BỘ
Y TẾ
******
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
15-BYT/TT
|
Hà
Nội, ngày 17 tháng 05 năm 1977
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN TỔ CHỨC PHÒNG KHÁM BỆNH ĐA KHOA KHU VỰC THEO NGHỊ
QUYẾT SỐ 15-CP CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Nghị quyết số 15-CP ngày
14-1-1975 của Hội đồng Chính phủ về cải tiến tổ chức y tế địa phương có quy định
việc thành lập các phòng khám bệnh đa khoa khu vực ngoài bệnh viện như sau:
… “Ngoài phòng khám bệnh đa khoa của bệnh viện, mỗi huyện, thị tùy theo dân số
nhiều hay ít, địa dư rộng hay hẹp, sự phân bố sản xuất và nhu cầu khám, chữa bệnh
mà có thể thành lập thêm một số phòng khám bệnh đa khoa ngoài bệnh viện để phục
vụ nhân dân và cán bộ trong khu vực, chủ yếu là bảo đảm yêu cầu cấp cứu, khám
và chữa bệnh ngoại trú. Phòng khám bệnh đa khoa này ở vùng đồng bằng, vùng
trung du phục vụ cho khoảng 30000 dân, ở miền núi phục vụ cho khoảng 5000 đến
15000 dân.
Ngoài nhiệm vụ điều trị, các phòng khám bệnh đa khoa đều có nhiệm vụ phòng bệnh,
phòng chống dịch, phòng chống bệnh xã hội, tuyên truyền vệ sinh, thực hiện sinh
đẻ có kế hoạch”…
Căn cứ vào nghị quyết nói trên và thi hành quyết định số 253-CP ngày 27-1-1976
của Hội đồng Chính phủ về việc giao chỉ tiêu kế hoạch năm 1977 có ghi 339 phòng
khám bệnh đa khoa khu vực. Bộ Y tế ra thông hướng dẫn như sau.
I. VỊ TRÍ CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM
VỤ
Phòng khám bệnh đa khoa khu vực
là một loại cơ sở y tế thuộc hệ thống phòng bệnh, chữa bệnh bảo đảm chăm sóc
ngoại trú về dự phòng và điều trị ở mức độ chuyên khoa cho cán bộ, công nhân
viên và nhân dân trong một khu vực nhất định.
Trong mạng lưới các cơ sở y tế,
phòng khám bệnh đa khoa khu vực là tuyến sau trực tiếp của các trạm y tế (xã,
tiểu khu, xí nghiệp, cơ quan, trường học). Vì vậy, phòng khám bệnh đa khoa khu
vực còn có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra, giúp đỡ các trạm y tế làm tốt công
tác phòng bệnh, phòng chống dịch, phòng chống các bệnh xã hội, tuyên truyền vệ
sinh, thực hiện sinh đẻ có kế hoạch.
Phòng khám bệnh đa khoa khu vực
thuộc sự quản lý chỉ đạo về mọi mặt của bệnh viện đa khoa huyện, thị, khu phố
hoặc phòng y tế huyện, thị, khu phố (nơi không có bệnh viện đa khoa).
Phòng khám bệnh đa khoa khu vực
có những nhiệm vụ sau đây:
1. Công tác cấp cứu, khám và chữa
bệnh ngoại trú:
- Có kế hoạch hướng dẫn
cho tuyến y tế cơ sở tổ chức sơ cứu tại chỗ và vận chuyển người bệnh đến phòng
khám bệnh. Tổ chức và giải quyết tốt các trường hợp cấp cứu khi chuyển đến
phòng khám bệnh bất cứ lúc nào. Chuẩn bị phương tiện và phân công cán bộ sẵn
sàng để đi cấp cứu tại chỗ khi cơ sở yêu cầu (trường hợp đặc biệt không thể
chuyển người bệnh về phòng khám được).
- Khám bệnh, kê đơn, phát
thuốc điều trị, làm các thủ thuật cần thiết cho người bệnh do tuyến y tế cơ sở
gửi tới và thuộc phạm vi phân cấp và khả năng của phòng khám.
- Lập hồ sơ quản lý và điều
trị ngoại trú cho cán bộ, công nhân viên và nhân dân mắc một số bệnh mãn tính,
bệnh xã hội, bệnh nghề nghiệp và một số bệnh cấp tính chưa cần phải điều trị nội
trú, hoặc tiếp tục điều trị ngoại trú cho người bệnh theo yêu cầu của bệnh viện.
- Quản lý sức khỏe các đối
tượng theo quy định của Sở, Ty y tế.
- Có kế hoạch định kỳ cử
y, bác sĩ chuyên khoa xuống tuyến y tế cơ sở để hướng dẫn công tác chẩn đoán bệnh,
điều trị cho người bệnh tại chỗ.
