UỶ BAN THỂ DỤC THỂ
THAO
-------
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------
|
Số: 966/QĐ-UBTDTT-TTII
|
Hà Nội, ngày 21
tháng 6 năm 2002
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ
VIỆC BAN HÀNH LUẬT CẦU LỒNG QUỐC TẾ
BỘ TRƯỞNG CHỦ NHIỆM UỶ BAN THỂ DỤC THỂ
THAO
- Căn cứ Nghị định số 15/CP ngày 02/3/1993
của Chính phủ về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý Nhà nước của Bộ, cơ
quan ngang Bộ.
- Căn cứ Nghị định số 03/1998/NĐ-CP ngày 6/01/1998 của Chính phủ về chức năng
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Uỷ ban Thể dục thể thao.
- Xét yêu cầu về phát triển và nâng cao thành tích môn Cầu lông ở nước ta.
- Căn cứ đề nghị của ông Chủ tịch Liên đoàn Cầu lông Việt Nam và ông Vụ trưởng
Vụ thể thao thành tích cao II.
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1: Ban
hành Luật Cầu lông Quốc tế gồm: Phần I - Luật thi đấu Cầu lông có 19 điều; Phần
II - Phụ lục; Phần III – Hình thức và phương pháp thi đấu.
Điều 2: Luật
Cầu lông ngày được áp dụng thống nhất trong các cuộc thi đấu từ cơ sở đến toàn
quốc và thi đấu quốc tế ở nước ta.
Điều 3: Luật
này thay thế cho các luật Cầu lông đã ban hành trước đây và có hiệu lực từ ngày
ký.
Điều 4: Các
ông Vụ trưởng Vụ thể thao thành tích cao II, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ Đào
tạo, Chánh Văn phòng, Giám đốc các Sở Thể dục thể thao chịu trách nhiệm thi hành
quyết định này.
Nơi nhận:
-
Như điều 4
- Lưu TH, TKBT, TTCII
|
BỘ
TRƯỞNG - CHỦ NHIỆM
UỶ BAN THỂ DỤC THỂ THAO
Nguyễn Danh Thái
|
Phần I
LUẬT THI
ĐẤU CẦU LÔNG
ĐIỀU
I: SÂN ĐẤU
1.1. Sân là một hình
chữ nhật như trong sơ đồ “A” (Trừ trường hợp trong Điều 1.5) và kích thước ghi
trong sơ đồ đó, các vạch kẻ rộng 40mm.
1.2. Các đường biên
đều phải dễ nhìn, tốt nhất là đường mầu trắng hoặc vàng.
1.3.1. Để chỉ rõ vùng
rơi của quả cầu đúng quy cách khi thử (điều 4.4) có thể kẻ thêm 4 dấu 40mm x
40mm phía trong đường biên dọc của sân đơn thuộc phần bên giao cầu bên phải,
cách đường biên ngang cuối sân 530mm và 990mm.
1.3.2. Khi kẻ các dấu
này, chiều rộng của các dấu phải ở trong phạm vi kích thước đã nêu, nghĩa là
dấu phải cách với cạnh ngoài của đường biên ngang cuối sân từ 530mm đến 570mm
và từ 950mm đến 990mm.
1.4. Mọi vạch kẻ đều
là phần của diện tích được xác định.
1.5. Nếu mặt bằng
không cho phép kẻ được sân đánh đơn và đôi thì kẻ sân đánh đơn như trong sơ đồ
“B”.
Đường biên ngang cuối
sân cũng đồng thời là đường biên giao cầu xa, các cột trụ hoặc bằng vải hay các
vật liệu khác thay cho cột (Điều 2.2) đều phải đặt trên đường biên dọc.
ĐIỀU
II: CỘT CĂNG LƯỚI
2.1. Cột căng lưới
phải cao 1m55 kể từ mặt sân, các cột phải vững chắc để có thể đứng thẳng và giữ
cho lưới được thật căng như chỉ rõ ở Điều 3 và phải được đặt trên biên dọc như
trong sơ đồ A.
2.2. Trường hợp không
thể làm được cột trên các đường biên dọc, có thể dùng cách nào đó để chỉ rõ vị
trí của các đường biên dọc phía dưới lưới, chẳng hạn dùng các cột thanh mảnh
hơn, hoặc bằng vải hay các vật liệu khác có chiều rộng 4mm, cố định các vật
thay thế này từ đường biên dọc và kéo thẳng đứng lên dây căng lưới.
Sân đánh
đơn – đôi
2.3. Trên sân đánh
đôi, các cột hay các vật thay thế phải được đặt trên các đường biên dọc của sân
đánh đôi, dù thực tế là thi đấu đơn hoặc đôi.
ĐIỀU
III: LƯỚI
3.1. Lưới phải làm
bằng dây nhỏ màu sẫm, mắt lưới không dưới 15mm và không quá 20mm.
3.2. Lưới phải có
chiều ngang 760mm.
3.3. Phía trên lưới
phải viền bằng 1 băng trắng, rộng 75mm có cấu tạo để luồn được dây căng lưới
qua băng đó.
3.4. Dây căng lưới
phải có kích thước và trọng lượng thích hợp để có thể căng được lưới thẳng
ngang đỉnh cột.
3.5. Cạnh trên của
lưới so với mặt sân phải cao 1m524 ở vị trí giữa sân và 1m55 tại đường biên dọc
sân đôi.
3.6. Không được để
khoảng cách giữa lưới và cột, nếu cần có thể buộc các cạnh bên của lưới vào
cột.
ĐIỀU
IV: CẦU
Các nguyên tắc: Cầu
có thể làm bằng vật liệu tự nhiên hay bằng vật liệu tổng hợp. Dù làm bằng vật
liệu nào cầu cũng phải có các đặc tính bay như cầu làm bằng lông vũ tự nhiên
với một đế li – e bọc một lớp da mỏng.
Liên quan đến các
nguyên tắc trên đây là:
4.1. Mô tả đại cương:
4.1.1. Cầu phải có 16
lông vũ gắn liền vào đế.
4.1.2. Lông vũ có thể
có chiều dài từ 64mm đến 70mm nhưng ở mỗi quả cầu tất cả các lông đều phải dài
bằng nhau nếu đo từ đầu lông đến đỉnh của đế cầu.
4.1.3. Phần đầu của
các lông vũ này phải làm thành 1 vòng tròn có đường kính từ 59mm đến 68mm.
4.1.4. Các lông vũ
phải được gắn chặt với nhau bằng chỉ và các vật liệu thích hợp.
4.1.5. Đế cầu phải: -
Có đường kính từ 25mm đến 28mm.
- Đáy phải tròn.
4.2. Trọng lượng:
Cầu phải có trọng
lượng từ 4,74 đến 5,50gram.
4.3. Cầu không có
lông vũ:
4.3.1. (Phần áo cầu)
hay phần vật liệu tổng hợp thay cho lông vũ.
4.3.2. Đế cầu đã nói
ở Điều 4.1.5.
4.3.3. Kích thước và
trọng lượng cầu được quy định trong Điều 4.1.2, 4.1.3 và 4.2. Tuy nhiên do
trọng lượng riêng và tính chất của các vật liệu tổng hợp khác với lông vũ nên
có thể sai lệch trong phạm vi 10%.
