lịch hoặc dịch vụ văn hóa, xã hội khác có trách nhiệm
phối hợp với cơ quan phòng, chống HIV/AIDS tại địa phương tuyên truyền về
phòng, chống HIV/AIDS và thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự
phòng lây nhiễm HIV thích hợp cho người sử dụng dịch vụ tại cơ sở của mình.
3. Người đứng
đầu cơ quan kiểm dịch y tế tại cửa khẩu có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền về
phòng, chống HIV/AIDS cho người nhập cảnh, xuất cảnh và quá cảnh.
4. Cơ quan, tổ
chức có hoạt động đưa người Việt Nam đi lao động, học tập ở nước ngoài có trách
nhiệm tổ chức tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống HIV/AIDS đối với người lao
động, người đi học.
Điều 17. Phòng, chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân cư
1. Ủy ban nhân
dân xã, phường, thị trấn có các trách nhiệm sau đây:
a) Tổ chức các
hoạt động phòng, chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân cư, giáo dục sự thương yêu,
đùm bọc đối với người nhiễm HIV, phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, họ
tộc, quê hương, bản sắc văn hóa dân tộc của người Việt Nam;
b) Tổ chức
chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV và gia đình họ, tạo điều kiện cho người nhiễm HIV sống hòa nhập với cộng đồng và xã hội;
c) Phát huy vai trò của các tổ
trưởng dân phố, trưởng cụm dân cư, trưởng thôn, già làng, trưởng bản, trưởng
làng, trưởng ấp, trưởng phum, trưởng sóc, trưởng ban công tác mặt trận, trưởng
các dòng họ, trưởng tộc, các chức sắc tôn giáo, người cao tuổi, người có uy tín
trong cộng đồng trong việc vận động Nhân dân tham gia phòng, chống HIV/AIDS;
d) Xây dựng và phát triển mô hình gia đình văn hóa,
tổ dân phố, cụm dân cư, thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc gắn với việc phòng, chống HIV/AIDS;
đ) Tuyên truyền chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV và
thành viên gia đình họ.
2. Tổ dân phố,
cụm dân cư, thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc có các trách nhiệm sau đây:
a) Tuyên truyền, vận động và giáo dục các gia đình
trên địa bàn tham gia và thực hiện các quy định về phòng, chống HIV/AIDS;
b) Lồng ghép hoạt động phòng, chống
HIV/AIDS vào phong trào quần chúng, hoạt động thể thao, văn hóa, văn nghệ tại cộng
đồng và các hoạt động xã hội khác;
c) Đấu tranh chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV và thành viên gia đình họ.
3. Nhà nước khuyến khích dòng họ, hàng xóm, bạn của người nhiễm HIV động
viên về tinh thần, chăm sóc, giúp đỡ và tạo điều kiện cho người nhiễm HIV sống
hòa nhập với cộng đồng và xã hội.
Điều 18. Phòng, chống HIV/AIDS trong cơ sở giáo dục
bắt buộc, trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện ma túy, cơ sở bảo trợ xã hội, trại
giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giam giữ khác[13]
1. Người đứng
đầu cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện ma túy, cơ sở
bảo trợ xã hội, trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giam giữ khác có
trách nhiệm tổ chức quản lý, tuyên truyền, tư vấn, xét nghiệm, chăm sóc, điều
trị cho người nhiễm HIV và dự phòng lây nhiễm
HIV ở cơ sở do mình quản lý.
2. Chính phủ
quy định việc quản lý, tuyên truyền, tư vấn, xét nghiệm, chăm sóc, điều trị cho
người nhiễm HIV và dự phòng lây nhiễm HIV quy định tại khoản 1 Điều này.
Điều 19. Tổ chức xã hội tham gia phòng, chống HIV/AIDS
Nhà nước tạo điều
kiện cho tổ chức tôn giáo, tổ chức phi chính phủ và các tổ chức xã hội khác
thành lập các cơ sở nhân đạo, từ thiện để chăm sóc, nuôi dưỡng người nhiễm HIV
và thực hiện các hoạt động khác trong phòng, chống HIV/AIDS.