2. Công tác phòng bệnh, phòng chống
dịch, phòng chống các bệnh xã hội, tuyên truyền vệ sinh, thực hiện sinh đẻ có kế
hoạch:
- Hướng dẫn, kiểm tra, đôn
đốc y tế cơ sở thuộc phạm vi khu vực được phân công làm tốt các nhiệm vụ cơ bản
của trạm y tế quy định trong nghị quyết số 15-CP của Hội đồng Chính phủ.
- Theo dõi, có biện pháp
cách ly, thông báo kịp thời những người mắc bệnh dịch đến khám và chữa bệnh tại
phòng khám theo quy định của Bộ; sẵn sàng triển khai cấp cứu, điều trị tại
phòng khám bệnh và xuống tận cơ sở chống dịch, dập tắt dịch khi có dịch xảy ra.
3. Công tác bồi dưỡng nghiệp vụ:
Định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết
rút kinh nghiệm, bồi dưỡng nghiệp vụ để nâng cao dần trình độ nghiệp vụ cho cán
bộ của phòng khám bệnh và y tế cơ sở. Riêng đối với các trưởng trạm các trạm y
tế phải có chế độ kiểm tra và giúp đỡ thường xuyên để không ngừng cải tiến công
tác và nâng cao trình độ của các đồng chí đó.
II. QUYỀN HẠN VÀ QUAN HỆ CÔNG
TÁC
2.1. Được tham dự các hội nghị tổng
kết và bàn kế hoạch sản xuất, công tác, học tập của địa phương hoặc của đơn vị
có trạm y tế thuộc địa bàn phòng khám bệnh đa khoa khu vực phụ trách, để đề xuất
kế hoạch chỉ đạo hoạt động y tế cơ sở phục vụ sát yêu cầu sản xuất, công tác, học
tập.
2.2. Được kiểm tra hoạt động của
các trạm y tế; kiến nghị với Ủy ban nhân dân địa phương, với thủ trưởng đơn vị
biện pháp khắc phục những thiếu sót trong việc bảo vệ sức khỏe cho cán bộ, công
nhân viên, nhân dân trong khu vực. Nếu những kiến nghị trên không được chấp nhận
thì báo cáo lên y tế cấp trên để có biện pháp giải quyết.
2.3. Trong quá trình theo dõi và
chỉ đạo hoạt động, được quyền đề nghị với Ủy ban nhân dân địa phương, thủ trưởng
đơn vị hoặc tổ chức y tế cấp trên khen thưởng, kỷ luật đối với y tế cơ sở và
góp ý kiến sắp xếp, bố trí cán bộ đó cho thích hợp.
2.4. Được sử dụng y dược phí
theo các chế độ tiêu chuẩn hiện hành để phòng bệnh, chữa bệnh cho cán bộ, công
nhân viên, học sinh và nhân dân; được cho cán bộ, công nhân viên, học sinh, xã
viên hợp tác xã nghỉ việc, nghỉ học khi bị ốm đau, tai nạn, thai sản… theo đúng
quy định của Nhà nước.
2.5. Tùy theo trình độ chuyên
môn kỹ thuật, trang thiết bị của phòng khám đa khoa khu vực, bệnh viện trưởng
tuyến sau trực tiếp quy định cụ thể cho phòng khám có thể chuyển thẳng một số bệnh
nhân vào điều trị nội trú trong bệnh viện (không phải qua phòng khám gắn liền với
bệnh viện).
2.6. Được sử dụng con dấu theo mẫu
quy định trong công tác chuyên môn.
III. TỔ CHỨC
3.1. Theo đặc điểm của từng khu
vực:
a) Ở nông thôn: Mỗi phòng
khám được phân công phụ trách một số xã (khoảng từ 5 đến 10 xã) và đặt ở vị trí
trung độ; có thể đặt ngay trên đất của một trạm y tế xã, nhưng không làm thay đổi
chức năng của trạm y tế xã đó.
b) Ở thị xã và thành phố:
Tại các thị xã và thành phố, nhân dân ở tập trung, đi lại thuận tiện nên nói
chung tổ chức y tế cơ sở đều đặt ở phòng khám bệnh đa khoa mà không tổ chức như
ở nông thôn. Trong trường hợp này phòng khám bệnh đa khoa gồm hai bộ phận:
- Một bộ phận làm chức
năng của y tế cơ sở gồm có các cán bộ y tế phụ trách sức khỏe cho từng cụm khoảng
3000 đến 5000 dân;
- Một bộ phận làm chức
năng của phòng khám bệnh đa khoa khu vực.
Trường hợp có những bộ phận dân
cư ở xa phòng khám bệnh, đi lại không thuận tiện thì ở đó có thể thành lập trạm
y tế.
c) Ở các khu công nghiệp
và những khu vực tập trung nhiều xí nghiệp cơ quan, trường học.