4.4. Thử cầu:
4.4.1. Để thử cầu,
phải đứng từ biên ngang cuối sân, đánh cầu vồng và thật mạnh vào cầu, cầu phải
bay đi theo hướng đi lên, và song song với các đường biên dọc.
4.4.2. Cầu đúng quy
cách phải rơi không dưới 530mm và không quá 990mm tính từ biên ngang cuối sân
phía bên kia.
4.5. Sửa đổi:
Không được có sửa đổi
nữa về đại cương, tầm rơi và độ bay của cầu, chỉ có thể sửa đổi những quy định
trên với sự đồng ý của các tổ chức Hội cầu lông có liên quan.
4.5.1. Ở những nơi có
các điều kiện khí quyển, vì lý do độ cao hay thời tiết không phù hợp với quả
cầu chuẩn.
4.5.2. Trong những
hoàn cảnh đặc biệt đòi hỏi những điều kiện khác vì quyền lợi của trận đấu.
ĐIỀU
V: VỢT
5.1. Mặt đánh của vợt
phải bằng phẳng và cấu tạo bởi dây đan căng trên khung. Dây đan phải đồng đều
và đặc biệt ở giữa vợt không được thưa hơn ở các chỗ khác.
5.2. Khung vợt, kể cả
cán không được vượt quá 680mm chiều dài và 230mm chiều rộng.
5.3. Chiều dài của
phần đầu vợt không được vượt quá 290mm.
5.4. Diện tích căng
dây không được quá 280mm chiều dài và 220 chiều rộng.
5.5. Vợt:
5.5.1. Trên vợt không
được có các vật gắn thêm và những chỗ lồi lên, ngoài những chi tiết chỉ dùng
đặc biệt vào mục đích hạn chế và chống tác dụng mòn rách, hoặc rung hay bị phân
bổ trọng lượng hay để làm vững cán bằng dây buộc vào tay cầu thủ vừa phải về
kích thước và lắp đặt chỉ với các mục đích đã nêu trên.
5.5.2. Không được có
bất kỳ một thiết bị nào giúp cho đấu thủ có thể thay đổi hình dạng của vợt.
ĐIỀU
VI: TRANG BỊ CHO PHÉP
Liên đoàn Cầu lông
quốc tế sẽ ra quy định về vấn đề vợt, cầu hoặc bất kỳ một trang thiết bị nào
dùng đến trong thi đấu cầu lông là phù hợp với các quy định hay không phù hợp
mà được phép hay không được phép sử dụng.
Việc ra luật như vậy
có thể được thực hiện trên cơ sở sáng kiến của Liên đoàn hay trên cơ sở áp dụng
của một bên nào đó có thiện chí, trong đó bao gồm bất kỳ cầu thủ nào, nhà chế
tạo dụng cụ hay tổ chức Hội thành viên nào.
ĐIỀU
VII: ĐẤU THỦ
7.1. Từ “đấu thủ” áp
dụng cho mọi người tham gia trận đấu.
7.2. Trận đấu được
thực hiện trong trường hợp đánh đôi với 2 đấu thủ một bên và trong trường hợp
đánh đơn với một đấu thủ một bên.
7.3. Bên được quyền
giao cầu được gọi là “Bên giao cầu”, còn bên kia được gọi là “Bên nhận giao
cầu”.
ĐIỀU
VIII: BỐC THĂM
Trước khi bắt đầu
cuộc đấu, hai bên sẽ bốc thăm, bên được thăm được quyền chọn theo Điều 8.1.1
hoặc Điều 8.1.2.
8.1.1. Giao cầu hoặc
nhận giao cầu.
8.1.2. Bên thua bốc
thăm sẽ chọn những điều còn lại.
8.2. Bên cạnh bốc
thăm sẽ chọn những điều còn lại.
ĐIỀU
IX: TÍNH ĐIỂM
9.1. Hai bên thi đấu
trong 3 hiệp, trừ khi có sự dàn xếp khác.
9.2. Chỉ có bên giao
cầu mới được tính điểm.
9.3. Trong thi đấu
đơn nam, đôi nam, đôi nữ và đôi nam nữ bên dẫn trước 15 điểm sẽ thắng hiệp đó,
trừ khi có xảy ra như Điều 9.6.
9.4. Trong thi đấu
đơn nữ, bên dẫn trước 11 điểm sẽ thắng hiệp đó, trừ khi có xảy ra như Điều 9.6.
9.5. 1. Khi điểm số
là 14 đều đối với đơn nam, đôi nam, đôi nữ, đôi nam nữ (hoặc 10 đều đối với đơn
nữ) thì bên dẫn điểm trước ở tỷ số 14 (hoặc 10 đều) sẽ được quyền lựa chọn đánh
thêm hoặc không lựa chọn đánh thêm 3 điểm cho hiệp đấu (theo Điều 9.6).
9.5.2. Việc lựa chọn
này chỉ được thực hiện một lần đối với bên nào dẫn điểm trước ở tỷ số 14 đều
đối với đơn nam, đôi nam, đôi nữ, đôi nam nữ (hoặc 10 đều đối với đơn nữ) và
phải thực hiện trước khi quả giao cầu tiếp theo.
9.6. Khi hiệp đấu đã
lựa chọn số điểm gọi là không đều (LOVE ALL), bên nào đạt trước số điểm được
chọn sẽ thắng hiệp đó (Điều 9.6.1; Điều 9.6.2).
9.6.1. Đơn nam, đôi
nam, đôi nữ, đôi nam nữ tỷ số 14 đều đánh thêm 3 điểm.
9.6.2. Đơn nữ tỷ số
10 đều đánh thêm 3 điểm.
9.7. Bên thắng hiệp
đấu sẽ giao cầu trước ở hiệp sau.
ĐIỀU
X: ĐỔI BÊN
10.1. Các đấu thủ đổi
sân:
10.1.1. Sau hiệp thứ
nhất.
10.1.2. Trước khi bắt
đầu đấu hiệp thứ ba.
10.1.3. Ở hiệp thứ 3
khi điểm số đạt 8 điểm ở hiệp đấu 15 điểm (hoặc 6 điểm ở hiệp đấu 11 điểm) các
đấu thủ của hai bên thực hiện đổi sân.
10.2. Khi đấu thủ
quên không đổi sân như đã hướng dẫn ở Điều 10.1, họ phải đổi sân ngay khi lỗi
lầm được phát hiện và điểm số hiện tại vẫn được giữ nguyên.
10.3. Thời gian nghỉ
giữa các hiệp đấu:
- Hết hiệp 1 trước
khi vào hiệp hai các vận động viên được nghỉ tối đa 90 giây.
- Hết hiệp 2 trước
khi vào hiệp 3 các vận động viên được nghỉ 5 phút.
Huấn luyện viên được
phép chỉ đạo trong hai thời gian nghỉ trên.
ĐIỀU
XI: GIAO CẦU
11.1. Quả giao cầu đúng
khi:
11.1.1. Không bên nào
gây nên sự cản trở quá mức việc giao cầu.
11.1.2. Người giao và
nhận cầu phải đứng chéo đối diện với phần sân giao cầu và không được chạm đường
biên của những phần sân giao cầu và không được chạm đường biên của những phần sân
nhận giao cầu; một phần của cả hai bàn chân của người giao và nhận cầu phải
tiếp xúc (chạm) mặt sân ở tư thế không di chuyển cho đến khi cầu được phát đi
(Điều 11.4).