Điều 20. Người nhiễm HIV, người có hành vi nguy cơ cao tham
gia phòng, chống HIV/AIDS[14]
1. Người nhiễm
HIV, người có hành vi nguy cơ cao có quyền tham gia các hoạt động phòng, chống
HIV/AIDS theo quy định của pháp luật phù hợp với khả năng, điều kiện của mình.
2. Nhà nước
khuyến khích, tạo điều kiện và hỗ trợ cho người nhiễm HIV, người có hành vi
nguy cơ cao tham gia nhóm giáo dục đồng đẳng và các hình thức tổ chức sinh hoạt
khác trong lĩnh vực phòng, chống HIV/AIDS theo quy định của pháp luật.
3. Người nhiễm
HIV, người có hành vi nguy cơ cao được thực hiện các hoạt động sau đây:
a) Tuyên truyền
và tham gia thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây
nhiễm HIV theo quy định của Chính phủ;
b) Cung cấp dịch
vụ tư vấn, xét nghiệm sàng lọc HIV, sinh phẩm tự xét nghiệm HIV cho người có
hành vi nguy cơ cao khi đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của Chính phủ;
c) Tư vấn và hỗ
trợ cho người có hành vi nguy cơ cao tham gia điều trị dự phòng trước và sau
phơi nhiễm với HIV;
d) Hỗ trợ,
chăm sóc người nhiễm HIV;
đ) Tham gia ý
kiến trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật liên quan đến phòng, chống
HIV/AIDS;
e) Các hoạt động
khác về phòng, chống HIV/AIDS theo quy định của pháp luật.
Mục 3. CÁC BIỆN PHÁP XÃ HỘI KHÁC TRONG PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS
Điều 21. Can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm
HIV[15]
1. Các biện
pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV bao gồm:
a) Cung cấp, hướng dẫn sử dụng
bao cao su;
b) Cung cấp, hướng dẫn sử dụng
bơm kim tiêm sạch;
c) Dự phòng
trước phơi nhiễm với HIV bằng thuốc kháng HIV;
d) Điều trị
nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế;
đ) Các biện
pháp can thiệp giảm tác hại phù hợp khác.
2. Ưu tiên can
thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV cho đối tượng quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h, i và l khoản 2 Điều 11 của Luật này.
3. Chính phủ
quy định việc tổ chức thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự
phòng lây nhiễm HIV.
Điều
22. Tư vấn về phòng, chống HIV/AIDS
1. Mọi người
có quyền tiếp cận với dịch vụ tư vấn về phòng, chống HIV/AIDS.
2. Các cơ sở y
tế có trách nhiệm tư vấn về phòng, chống HIV/AIDS theo quy định của Bộ trưởng Bộ
Y tế.
3. Nhà nước
khuyến khích tổ chức, cá nhân thành lập tổ chức tư vấn về phòng, chống
HIV/AIDS.
Điều kiện
thành lập và nội dung hoạt động của tổ chức tư vấn về phòng, chống HIV/AIDS do
Bộ trưởng Bộ Y tế quy định.
4. Việc tư vấn
về phòng, chống HIV/AIDS trước và sau khi xét nghiệm HIV thực hiện theo quy định
tại Điều 26 của Luật này.
Điều 23. Lồng ghép nội dung phòng, chống HIV/AIDS trong
chương trình phát triển kinh tế - xã hội
1. Phòng, chống
HIV/AIDS là một trong những mục tiêu ưu tiên của các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội.
2. Chính phủ
chỉ đạo các bộ, ngành, chính quyền địa phương lồng ghép nội dung phòng, chống
HIV/AIDS trong các chương trình xóa đói, giảm nghèo, đào tạo nghề và giải quyết
việc làm, chương trình phòng, chống lao, chương trình sức khỏe sinh sản, phòng,
chống các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục và các chương trình phát
triển kinh tế - xã hội khác.