- Trường hợp xí nghiệp có
quy mô lớn khoảng 5000 cán bộ, công nhân viên trở lên, đóng tập trung, xí nghiệp
có thể tổ chức một phòng khám bệnh đa khoa có một số giường lưu để phục vụ tại
chỗ cho cán bộ, công nhân viên của xí nghiệp. Nếu xí nghiệp ở vùng rừng núi, xa
các bệnh viện, giao thông không thuận tiện thì phòng khám đa khoa này có giường
bệnh, giường đẻ để phục vụ kịp thời, tại chỗ; ngoài ra căn cứ vào số con của
cán bộ, công nhân viên thuộc xí nghiệp, yêu cầu cấp cứu của nhân dân trong vùng
có thêm một vài giường bệnh trong biên chế.
Phòng khám bệnh đa khoa này có
hai bộ phận: Một bộ phận (thuộc biên chế phòng khám bệnh) làm chức năng của
phòng khám bệnh đa khoa, một bộ phận gồm cán bộ y tế (thuộc biên chế y tế cơ sở)
phụ trách sức khỏe cho cán bộ, công nhân viên ở từng cụm (xưởng – liên xưởng).
Phòng khám bệnh đa khoa này do
ngành y tế quản lý về mọi mặt. Những nơi chưa thống nhất quản lý y tế vào ngành
y tế, phòng khám bệnh đa khoa này làm tham mưu cho giám đốc xí nghiệp về các mặt
công tác y tế và do giám đốc xí nghiệp tổ chức, xây dựng và quản lý trực tiếp;
Sở, Ty y tế địa phương chỉ đạo chuyên môn, nghiệp vụ (riêng ngành điện và than
thực hiện như quyết định số 623-QĐ/LBYT/ĐT ngày 2-12-1975 của liên Bộ Y tế - Điện
và than).
- Những đơn vị không đủ
tiêu chuẩn có biên chế cán bộ y tế, địa phương căn cứ vào tống số cán bộ, công
nhân viên, học sinh của một số đơn vị đóng gần nhau mà bố trí cán bộ y tế phục
vụ. Số cán bộ y tế này do phòng khám bệnh đa khoa nơi đó trực tiếp quản lý.
3.2. Phân loại, quy mô tổ chức
và một số chỉ tiêu định mức cho từng loại: Căn cứ vào số lần khám bệnh, trình độ
chuyên môn kỹ thuật, trang thiết bị, mức độ phát triển các chuyên khoa, phòng
khám bệnh đa khoa khu vực được chia ra làm ba loại như sau:
Số mục
|
Mục
|
Loại 1
|
Loại 2
|
Loại 3
|
I
II
III
|
Số lần khám/ngày
Số chuyên khoa
Số giường lưu
|
150-200
8-12
4-6
|
100-150
5-8
3-5
|
80-100
4-6
2-4
|
IV
|
Các buồng khám và điều trị ngoại
trú
|
- Khám nội
- Khám nhi
- Khám ngoại
- Khám phụ
- Khám da liễu
- Khám thần kinh
tâm thần
- Khám răng
- Khám mắt
- Khám tai mũi họng
- Quản lý bệnh xã hội
|
- Khám tổng hợp
- Khám nhi
- Khám phụ
- Khám răng
- Khám mắt
- Khám tai mũi họng
- Quản lý bệnh xã hội
|
- Khám tổng hợp
- Khám phụ
- Khám răng
- Khám mắt
- Khám tai mũi họng
- Quản lý bệnh xã hội
|
V
|
Các bộ phận chuyên môn khác
|
- Buồng cấp cứu
- Buồng lưu
- Tiểu phẫu thuật
- Bó bột
- Khử trùng
- Châm cứu, lý liệu
- Xét nghiệm (sinh hóa, huyết học, vi trùng)
- X quang
- Dược
- Hành chính
- Y vụ
|
- Buồng cấp cứu
- Buồng lưu
- Tiểu phẫu thuật
- Khử trùng
- Xét nghiệm tổng hợp
- Dược
- Hành chính
- Y vụ
|
- Buồng cấp cứu
- Buồng lưu
- Tiểu phẫu thuật
- Khử trùng
- Xét nghiệm tổng hợp
- Dược
- Hành chính
- Y vụ
|
VI
|
Biên chế (không kể biên chế y
tế cơ sở)
|
20-30
|
10-20
|
8-10
|
VII
|
Diện tích nhà cửa sử dụng (m2)
(có thiết kế mẫu)
|
580
|
290
|
220
|
VIII
|
Nếu có y tế cơ sở đặt trong
phòng khám, mỗi trạm y tế được tăng thêm diện tích (m2)
|
24-30
|
24-30
|
24-30
|
IV. KINH PHÍ
Kinh phí của phòng khám bệnh đa
khoa khu vực đã được Bộ Tài chính thỏa thuận, sẽ có văn bản hướng dẫn của Bộ
Tài chính.
Thông tư này có hiệu lực kể từ
ngày ban hành, trong quá trình thực hiện nếu gặp khó khăn đề nghị Ủy ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các Sở, Ty y tế, các ngành, các
đơn vị phản ảnh về Bộ Y tế để cùng bàn bạc giải quyết.
|
BỘ TRƯỞNG BỘ
Y TẾ
BÁC SĨ
Vũ Văn Cẩn
|