11.1.3. Vợt của người
giao cầu phải tiếp xúc vào phần núm của quả cầu và lúc này toàn bộ quả cầu phải
nằm ở phía dưới thắt lưng của người giao cầu.
11.1.4. Tay nắm cảu
người giao cầu vào lúc chạm cầu phải được xác định là toàn bộ mặt vợt (đầu vợt)
phải được thấy rõ dưới toàn bộ tay cầm vợt của người giao cầu.
11.1.5. Vợt được tiếp
tục chuyển động về phía trước khi giao cầu (Điều 11.2) cho đến khi cầu được
phát đi.
11.1.6. Hướng bay của
cầu phải được xuất phát từ vợt bay qua trên lưới, nếu không bị chặn lại và rơi
xuống phần sân nhận cầu.
- Nếu khi giao cầu,
cầu bay chạm vào mép trên lưới, nhưng rơi vào trong khu vực nhận cầu thì lần
giao cầu đó là hợp lệ.
11.2. Khi đấu thủ đã
ở tư thế chuẩn bị, đã có động tác vợt (vợt phía trước) coi như đã bắt đầu giao
cầu.
11.3. Người giao cầu
chưa được giao cầu khi người nhận cầu chưa sẵn sàng, nhưng người nhận cầu coi
như đã sẵn sàng nếu đã định đánh trả cầu.
11.4. Coi như đã giao
cầu khi đã chạm vợt (người giao cầu) hoặc cầu chạm mặt sân.
11.5. Trong đánh đôi,
các đấu thủ đồng đội có thể đứng ở bất kỳ vị trí nào trên sân miễn không cản
trở đối phương.
ĐIỀU
XII: ĐÁNH ĐƠN
12.1. Đấu thủ sẽ giao
cầu từ, hoặc nhận cầu tại ô bên phải sân khi đối phương có điểm số chẵn.
12.2. Đấu thủ sẽ giao
cầu từ hoặc nhận cầu tại ô bên trái sân khi đối phương có điểm số lẻ.
12.3. Trong hiệp đấu,
tổng số điểm đạt được của người giao cầu sẽ được dùng để áp dụng Điều 12.1 và
12.2.
12.4. Cầu lần lượt
chạm vợt người giao và nhận cầu cho đến khi có “lỗi” xảy ra hoặc cầu không còn
trong cuộc.
12.5. Khi người nhận
cầu phạm lỗi hoặc khi cầu không còn trong cuộc mà cầu chạm sân trong vạch giới
hạn của sân phía nhận cầu, người giao cầu được 1 điểm, người giao tiếp tục giao
cầu từ phần sân kế tiếp.
12.6. Khi người giao
cầu phạm lỗi, hoặc khi cầu không còn trong cuộc mà cầu chạm sân trong vạch giới
hạn của sân phía giao cầu, người giao mất quyền giao cầu tiếp tục, người đang
nhận cầu được quyền giao cầu và không tính điểm cho bên nào cả.
ĐIỀU
XIII: ĐÁNH ĐÔI
13.1. Bắt đầu mỗi
hiệp, bên được quyền giao cầu sẽ phát cầu từ ô bên phải của sân chéo sáng ô bên
phải sân đối phương.
13.2. Chỉ người nhận
cầu mới được đánh trả, nếu cầu chạm người hoặc bị đánh trả lại bởi đồng đội của
người nhận cầu, bên giao cầu được 1 điểm.
13.3.1. Sau khi cầu
được đánh trả (đúng luật) cầu được đánh trả tiếp bởi bất kể đấu thủ nào của bên
nhận cầu và giao cầu cứ như thế, cho đến khi cầu không còn trong cuộc.
13.3.2. Sau khi cầu
được đánh trả, các đấu thủ có thể đánh cầu bất cứ đâu trên phần sân của mình
(được phân chia bởi lưới).
13.4.1. Nếu bên nhận
cầu phạm lỗi, hoặc cầu không còn trong cuộc vì chạm sân trong vạch giới hạn
phía nhận cầu được 1 điểm và người giao tiếp tục giao cầu.
13.4.2. Nếu bên giao
cầu phạm lỗi hoặc cầu không còn trong cuộc vì chạm sân trong vạch giới hạn phía
giao cầu, người giao cầu mất quyền tiếp tục giao cầu, không bên nào được nhận
điểm.
13.5.1. Đấu thủ giao
cầu đầu tiên ở mỗi hiệp, giao cầu từ ô bên phải sân nếu chưa có điểm hoặc có
điểm số chẵn và ở ô bên trái nếu điểm số là lẻ.
13.5.2. Đấu thủ nhận
cầu đầu tiên ở mỗi hiệp, nhận cầu từ hoặc sẽ giao cầu từ ô bên phải sân nếu
không có điểm hoặc sau đó có điểm số chẵn và ở ô bên trái nếu điểm số là lẻ.
13.5.3. Cứ như trên,
phần đối lại áp dụng cho đấu thủ đồng đội.
13.5.4. Khi đổi giao
cầu, tổng số điểm đạt được của 1 bên được dùng để áp dụng Điều 13.5.1 và
13.5.2.
Ghi chú: Khi đổi giao cầu.
Đấu thủ nào của bên được quyền giao cầu ở ô bên phải (theo Điều 13.5.1 và
13.5.2) sẽ giao trước. Không kể đấu thủ đó là số 1 hoặc số 2.
13.6. Việc giao cầu
được áp dụng luân phiên ở 2 bên sân trừ trường hợp quy định ở Điều 14 và 16.
13.7. Quyền giao cầu
được lần lượt chuyển từ người giao cầu đầu tiên của mỗi hiệp cho người nhận cầu
đầu tiên của hiệp đó và sau đấu thủ này (đấu thủ vừa nhận cầu) là chuyển cho
đấu thủ đồng đội, rồi sau đó cho một người phía bên kia, rồi đến đồng đội của
đấu thủ bên kia, cứ thế mãi.
(Bên được quyền giao
cầu đầu tiên của mỗi hiệp chỉ được một tay; từ bên nhận cầu sẽ lần lượt được 2
tay).
13.8. Không đấu thủ
nào được giao cầu không đúng lượt, nhận cầu không đúng lượt, hay nhận cầu liên
tiếp 2 lần trong cùng 1 hiệp đấu trừ trường hợp nêu trong Điều 14 và 16.
13.9. Bất kỳ đấu thủ
nào của bên thắng đều có thể được giao cầu đầu tiên ở hiệp kế tiếp và bất kỳ
đấu thủ nào của bên thua cũng có thể nhận cầu ở hiệp kế tiếp.
ĐIỀU
XIV: LỖI GIAO CẦU NHẦM Ô
14.1. Coi như giao
cầu nhầm ô, nếu một đấu thủ:
14.1.1. Giao cầu
không đúng luật.
14.1.2. Giao cầu nhầm
ô.
14.1.3. Đứng nhầm ô
giao cầu (đối phương đã sẵn sàng để nhận cầu và cầu đã được đánh trả lại).
14.2. Mọi lỗi giao
cầu nhầm ô xảy ra khi:
14.2.1. Nếu lỗi được
phát hiện trước quả giao cầu tiếp theo, đây là một trường hợp “giao cầu lại”,
trừ khi chỉ có bên phạm lỗi và thua điểm, trong trường hợp này lỗi không phải
sửa.