Chương III
CÁC BIỆN PHÁP CHUYÊN MÔN KỸ THUẬT Y TẾ TRONG PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS
Mục 1. GIÁM SÁT DỊCH TỄ HỌC HIV/AIDS
Điều
24. Giám sát dịch tễ học HIV/AIDS
1. Giám sát dịch tễ học
HIV/AIDS bao gồm xét nghiệm HIV và giám sát trọng điểm HIV nhằm mục đích xác định
tỷ lệ nhiễm HIV và phân bố nhiễm HIV trong các nhóm dân cư, theo dõi chiều hướng
tỷ lệ nhiễm HIV theo thời gian, xác định nhóm có nguy cơ nhiễm HIV cao, xác định
sự thay đổi các hình thái lây truyền HIV và dự báo tình hình nhiễm HIV.
2. Bộ trưởng Bộ Y tế
quy định cụ thể về quy trình, phương pháp giám sát dịch tễ học HIV/AIDS.
Điều
25. Giám sát trọng điểm HIV/AIDS
1. Khi tiến hành giám
sát trọng điểm HIV/AIDS, cơ sở y tế có thẩm quyền được thực hiện xét nghiệm HIV
đối với các nhóm đối tượng theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế.
2. Các xét nghiệm HIV
trong giám sát trọng điểm HIV/AIDS phải được thực hiện bằng phương pháp xét
nghiệm HIV giấu tên.
3. Nhân viên xét nghiệm
và cơ sở xét nghiệm HIV có trách nhiệm giữ bí mật kết quả xét nghiệm và chỉ sử
dụng kết quả xét nghiệm cho mục đích giám sát dịch tễ học HIV/AIDS và nghiên cứu
khoa học.
Mục 2. TƯ VẤN VÀ XÉT NGHIỆM HIV
Điều 26. Tư vấn trước và sau khi xét nghiệm HIV
1. Các trường
hợp xét nghiệm HIV đều phải được tư vấn trước và sau khi xét nghiệm HIV.
2. Cơ sở xét
nghiệm HIV có trách nhiệm tổ chức việc tư vấn trước và sau khi xét nghiệm HIV.
3. Chỉ những người
đã được tập huấn về tư vấn phòng, chống HIV/AIDS mới được thực hiện việc tư vấn
trước và sau khi xét nghiệm HIV.
Điều 27. Xét nghiệm HIV tự nguyện
1. Việc xét
nghiệm HIV được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của người được xét nghiệm.
2.[16] Người từ đủ
15 tuổi trở lên và có năng lực hành vi dân sự được tự nguyện yêu cầu xét nghiệm
HIV.
3.[17] Việc xét nghiệm
HIV đối với người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý bằng văn bản của cha, mẹ hoặc người giám
hộ, người đại diện của người đó.
Điều 28. Xét nghiệm HIV bắt buộc
1. Xét nghiệm
HIV bắt buộc đối với trường hợp có trưng cầu giám định tư pháp hoặc quyết định
của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân hoặc Tòa án nhân dân.
2. Bộ trưởng Bộ Y tế quy định việc xét nghiệm HIV bắt buộc
trong một số trường hợp cần thiết để chẩn đoán và điều trị cho người bệnh.
3. Chính phủ
quy định danh mục một số nghề phải xét nghiệm HIV trước khi tuyển dụng.
4. Kinh phí
xét nghiệm đối với các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này do ngân sách
nhà nước chi trả.
Điều 29. Xét nghiệm sàng lọc HIV, xét nghiệm khẳng định HIV
dương tính[18]
1. Xét nghiệm
sàng lọc HIV được thực hiện tại cơ sở y tế, tại cộng đồng và tự xét nghiệm.
2. Xét nghiệm
khẳng định HIV dương tính chỉ được thực hiện tại cơ sở xét nghiệm HIV đủ điều
kiện khẳng định HIV dương tính. Người được xét nghiệm muốn nhận kết quả xét
nghiệm phải cung cấp địa chỉ nơi cư trú và xuất trình Giấy chứng minh nhân dân,
thẻ Căn cước công dân, Hộ chiếu hoặc giấy tờ khác có ảnh, thông tin cá nhân do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp còn giá trị sử dụng.
3. Điều kiện,
hồ sơ, thủ tục công nhận cơ sở đủ điều kiện xét nghiệm khẳng định HIV dương
tính theo quy định của Chính phủ.
Điều 30. Thông báo kết quả xét nghiệm HIV dương tính và tiếp
cận thông tin người nhiễm HIV[19]
1. Người đứng
đầu cơ sở quy định tại khoản 2 Điều 29 của Luật này có trách
nhiệm thực hiện việc thông báo kết quả xét nghiệm HIV dương tính.
2. Kết quả xét
nghiệm HIV dương tính chỉ được thông báo cho những người sau đây:
a) Người được xét nghiệm;
b) Vợ hoặc chồng của người được xét nghiệm; cha, mẹ hoặc
người giám hộ, người đại diện của người được xét nghiệm là người dưới 18 tuổi,
người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi và người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
c) Người được giao nhiệm vụ trực tiếp tư vấn, thông báo kết
quả xét nghiệm HIV dương tính cho người được xét nghiệm;
d) Người đứng đầu cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ giám
sát dịch tễ học HIV/AIDS; người được giao nhiệm vụ giám sát dịch tễ học
HIV/AIDS;
đ) Người đứng đầu, điều dưỡng viên trưởng của khoa, phòng,
đơn vị khác của cơ sở y tế có người nhiễm HIV được điều trị; nhân viên y tế được
giao trách nhiệm trực tiếp điều trị, chăm sóc cho người nhiễm HIV tại cơ sở y tế;
e) Người đứng đầu, người phụ trách y tế, nhân viên y tế được
giao nhiệm vụ trực tiếp chăm sóc sức khỏe cho người nhiễm HIV tại cơ sở giáo dục
bắt buộc, trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện ma túy, cơ sở bảo trợ xã hội, trại
giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giam giữ khác;
g) Người đứng đầu và cán bộ, công chức được giao trách nhiệm
của các cơ quan quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật này.
3. Người được
tiếp cận thông tin người nhiễm HIV bao gồm:
a) Người quy định
tại điểm d khoản 2 Điều này;
b) Người đứng
đầu, người được giao nhiệm vụ của cơ quan bảo hiểm xã hội trực tiếp thực hiện
việc giám định, thanh toán, quản lý thông tin khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế
cho người nhiễm HIV;
c) Người đứng
đầu, người được giao nhiệm vụ của cơ sở y tế khi trực tiếp thực hiện việc thanh toán, quản lý
thông tin khám bệnh, chữa bệnh cho người nhiễm HIV;
d) Người được
người nhiễm HIV đồng ý cho phép tiếp cận thông tin của chính người nhiễm HIV.
4. Phạm vi tiếp cận thông tin người nhiễm HIV được quy định
như sau:
a) Người quy định
tại điểm d khoản 2 Điều này được tiếp cận thông tin người nhiễm HIV có nơi thường
trú, nơi tạm trú hoặc được xét nghiệm HIV trên địa bàn được giao nhiệm vụ giám
sát dịch tễ học HIV/AIDS;
b) Người quy định
tại điểm b và điểm c khoản 3 Điều này được tiếp cận thông tin người nhiễm HIV đến
khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở y tế nơi làm việc hoặc được phân công giám định
bảo hiểm y tế.
5. Nội dung tiếp
cận thông tin người nhiễm HIV bao gồm:
a) Thông tin
cá nhân quy định tại khoản 2 Điều 29 của Luật này;
b) Thông tin dịch
tễ học HIV/AIDS;
c) Tình trạng điều
trị HIV/AIDS.