14.2.2. Nếu lỗi không
được phát hiện trước quả giao cầu kế tiếp, lỗi đó không phải sửa nữa.
14.3. Nếu có “giao
cầu lại” trường hợp giao cầu nhầm ô, cho đánh lại với lỗi đã sửa.
14.4. Nếu lỗi giao
cầu nhầm ô không được phát hiện, cuộc đấu tiếp tục mà không đổi ô nữa.
ĐIỀU
XV: PHẠM LỖI
Là một lỗi nếu:
15.1. Giao cầu phạm
luật (Điều 11.1)
15.2. Người giao cầu
không đánh trúng trái cầu.
15.3. Trong khi giao
cầu quả cầu bay đi chạm vào mép trên của lưới, nhưng lại mắc, treo ở mép trên
bên kia lưới. Trong trường hợp này mất quyền giao cầu.
15.4. Trong cuộc đấu,
quả cầu:
15.4.1. Rơi ra ngoài
vạch giới hạn của sân.
15.4.2. Chui qua hoặc
đi dưới lưới.
15.4.3. Không qua
lưới.
15.4.4. Chạm mái nhà,
trần nhà, tường (vật xung quanh).
15.4.5. Chạm người
hay quần áo đấu thủ.
15.4.6. Chạm bất kể
đồ vật hoặc người ngoài sân (khi cần thiết để giải thích) với kết cấu của công
trình kiến trúc nơi thi đấu, những người có trách nhiệm (về cầu lông) ở địa
phương (có thể có lý lẽ để bác bỏ những quy định của tổ chức quốc tế, định ra
những luật lệ của địa phương về việc cầu chạm phải một vật cản trở).
15.5. Nếu trong cuộc
đấu, điểm đầu tiên chạm cầu (không phải ở phía lưới bên sân tấn công (cướp
cầu), bên tấn công có thể đưa vợt theo cầu qua lưới khi đánh cầu gần lưới).
15.6. Nếu khi cầu
đang trong cuộc, đấu thủ:
15.6.1. Chạm lưới
hoặc cọc lưới bằng vợt, thân mình hay quần áo.
15.6.2. Vượt qua sân
đối phương bằng vợt hoặc thân mình ở mức độ nào đó, trừ trường hợp cho phép ở
Điều 15.5.
15.6.3. Ngăn cản đối
phương khi thực hiện hợp lý một cú đánh khi cầu bay trên lưới (chắn cầu).
15.7. Nếu trong cuộc
đấu, một đấu thủ cố tình làm cản trở đối phương bằng hành động nào đó như hò
hét hoặc bằng cử chỉ.
15.8. Nếu trong cuộc
đấu, cầu:
15.8.1. Bị giữ lại
trên vợt và rê trên mặt vợt khi thực hiện cú đánh (dính cầu).
15.8.2. Chạm một đấu
thủ và tiếp đó đấu thủ đồng đội Hay:
15.8.3. Chạm vợt của
một đấu thủ và tiếp tục bay về phía cuối sân của đấu thủ vừa chạm cầu.
15.9. Một đấu thủ
phạm lỗi rõ ràng (lặp đi lặp lại một cách cố tình các lỗi ở điều 18).
Lưu ý: Trước đây
những quả cầu đánh từ sân bên này sang sân bên kia, nếu khi bay cầu đi vòng ra
ngoài sân (không kể cao hay thấp hơn cột lưới) trước khi vào sân bên kia là
phạm lỗi. Hiện nay theo quy định mới của IBF những quả cầu này được tính là cầu
tốt (không phạm lỗi).
ĐIỀU
XVI: GIAO CẦU LẠI
“Giao cầu lại” được
phát ra bởi trọng tài, hoặc một đấu thủ (nếu không có trọng tài) để ngừng trận
đấu.
16.1. “Giao cầu lại”
được ban hành khi có sự cố bất ngờ xảy ra.
16.2. Trong khi đánh
cầu, quả cầu bay đi chạm vào mép trên của lưới, nhưng lại mắc, treo ở mép trên
bên kia của lưới. Trong trường hợp này giao cầu lại.
16.3. Trong khi giao
cầu, cả bên giao cầu và bên nhận cầu đều phạm lỗi cùng một lúc phải cho “giao
cầu lại”.
16.4. Nếu người giao
cầu giao trước khi đối phương sẵn sàng, phải cho “giao cầu lại”.
16.5. Nếu trong cuộc
đấu, thân cầu rời khỏi núm cầu cho “giao cầu lại”.
16.6. Nếu trọng tài
biên không xác định được điểm rơi quả cầu và trọng tài chính không đủ điều
kiện, khả năng thì cho “giao cầu lại”.
16.7. Khi có giao cầu
lại, cuộc đấu kể từ quả giao cầu cuối không được tính, đấu thủ vừa giao cầu,
giao cầu tiếp trừ trường hợp Điều 14 được vận dụng.
ĐIỀU
XVII: CẦU KHÔNG TRONG CUỘC
Cầu không còn trong
cuộc khi:
17.1. Chạm lưới và
lại vướng hoặc treo (dính) trên đỉnh lưới.
17.2. Khi quả cầu
đánh đi chạm vào lưới hoặc cọc lưới và bắt đầu rơi thẳng xuống phía sân người
đánh cầu.
17.3. Chạm sân hoặc
phạm lỗi.
17.4. Mỗi (lỗi) hoặc
“giao cầu lại”.
ĐIỀU
XVIII: TIẾN TRÌNH CUỘC ĐẤU, HÀNH ĐỘNG THÔ BẠO VÀ TRUẤT QUYỀN THI ĐẤU
18.1.Cuộc đấu được
tính từ lần giao cầu đầu tiên cho đến khi kết thúc, trừ trường hợp cho phép ở
Điều 18.2 và 18.3.
18.2. Một giai đoạn
không quá 5 phút là được phép giữa hiệp thứ 2 và hiệp thứ 3 của mọi cuộc đấu
trong toàn cảnh dưới đây:
18.2.1. Trong những
trận thi đấu quốc tế.
18.2.2. Trong những
trận đấu được IBF chuẩn y.
18.2.3. Trong mọi
cuộc thi đấu khác (trừ khi Ban tổ chức đã công bố trước đó và quyết định không
cho phép khoảng cách đó).
18.3. Khi có hoàn
cảnh cần thiết ngoài ý muốn của đấu thủ, trọng tài có thể cho ngừng trận đấu
một khoảng thời gian cần thiết. Nếu trận đấu bị ngừng lại thì số điểm tới đó
được giữ nguyên và trận đấu sẽ lại tiếp tục từ điểm số đó.
18.4. Trong bất kỳ
hoàn cảnh nào, đấu thủ cũng không được ngừng trận đấu để lấy lại sức hoặc để
nghe lời chỉ dẫn.
18.5.1. Trừ những
khoảng cách định ra, trong điều 18.2 và 18.3, không một đấu thủ nào được phép
nhận lời chỉ dẫn trong trận đấu.
18.5.2. Trừ khi trận
đấu kết thúc, không đấu thủ nào được ra khỏi sân mà không được trọng tài đồng
ý.
18.6. Trọng tài chính
là người phán quyết duy nhất về bất kỳ một sự ngừng đấu nào.
18.7. Đấu thủ không
được:
18.7.1. Cố tình làm
trận đấu ngừng lại.