6. Người quy định tại các điểm b, c, d, đ, e, g khoản 2 và khoản
3 Điều này có trách nhiệm giữ bí mật thông tin người nhiễm HIV.
7. Bộ trưởng Bộ
Y tế quy định hình thức, quy trình thông báo kết quả xét nghiệm HIV dương tính
và tiếp cận thông tin người nhiễm HIV quy định tại Điều này.
Mục 3. CÁC BIỆN PHÁP CHUYÊN MÔN KỸ THUẬT Y TẾ KHÁC
TRONG PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS
Điều
31. An toàn truyền máu
1.
Các túi máu, chế phẩm của máu đều phải được làm xét nghiệm HIV trước khi sử dụng,
kể cả trong trường hợp cấp cứu.
2.
Việc xét nghiệm sàng lọc HIV phải được thực hiện bằng các loại sinh phẩm chẩn
đoán đã được Bộ trưởng Bộ Y tế cho phép lưu hành.
3. Bộ trưởng Bộ Y tế
quy định cụ thể việc xét nghiệm sàng lọc HIV, lưu trữ kết quả xét nghiệm,
lưu trữ và tiêu huỷ các mẫu máu, túi
máu, chế phẩm máu, bệnh phẩm nhiễm HIV.
Điều
32. Phòng, chống lây nhiễm HIV trong cơ sở y tế
1. Cơ sở y tế có trách nhiệm thực hiện đúng quy định của Bộ
Y tế về vô khuẩn, sát khuẩn, xử lý chất thải khi thực hiện phẫu thuật, thủ thuật,
tiêm thuốc, châm cứu để phòng, chống lây nhiễm HIV.
2. Bộ trưởng Bộ
Y tế quy định cụ thể chế độ vô khuẩn, sát khuẩn và xử lý chất thải có liên quan
đến HIV/AIDS.
Điều 33. Phòng, chống lây nhiễm HIV trong cơ sở dịch vụ xã
hội
Cơ sở dịch vụ
xã hội có sử dụng các dụng cụ xuyên chích qua da, niêm mạc và các dụng cụ khác
có nguy cơ gây chảy máu trực tiếp cho người sử dụng dịch vụ có trách nhiệm thực
hiện các quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế về vô khuẩn, sát khuẩn.
Điều 34. Phòng, chống các bệnh lây truyền qua đường tình dục
1. Việc phòng, chống HIV/AIDS phải gắn với việc phòng, chống
các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
2. Bộ trưởng Bộ
Y tế quy định cụ thể việc giám sát các bệnh lây truyền qua đường tình dục và
trách nhiệm của cơ sở y tế trong việc phối hợp kiểm soát lây nhiễm HIV qua đường
tình dục.
Điều 35. Phòng, chống lây nhiễm HIV từ mẹ sang con
1.[20] Phụ nữ mang
thai xét nghiệm HIV theo chỉ định chuyên môn được Quỹ bảo hiểm y tế, ngân sách
nhà nước chi trả chi phí xét nghiệm như sau:
a) Quỹ bảo hiểm
y tế chi trả cho người có thẻ bảo hiểm y tế theo mức hưởng quy định của pháp luật
về bảo hiểm y tế;
b) Ngân sách
nhà nước chi trả phần chi phí Quỹ bảo hiểm y tế không chi trả cho đối tượng quy
định tại điểm a khoản này và chi trả cho người không có thẻ bảo hiểm y tế theo
mức giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế.
2. Phụ nữ nhiễm
HIV được tạo điều kiện tiếp cận các biện pháp dự phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang
con.
3.[21] Phụ nữ nhiễm
HIV được tư vấn về phòng, chống HIV/AIDS trong thời kỳ mang thai và cho con bú.
4. Cơ sở y tế có
trách nhiệm theo dõi, điều trị và thực hiện các biện pháp nhằm giảm sự lây nhiễm
HIV từ mẹ sang con cho phụ nữ nhiễm HIV trong thời kỳ mang thai.
5.[22]
Chính phủ quy định nguồn ngân sách nhà nước và phương thức chi trả trong trường
hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.
Bộ trưởng Bộ Y
tế quy định cụ thể quy trình, thời điểm, số lần xét nghiệm HIV cho phụ nữ mang
thai quy định tại khoản 1 Điều này; việc chăm sóc, điều trị đối với phụ nữ nhiễm
HIV trong thời kỳ mang thai, khi sinh con, cho con bú và các biện pháp nhằm giảm
lây nhiễm HIV từ mẹ sang con.
Điều 36. Điều trị dự phòng trước và sau phơi nhiễm với HIV[23]
1. Người có
nguy cơ phơi nhiễm với HIV, người phơi nhiễm với HIV được tư vấn, điều trị dự
phòng trước và sau phơi nhiễm với HIV. Ưu tiên tiếp cận tư vấn, điều trị dự
phòng trước phơi nhiễm với HIV bằng thuốc kháng HIV cho đối tượng quy định tại
các điểm b, c, d, đ, e và g khoản 2 Điều 11 của Luật này.
2. Người bị
phơi nhiễm với HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp, rủi ro của kỹ thuật y tế được
tư vấn, điều trị dự phòng lây nhiễm HIV và hưởng chế độ theo quy định của Luật
này.
Điều 37. Nghiên cứu, thử nghiệm, sản xuất vắc xin, sinh phẩm
và thuốc điều trị HIV/AIDS
1. Nhà nước
khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, thử nghiệm, sản xuất
vắc xin, sinh phẩm và thuốc điều trị HIV/AIDS.
2. Người tự
nguyện tham gia thử nghiệm vắc xin, sinh phẩm và thuốc điều trị HIV/AIDS được bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Chương IV
ĐIỀU
TRỊ, CHĂM SÓC VÀ HỖ TRỢ NGƯỜI NHIỄM HIV
Điều 38. Trách nhiệm điều trị người nhiễm HIV
1. Cơ sở y tế
có trách nhiệm khám bệnh, chữa bệnh cho người nhiễm HIV; trường hợp điều trị bằng
thuốc kháng HIV thì cơ sở y tế phải có đủ các điều kiện theo quy định của Bộ Y
tế.
2. Thầy thuốc và nhân viên y tế có trách nhiệm điều trị người
nhiễm HIV và giải thích cho họ hiểu về HIV/AIDS để tự giữ gìn sức khỏe và phòng
lây nhiễm HIV cho người khác.
3. Người nhiễm
HIV mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội hoặc các bệnh khác liên quan đến HIV/AIDS
thuộc chuyên khoa nào được cứu chữa tại chuyên khoa đó hoặc tại chuyên khoa
riêng và được đối xử bình đẳng như những người bệnh khác.
4. Bộ trưởng Bộ
Y tế quy định phác đồ điều trị bằng thuốc kháng HIV.
Điều 39. Tiếp cận thuốc kháng HIV
1. Người nhiễm
HIV được Nhà nước tạo điều kiện tiếp cận thuốc kháng HIV thông qua các chương
trình, dự án phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội.
2.[24] Nhà nước cấp
miễn phí thuốc kháng HIV cho các đối tượng sau đây:
a) Người bị phơi nhiễm với HIV, bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp;
b) Người bị phơi nhiễm với HIV, bị nhiễm HIV do rủi ro của kỹ thuật y tế;
c) Người bị phơi nhiễm với HIV, bị nhiễm HIV do tham gia cứu nạn;
d) Phụ nữ và trẻ em có chỉ định điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ
sang con;
đ) Trẻ em dưới 06 tuổi nhiễm HIV;
e) Người nhiễm
HIV trong cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện ma túy,
cơ sở bảo trợ xã hội, trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giam giữ
khác.