18.7.2. Cố tình làm
ảnh hưởng đến tốc độ của cầu.
18.7.3. Có thái độ
thô bạo.
18.7.4. Phạm lỗi xấu;
không được luật cầu lông cho phép.
18.8. Trọng tài sẽ
không theo các Điều 18.4, 18.5, 18.7 khi:
18.8.1. Cảnh cáo bên
chơi có hành động thô bạo.
18.8.2. Khiển trách
bên chơi có hành động thô bạo nếu trước đó đã cảnh cáo.
18.8.3. Trong trường
hợp có sự xúc phạm trắng trợn, hoặc ngoan cố, khiển trách bên xúc phạm, báo cáo
với tổng trọng tài là người có quyền truất quyền thi đấu.
18.9. Trường hợp
không có tổng trọng tài thì quan chức có trách nhiệm sẽ có quyền truất quyền
thi đấu.
ĐIỀU
XIX: CÁC QUAN CHỨC VÀ VIỆC KHIẾU NẠI
19.1. Tổng trọng tài
chịu trách nhiệm toàn bộ cuộc thi đấu và các sự cố trong thi đấu.
19.2. Trọng tài chính
(được phân công) chịu trách nhiệm về trận đấu, sân cầu và khu vực quanh sân
cầu. Trọng tài chính phải xin ý kiến tổng trọng tài (khi tự mình không quyết
định được). Nếu tổng trọng tài vắng mặt, trọng tài chính phải trao đổi những
vấn đề đó với quan chức khác có trách nhiệm.
19.3. Trọng tài giao
cầu quyết định lỗi khi người giao cầu phạm lỗi (Điều 11).
19.4. Trọng tài biên
quyết định quả cầu “trong” hoặc “ngoài”.
Trọng tài chính phải:
19.5. Tôn trọng luật
và phải tuyên bố “lỗi” hay “giao cầu lại” khi điều đó xảy ra mặc dù đấu thủ
không khiếu nại.
19.6. Đưa ra quyết
định về mọi khiếu nại liên quan đến một tranh chấp, điều đó được thực hiện
trước lần giao cầu tiếp theo.
19.7. Đảm bảo cho các
đấu thủ và khán giả được biết thông báo về tiến trình của trận đấu.
19.8. Thảo luận với
tổng trọng tài về việc chỉ định hoặc bãi miễn trọng tài biên hoặc trọng tài
giao cầu (khi cần thiết).
19.9. Trọng tài chính
có quyền bác bỏ quyết định của trọng tài biên và trọng tài giao cầu về những
điểm cụ thể.
19.10.1. Trường hợp
một vị trí trọng tài nào trên sân bị thiếu (không được chỉ định) thì sắp xếp,
phân công trọng tài sao cho nhiệm vụ ấy được thực hiện.
19.10.2. Trương hợp
trọng tài ở các vị trí trên sân đã được phân công mà vắng mặt, trọng tài chính
làm thay nhiệm vụ đó hoặc “giao cầu lại” (để phân công lại).
19.11. Đưa ra quyết
định về mọi trường hợp ngừng đấu.
19.12. Ghi biên bản
thi đấu và phản ánh với tổng trọng tài mọi sự liên quan đến Điều 18.
19.13. Những khiếu
nại này phải được giải quyết trước lần giao cầu tiếp theo hay khi kết thúc trận
đấu trước khi bên khiếu nại rời sân.
Ghi chú: Trong khi đấu thủ
của đội mình thi đấu, Huấn luyện viên hoặc lãnh đội không được phép ngồi ở trên
mặt sân thi đấu.
Phần II
PHỤ LỤC
1.
GIỚI THIỆU
1.1. “Lời khuyên đối
với người điều khiển trận đấu” được IBF xuất bản với mong muốn để đạt tới chuẩn
mực về điều khiển trận đấu ở tất cả các nước và phù hợp với các nguyên tắc của
nó.
1.2. Mục đích để giúp
các trọng tài điều khiển trận đấu công bằng, kiên quyết để đảm bảo điều đó,
luật phải được thực hiện.
- Những lời khuyên
này cũng giúp trọng tài phát cầu và trọng tài biên thực hiện bổn phận của họ
một cách tốt nhất.
Tất cả các trọng tài
phải nhớ rằng trận đấu vì các đấu thủ.
2.
TRỌNG TÀI VÀ CÁC QUYẾT ĐỊNH CỦA HỌ
2.1. Trọng tài chính
làm việc dưới quyền của Tổng trọng tài (trách nhiệm của trọng tài chính khi
vắng mặt tổng trọng tài).
2.2. Trọng tài giao
cầu được chỉ định do Tổng trọng tài, có thể do trọng tài chính chỉ định thông
qua tổng trọng tài.
2.3. Trọng tài biên
cũng do Tổng trọng tài chỉ định, có thể do trọng tài chính chỉ định thông qua
tổng trọng tài.
2.4. Kết quả cuối
cùng là tỉ số thực tế mà các trọng tài phải chịu trách nhiệm.
3.
TRỌNG TÀI CHÍNH CẦN LƯU Ý
3.1. Trước trận đấu:
3.1.1. Nhận hộp số từ
tổng trọng tài
3.1.2. Đảm bảo: mọi
phương thức ghi điểm được công nhận.
3.1.3. Kiểm tra vị
trí cọc (so với đường kẻ) và dây buộc đúng vị trí.
3.1.4. Kiểm tra lưới,
cọc về chiều cao, đảm bảo có sự chênh lệch về độ cao giữa 2 đầu lưới.
3.1.5. Chắc chắn rằng
không có bất kỳ luật địa phương nào ảnh hưởng tới trận đấu.
3.1.6. Đảm bảo trọng
tài giao cầu và biên biết rõ trách nhiệm của họ và vị trí trên sân (phần 5 và
6).
3.1.7. Đảm bảo cầu
đạt tiêu chuẩn (điều 4) luôn có sẵn cho trận đấu để tránh làm ảnh hưởng đến
trận đấu.
3.1.8. Thông báo với
tổng trọng tài hoặc quan chức có trách nhiệm về sự vi phạm quy tắc trận đấu về
quảng cáo hoặc màu sắc quần áo.
3.2. Bắt đầu trận
đấu, trọng tài chính:
3.2.1. Đảm bảo việc
bốc thăm công bằng, cả 2 bên đều chọn đúng (quy định) Điều 8.
3.2.2. Ghi nhớ, trong
đấu đôi, tên của người bên phải sân khi bắt đầu trận đấu (phải ghi nhớ ở đầu
mỗi hiệp), để có thể kiểm tra bất cứ lúc nào vị trí đúng của các đấu thủ.
3.2.3. Trong cuộc
đấu:
Thông báo trận đấu
như sau: “Thưa quý ông và quý bà, đây là trận bán kết (hoặc chung kết) của trận
đấu đơn nam,….”
Giữa… và …“bên phải
tôi là X và bên trái tôi là Y (có chỉ sang phải và trái) X giao cầu”
(Trong đấu đồng đội)
“Đây là trận đấu đơn
đầu tiên (hoặc v.v… của (ví dụ) Thomas Cúp giữa “A” và “B” (tên nước). Bên phải
là “A” người đại diện là X và bên trái “B” người đại diện là Y (chỉ sang phải,
sang trái nói). A giao cầu, 0 - đều, bắt đầu (sau đó chỉ nhắc tên đội, ví dụ
“A” và “B” hơn là tên người chơi X và Y”.
Trong đấu đôi, để
nhận diện bên giao cầu và nhận cầu “bên phải là A tên W và X, bên trái là B tên
Y và Z, A giao cầu, X giao cầu cho Y, 0 – 0, bắt đầu”.
3.3. Trong suốt trận
đấu, trọng tài chính sẽ ghi và thông báo điểm.
3.3.1. Luôn thông báo
điểm bên giao trước.
3.3.2. Trong đấu đơn,
khi người giao đánh hỏng sẽ thông báo:
“Đổi giao cầu”.
Điểm thông báo theo
người giao mới.
3.3.3. Đấu đôi, đầu
trận đấu sẽ thông báo, điểm của người giao cầu đầu, nếu người giao cầu đầu mất
quyền giao cầu (bị hỏng) sẽ thông báo:
“Đổi giao cầu”
và thông báo điểm
theo người giao cầu mới và khi người số 1 mất quyền giao cầu, thông báo điểm và
tiếp theo là:
“Đổi tay 2”
tiếp tục là người thứ
2. Khi 1 bên mất quyền giao cầu sẽ thông báo:
“Đổi giao cầu”
thông báo điểm theo
người giao mới.
3.3.4. Khi 1 bên đạt
14, hoặc đơn nữ là 10, sẽ thông báo lần đầu tiên và duy nhất trong mỗi hiệp là
“điểm chốt” hoặc “điểm cuối cùng”. Khi thích hợp, trong trường hợp chọn thêm
điểm thắng thua và sau khi chọn điểm sẽ thông báo 1 lần nữa.
3.3.5. Lúc thích hợp,
hỏi bên thích hợp.
“Bên A có chọn điểm
không?”.
và nếu câu trả lời
đồng ý, sẽ thông báo:
“Đánh thêm…điểm, 0 –
0 (và tay 2 giao cầu), nếu thích hợp hoặc, nếu câu trả lời là không đồng ý, sẽ
thông báo:
“Không đánh thêm
điểm”.
3.3.6. Cuối mỗi hiệp,
luôn thông báo tỷ số cuối cùng của hiệp. Khi thích hợp là lúc bắt đầu nghỉ
(Điều 18.2). Sau khi kết thúc mỗi hiệp, thông báo:
“Hiệp đấu thắng…tên,
hoặc đội (tỷ số) hoặc nếu là hiệp kết thúc trận đấu:
“Trận đấu thắng bởi
(tên hoặc tên đội)…(tỷ số).
3.3.7. Để bắt đầu
hiệp thứ 2, sẽ thông báo:
“Hiệp 2, 0 – 0 bắt
đầu”.
3.3.8. Nếu là hiệp
thứ 3.
“Hiệp cuối cùng” ngay
sau khi thông báo Điều 3.3.6.
Nếu 5 phút nghỉ được
đòi hỏi, thông báo:
“5 phút nghỉ”.
Sau 3 phút, thông
báo: (Nếu thích hợp, còn 2 phút, nhắc lại thông báo).
Sau 4 phút, thông
báo: (nếu thích hợp, còn 1 phút nhắc lại thông báo).
Bắt đầu hiệp 3, thông
báo:
“Hiệp cuối cùng, 0 –
0 bắt đầu”.
3.3.9. Trong hiệp thứ
3, thông báo tỷ số khi đổi sân, khi 1 bên dẫn tới 6 hoặc 8 (Điều 10.1.3).
Khi đổi sân, tỷ số
được nhắc lại và “bắt đầu”.
3.3.10. Cuối trận
đấu, ngay lập tức đưa kết quả trận đấu lên tổng trọng tài.
3.4. Nếu trọng tài
giao cầu được chỉ định, trọng tài chính đặc biệt chú ý tới người nhận.
3.5. Trọng tài chính
luôn nhìn về trọng tài biên khi cầu rơi xuống gần vạch, khi cầu ra ngoài sân.
Trọng tài biên hoàn toàn chịu trách nhiệm quyết định.
3.6. Trong suốt trận
đấu trọng tài chính sẽ:
3.6.1. Nếu có thể,
thông báo cầu tốt hoặc xấu trước mỗi khi quyết định điểm.
3.6.2. Khi cầu rơi
ngoài sân, nếu trọng tài biên vắng mặt hoặc không nhìn thấy, trọng tài chính sẽ
thông báo “ngoài” trước khi thông báo tỷ số.
3.7. Trong suốt quá
trình trận đấu, trọng tài chính sẽ sử dụng ngôn ngữ chuẩn trong phụ lục 4 của
luật cầu lông.
3.8. Trong quá trình
thi đấu, những lỗi có thể phạm và cách giải quyết như sau:
3.8.1. Một đấu thủ
đang thi đấu trượt chân qua lưới hoặc ném vợt vào phía đối phương sẽ phạm lỗi
(Điều 15.6.2)
3.8.2. Một đấu thủ
đang thi đấu hét to với người cặp đôi về việc đánh cầu, làm đối phương lúng
túng. Trọng tài thông báo “hỏng” v.v…coi như 1 sự rối loạn.
3.8.3. Việc hướng dẫn
trong quá trình trận đấu từ ngoài sân bị cấm. Nếu trọng tài chính không điều
khiển được, trọng tài ra thông báo: “đã can thiệp”.
3.8.4. Đấu thủ đang
thi đấu có thể ra sân lau tay v.v… điều này có thể được chấp nhận, nhưng nếu 1
bên sẵn sàng chơi, bên phòng thủ có thể nhắc nhở rằng rời sân cần được sự đồng
ý của trọng tài (Điều 18.5.2) và nếu cần thiết, Điều 18.8 có thể được áp dụng.
3.8.5. Thay đổi cầu
trong trận đấu có thể là không công bằng. Nếu cả 2 bên đồng ý đổi sẽ không có ý
kiến của trọng tài.
Nếu chỉ 1 bên muốn
đổi cầu, trọng tài sẽ quyết định và có cầu đúng tiêu chuẩn nếu cần thiết.
3.8.6. Điều 18.8.
Chạm 2 lần sẽ bị bắt lỗi. Trong đánh đôi chỉ 1 người chạm cầu thì không phải là
lỗi.
3.9. Đấu thủ đang thi
đấu không rời sân nếu trọng tài không cho phép.
3.10.Đấu thủ bị
thương, hoặc ốm trong khi đấu cần phải được xử lý một cách cẩn thận và linh
hoạt. Trọng tài chính phải quyết định vấn đề càng nhanh càng tốt. Bình thường
không được làm khó dễ (Điều 11.1.1 và 18.4 được áp dụng thích hợp).
3.11.Nếu trận đấu bị
điều chỉnh, nói:
“Trận đấu tạm dừng”
và ghi lại tỷ số, người giao cầu, người nhận…
Khi tiếp tục:
“Đã sẵn sàng chưa?”.
Thông báo tỷ số (và,
nếu thích hợp, “tay 1” và “bắt đầu”).
3.12. Quả cầu có tốc
độ gây trở ngại sẽ bị vứt bỏ.
3.13. Đạo đức thi
đấu.
3.13.1. Ghi vào biên
bản và thông báo tới Tổng trọng tài mọi hành vi vi phạm về lỗi đạo đức của đấu
thủ và hình thức xử lý.