3. Thuốc kháng
HIV do ngân sách nhà nước chi trả, thuốc do tổ chức, cá nhân trong nước và nước
ngoài tài trợ được cấp miễn phí cho người nhiễm HIV tại các cơ sở điều trị
HIV/AIDS theo thứ tự ưu tiên sau đây:
a) Trẻ em từ đủ
6 tuổi đến dưới 16 tuổi nhiễm HIV;
b) Người nhiễm
HIV tích cực tham gia phòng, chống HIV/AIDS;
c) Người nhiễm
HIV có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn;
d) Những người
khác nhiễm HIV.
4. Chính phủ
quy định cụ thể việc quản lý, phân phối và sử dụng thuốc kháng HIV.
5. Thủ tướng
Chính phủ quy định việc áp dụng các biện pháp cần thiết để đáp ứng yêu cầu về
thuốc kháng HIV trong trường hợp khẩn cấp.
Điều 40. Bảo hiểm y tế đối với người nhiễm HIV
1. Người
đang tham gia bảo hiểm y tế bị nhiễm HIV được Quỹ bảo hiểm y tế chi trả các chi
phí khám bệnh, chữa bệnh.
2. Bộ trưởng
Bộ Y tế quy định danh mục thuốc kháng HIV do bảo hiểm y tế chi trả.
Điều 41. Chăm sóc người nhiễm HIV
1. Người nhiễm
HIV được chăm sóc tại gia đình, cơ sở y tế của Nhà nước.
2. Trẻ em nhiễm
HIV bị bỏ rơi, người nhiễm HIV không nơi nương tựa, không còn khả năng lao động
được chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước.
3. Tổ chức tôn
giáo, tổ chức phi chính phủ và các tổ chức khác được thành lập cơ sở chăm sóc
người nhiễm HIV.
4. Ủy ban nhân
dân các cấp có trách nhiệm huy động cộng đồng tham gia tổ chức các hình thức
chăm sóc người nhiễm HIV dựa vào cộng đồng.
5. Chính phủ
quy định chế độ chăm sóc người nhiễm HIV quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
Điều 42.[25] (được bãi bỏ)
Chương V
CÁC ĐIỀU
KIỆN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN BIỆN PHÁP PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS
Điều 43. Nguồn tài chính cho phòng, chống HIV/AIDS[26]
1. Ngân sách nhà nước.
2. Quỹ bảo hiểm y tế.
3. Chi trả của người sử dụng dịch vụ dự phòng, điều trị HIV/AIDS.
4. Nguồn tài trợ, viện trợ, đầu tư, tặng cho của tổ chức, cá nhân trong
nước và nước ngoài.
5. Các nguồn
tài chính hợp pháp khác.
Điều 44.[27] (được bãi bỏ)
Điều 45. Chế độ, chính sách đối với người trực tiếp làm xét
nghiệm HIV, quản lý, chăm sóc và điều trị người nhiễm HIV[28]
Người trực tiếp
làm xét nghiệm HIV, quản lý, chăm sóc và điều trị người nhiễm HIV tại cơ sở
giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện ma túy, cơ sở bảo trợ xã
hội, trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giam giữ khác được ưu tiên
trang bị phương tiện, dụng cụ cần thiết để phòng lây nhiễm HIV, hưởng các chế độ
phụ cấp nghề nghiệp và các chế độ ưu đãi khác theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
Điều 46. Chế độ đối với người bị phơi nhiễm với HIV, người
nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp
1. Người bị
phơi nhiễm với HIV, người nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp được hưởng
các chế độ theo quy định của pháp luật.
2. Người nhiễm
HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp được khám, chữa các bệnh nhiễm trùng cơ hội
và được cấp thuốc kháng HIV miễn phí.
3. Thủ tướng
Chính phủ quy định điều kiện để xác định người bị phơi nhiễm với HIV, người nhiễm
HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp.
Điều 47. Đào tạo, bồi dưỡng người làm công tác phòng, chống
HIV/AIDS
1. Thầy thuốc,
nhân viên y tế trực tiếp tư vấn, làm xét nghiệm HIV, chăm sóc và điều trị người
nhiễm HIV phải được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn.