3.13.2. Trong trường
hợp đấu thủ vi phạm vào lỗi đạo đức ở giữa hai hiệp, trọng tài chính có thể đưa
ra quyết định kỷ luật vào đầu của hiệp tiếp theo.
3.13.3. Khi đấu thủ
vi phạm vào các điều 18.4; 18.5 và 18.7 sẽ bị nhắc nhở (Điều 18.8.1). Trọng tài
chính yêu cầu người vi phạm vào lỗi này đến gặp bằng khẩu lệnh “Lại đây” và
tuyên bố cảnh cáo:
“……….(tên của người
vi phạm) bị cảnh cáo về lỗi đạo đức”.
Đồng thời tay phải
của trọng tài chính cầm thẻ vàng giơ thẳng lên cao (phía trên đầu).
+ Sau khi người vi
phạm đã bị trọng tài chính cảnh cáo về lỗi đạo đức theo Điều 18.8.1, nhưng lại
tái phạm sẽ bị phạt lỗi (có thể mất quyền phát cầu hoặc đối phương được 1
điểm). Trọng tài chính yêu cầu người vi phạm đến gặp bằng khẩu lệnh “Lại đây”
và tuyên bố:
“………(tên của người vi
phạm) phạm lỗi về đạo đức”.
Đồng thời tay phải
của trọng tài chính cầm thẻ Đỏ giơ thẳng lên cao (phía trên đầu).
+ Sau khi đấu thủ vi
phạm đã bị trọng tài chính phạt lỗi về đạo đức (Điều 18.8.2), nhưng vẫn tiếp
tục cố tình vi phạm theo Điều 18.8.3. Ngay lập tức tay phải của trọng tài chính
giơ thẳng lên cao (phía trên đầu) đề nghị báo cáo cho Tổng trọng tài về việc
xin truất quyền thi đấu của người vi phạm. Khi tổng trọng tài chấp thuận, tay
phải của trọng tài chính sẽ cầm thẻ Đen giơ thẳng lên cao (phía trên đầu) và
tuyên bố:
“……….(tên của người
vi phạm) bị truất quyền thi đấu về lỗi đạo đức”.
3.14. Trong khi điều
hành trận đấu, khi cần phải xin ý kiến của tổng trọng tài, trọng tài chính sẽ
giơ thẳng tay phải lên cao (phía trên đầu).
4.
LỜI KHUYÊN CHUNG KHI LÀM TRỌNG TÀI
* Những lời khuyên
chung:
4.1. Biết và hiểu
“Luật cầu lông”.
4.2. Nói nhanh và
chính xác nhưng nếu sai không chối, xin lỗi và sửa lại.
4.3. Tất cả những
thông báo về điểm phải được suy xét, nói đủ to để cả người xem và người thi đấu
nghe thấy được.
4.4. Khi nghi ngờ có
sự vi phạm về luật có hoặc không xảy ra, không được bắt lỗi và trận đấu vẫn
tiếp tục.
4.5. Không được hỏi
khán giả và cũng không bị ảnh hưởng bởi người xem.
4.6. Thúc đẩy những
trọng tài khác: Ví dụ những quyết định riêng biệt của trọng tài biên và có mối
quan hệ với các trọng tài.
5.
CHỈ DẪN CHO TRỌNG TÀI
5.1. Trọng tài giao
cầu ngồi ở 1 cái ghế thấp, gần lưới, đối diện với trọng tài chính.
5.2. Trọng tài giao
cầu, có trách nhiệm theo dõi người giao cầu có đúng luật không (Điều 11.1).
Không nói “lỗi” to mà sử dụng tín hiệu tay để biểu thị lỗi vi phạm.
5.3. Những tín hiệu
tay:
1. Điều 11.1.3 điểm
tiếp xúc đầu tiên với cầu không vào đế cầu.
2. Điều 11.1.1; 11.2
và 11.5, cố tình trì hoãn việc giao cầu. Khi người chơi đã ở vị trí, cử động
đầu tiên của đầu vợt người giao cầu được coi là sự bắt đầu giao. Và quả giao
cầu phải được tiếp tục.
3. Điều 11.1.3 toàn
bộ cầu không nằm dưới thắt lưng vào thời điểm giao cầu.
4. Điều 11.1.4 vào
thời điểm đánh quả cầu đi, cán vợt không ở vị trí xuôi xuống trong phạm vi mà
toàn bộ vợt phải rõ ràng dưới tay cầm vợt của người giao cầu.
5. Điều11.1.2 một
phần của bàn chân không ở trong sân giao cầu, cho đến khi cầu được giao đi.
5.4. Trọng tài chính
có thể sắp xếp với trọng tài giao cầu những trách nhiệm khác để lo liệu, cung
cấp cho vận động viên những lời khuyên.
6.
VỊ TRÍ CỦA TRỌNG TÀI BIÊN
6.1. Trọng tài biên
có thể ngồi trên ghế tựa ở những vị trí được phân công, như những đầu sân,
những cạnh sân và hơn cả là ở cạnh sân đối diện với trọng tài chính (xem biểu
đồ).
Vị trí lý tưởng của
trọng tài biên là cách sân 2m.
6.2. Trọng tài biên
chịu trách nhiệm hoàn toàn phần biên đã được phân. Nếu cầu ngoài sân, hô
“ngoài” với giọng rõ ràng, đủ để người chơi và người xem nghe thấy và cùng thời
điểm đó tín hiệu tay được thực hiện giang rộng 2 tay sang ngang và do đó trọng
tài chính có thể nhìn thấy rõ ràng.
Nếu cầu trong sân,
trọng tài biên sẽ không nói gì nhưng chỉ tay phải vào đường biên.
6.3. Nếu không nhìn
thấy, báo tin cho trọng tài chính ngay lập tức bằng cách đặt 2 tay che mắt.
6.4. Không nói hoặc
tín hiệu cho đến khi cầu rơi xuống sân.
6.5. Có thể nói khi
không có quyết định của trọng tài chính.
Ví dụ: Khi cầu chạm
vào người chơi.
Phần III
HÌNH
THỨC – PHƯƠNG PHÁP THI ĐẤU
A.
HÌNH THỨC THI ĐẤU
+ Thi đấu cá
nhân: Căn cứ vào thành tích của từng đấu thủ để xác định thứ hạng người
trong giải.
+ Thi đấu đồng
đội: Kết quả thi đấu đồng đội phụ thuộc vào số điểm trận thắng thua của
từng đấu thủ trong đội cộng lại để xác định vị trí của đội trong giải.
+ Thi đấu cá
nhân - đồng đội: Thành tích của từng đấu thủ trong đội vừa được tính để
xếp hạng cho cá nhân đấu thủ vừa được tổng hợp lại để tính thành tích cho đồng
đội.
B.
PHƯƠNG PHÁP THI ĐẤU
Có 2 phương pháp thi
đấu cơ bản: đấu vòng tròn và đấu loại trực tiếp. Ngoài ra còn phương pháp thi
đấu hỗn hợp: vận dụng cả đấu loại trực tiếp và đấu vòng tròn.
1.
Phương pháp đấu vòng tròn
Mỗi đội lần lượt gặp
nhau, phương pháp này có ưu điểm là có thể xác định một cách chính xác trình độ
của các đội (đấu thủ). Xếp hạng một cách công bằng tránh được hiện tượng “may
rủi” hoặc các đội khá loại nhau ngay từ đầu. Song nhược điểm là thời gian kéo
dài, trận đấu nhiều, công tác tổ chức và trọng tài tốn nhiều công phu.