2. Cộng tác
viên, tình nguyện viên, giáo viên giảng dạy, người nhiễm HIV và thành viên gia
đình họ tham gia phòng, chống HIV/AIDS phải được tập huấn nâng cao trình độ.
3. Bộ Y tế chủ
trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên
quan tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng cho các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều
này.
Điều 48. Hợp tác quốc tế trong phòng, chống HIV/AIDS
1. Nhà nước mở
rộng hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế trong phòng, chống HIV/AIDS trên
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các bên cùng có lợi.
2. Khuyến
khích các tổ chức, cá nhân Việt Nam hợp tác với các tổ chức quốc tế, tổ chức,
cá nhân nước ngoài trong hoạt động phòng, chống HIV/AIDS.
3. Thủ tướng
Chính phủ quy định việc phối hợp giữa các bộ, ngành, chính quyền địa phương với
cơ quan tương ứng của các nước có chung đường biên giới thực hiện phòng, chống
HIV/AIDS qua đường biên giới.
Chương VI
ĐIỀU
KHOẢN THI HÀNH[29]
Điều 49. Hiệu lực thi hành
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2007.
Pháp lệnh
Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
(HIV/AIDS) năm 1995 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực.
Điều 50. Hướng dẫn thi hành
Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này.
|
XÁC THỰC VĂN BẢN
HỢP NHẤT
CHỦ NHIỆM
Nguyễn Hạnh Phúc
|
[1] Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải
ở người (HIV/AIDS) có căn cứ ban hành như sau:
“Căn cứ
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Quốc hội
ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống
nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) số
64/2006/QH11.”.
[2] Khoản này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở
người (HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[3] Khoản này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại
điểm b khoản 1 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở
người (HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[4] Khoản này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại
điểm b khoản 1 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở
người (HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[5] Khoản này được bổ sung theo quy định tại điểm b khoản
1 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng,
chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
(HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[6] Điểm này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại
khoản 2 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
(HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[7] Điểm này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại
khoản 2 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
(HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[8] Khoản này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại
khoản 3 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
(HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[9] Khoản này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại
điểm a khoản 4 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở
người (HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[10] Khoản này được bổ sung theo quy định tại điểm a khoản
4 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng,
chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
(HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[11] Khoản này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại
điểm b khoản 4 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở
người (HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[12] Khoản này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại
điểm c khoản 4 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở
người (HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[13] Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại
khoản 5 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
(HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[14] Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại
khoản 6 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
(HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[15] Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại
khoản 7 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
(HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[16] Khoản này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại
khoản 8 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
(HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[17] Khoản này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại
khoản 8 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
(HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[18] Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại
khoản 9 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
(HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[19] Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại
khoản 10 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
(HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[20] Khoản này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại
điểm a khoản 11 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở
người (HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[21] Khoản này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại
điểm b khoản 11 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở
người (HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[22] Khoản này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại
điểm c khoản 11 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở
người (HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[23] Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản
12 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng,
chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
(HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[24] Khoản này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản
13 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng,
chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
(HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[25] Điều này được bãi
bỏ theo quy định tại khoản 16 Điều
1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống
nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS),
có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[26] Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản
14 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng,
chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
(HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[27] Điều này được bãi
bỏ theo quy định tại khoản 16 Điều
1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống
nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS),
có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[28] Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản
15 Điều 1 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng,
chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
(HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
[29] Điều 2 của Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải
ở người (HIV/AIDS), có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021 quy định như
sau:
“Điều 2. Điều khoản thi hành
1. Luật này có hiệu
lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
2. Kể từ ngày Luật
này có hiệu lực thi hành, toàn bộ tài sản, tài chính của
Quỹ hỗ trợ, điều trị, chăm sóc người nhiễm HIV được sử dụng để hỗ trợ, điều trị,
chăm sóc người nhiễm HIV theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Y tế đối với Quỹ ở
trung ương và theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương đối với Quỹ ở địa phương.”.