Thi đấu vòng tròn 3
loại: Vòng tròn đơn (mỗi đội, đấu thủ lần lượt gặp nhau một lần); vòng tròn kép
(mỗi đội, đấu thủ lần lượt gặp nhau 2 lần); vòng tròn chia bản (các đội, đấu
thủ tham dự được chia ra từng bảng và trong bảng đấu thủ, các đội đấu vòng
tròn. Các đội, đấu thủ đầu bảng vào đấu chung kết chọn đội vô địch).
Thi đấu vòng tròn
đơn:
Cách tính số trận và
vòng đầu:
- Tính số trận theo
công thức:
Trong đó: X là tổng
số trận đấu.
A là đội (đấu thủ)
tham gia thi đấu.
+ Tính vòng đấu theo
công thức:
D = A – 1 (nếu số
đội, đấu thủ tham gia thi đấu là một số chẵn).
D = A (nếu số đội,
đấu thủ tham gia thi đấu là một số lẻ).
Ví dụ 1: Có 6 đội
tham gia thi đấu
- Tổng số trận đấu
là:
= 15 trận
- Số vòng đấu là: D =
6 – 1 = 6 vòng.
Ví dụ 2: Có 9 cầu thủ
tham gia thi đấu:
- Tổng số trận đấu
là:
= 36 trận
- Số vòng đấu là: D =
9 vòng.
Nếu thi đấu vòng tròn
kép thì tổng số trận đấu và tổng số vòng đấu tăng lên gấp đôi.
Cách vạch biểu đồ xác
định thứ tự trận đấu, vòng đấu để theo dõi kết quả thi đấu:
+ Trường hợp số đội,
đấu thủ tham gia là một số chẵn.
Biểu đồ thi đấu: 6 vận động viên
(đội)
CÁC VÒNG ĐẤU
|
I
|
II
|
III
|
IV
|
V
|
(1)
gặp
6
2 – 5
3 - 4
|
(1)
–
5
6 – 4
2 – 3
|
(1)
–
4
5 – 3
6 – 2
|
(1)
–
3
4 – 2
5 – 6
|
(1)
–
2
3 – 6
4 – 5
|
Cách làm:
1. Xác định số vòng
đấu theo công thức: D = A – 1
2. Cho các đội, cầu
thủ bốc thăm chọn số, lấy một số cố định và lần lượt đặt các số theo thứ tự
ngược với chiều kim đồng hồ từ phía dưới số cố định. Các vòng đấu sau mỗi vòng
chuyển xuống một số theo ngược chiều kim đồng hồ đến hết lượt.
Biểu đồ thi đấu: 5 vận động viên
(đội)
CÁC VÒNG ĐẤU
|
I
|
II
|
III
|
IV
|
V
|
(x) gặp 5
1 – 4
2 – 3
|
(x) – 4
5 – 3
1 – 2
|
(x) – 3
4 – 2
5 – 1
|
(x) – 2
3 – 1
4 – 5
|
(x) – 1
2 – 5
3 – 4
|
Cách làm:
1. Xác định số vòng đấu
theo công thức: D = A.
2. Lấy x cố định, nếu
đội, đấu thủ nào gặp x coi như được nghỉ, còn lại cách làm như biểu đồ 6 vận
động viên (đội).
Thi đấu vòng tròn
kép:
Cách vạch biểu đồ thi
đấu cũng giống như thi đấu vòng tròn đơn, nhưng mỗi đội, đấu thủ gặp nhau 2 lần
(mỗi lượt đi và một lượt về).
Thi đấu vòng tròn chia
bảng:
Trường hợp số đội,
đấu thủ tham gia đông nhưng ít thời gian thì dùng hình thức đấu vòng chia bảng.
Thứ tự đó như sau:
- Chia đều số đội,
đấu thủ tham gia vào nhiều bảng.
- Các đội cùng bảng
bốc thăm chọn số của đội mình rồi lập biểu đồ thi đấu trong từng bản, các đội
cùng bảng thi đấu vòng tròn xếp thứ tự trong bảng.
- Các đội đứng đầu
các bảng đấu vòng tròn với nhau chọn đội vô địch.
Chú ý: Khi chia bảng, Ban
tổ chức nên dựa vào thành tích của các đội (đấu thủ) đã đạt được ở giải trước
chọn làm hạt nhân (kể cả đơn vị đăng cai) để chia đều các bảng, tránh dồn các
đội khá vào một bảng.
2.
Phương pháp thi đấu loại
Trong quá trình thi
đấu, nếu đội, đấu thủ nào thua 1 trận (đấu loại trực tiếp 1 lần thua) hoặc 2
trận (trong đấu loại trực tiếp 2 lần thua) sẽ không được thi đấu nữa.
Phương pháp này có
thể rút ngắn được thời gian, song khó đánh giá chính xác trình độ thực tế của
từng đội đấu thủ.
Đấu loại 1 lần thua:
Đội, đấu thủ nào thua
1 trận sẽ bị loại khỏi cuộc đấu.
Cách lập sơ đồ theo
dõi cuộc đấu:
+ Nếu số đội, đấu thủ
tham gia thi đấu là một số đúng với 2n (2, 4, 8, 16, 32…) thì sơ đồ
thi đấu được vạch ra rất dễ dàng. Từng cặp 2 đội, đấu thủ sẽ gặp nhau ngay ngày
thứ nhất. Lúc này chỉ cần chọn các hạt nhân đưa vào đầu, cuối, giữa đi lên và
giữa đi xuống của sơ đồ, còn các đội khác cho bốc thăm vào các bảng thi đấu.
Ví dụ: Vạch sơ đồ bảng thi
đấu cho 8 đội, đấu thủ:
+ Nếu tổng số tham
gia không đúng với một số là 2n thì sẽ có mọt số đội phải tham gia
thi đấu vòng đầu (vòng 1) để vòng 2 còn lại số đội, đấu thủ đúng với 2n.
Công thức tính như sau:
X = (A – 2n)
2
Trong đó: X là số
đội, đấu thủ tham gia thi đấu vòng đầu.
A là tổng số đội, đấu
thủ tham gia giải.
2 là cơ số
n là luỹ thừa (2n<
A)
Ví dụ: Vạch sơ đồ thi
đấu cho 11 đội, đấu thủ.
- Số đấu thủ phải
tham gia thi đấu vòng đầu là:
X = (11 – 23)
2 = 6 đấu thủ.
Còn 5 VĐV được đợi để
thi đấu vòng 2.
Tổng số trận đấu
trong phương pháp thi đấu loại trực tiếp một trận thua bằng số đội, đấu thủ
tham gia trừ đi 1.
Y = A – 1
Đấu loại 2 lần thua:
Đội, đấu thủ nào thua
2 trận sẽ bị loại ngay khỏi cuộc thi. Phương pháp thi đấu này phần nào khắc
phục được sự “may rủi” và cho phép xác định trình độ thứ hạng của các đội, đấu
thủ tương đối chính xác. Tuy nhiên việc lập sơ đồ và theo dõi các trận đấu khá
phức tạp, đòi hỏi phải tỉ mỉ, chu đáo.
Cách lập sơ đồ theo
dõi kết quả thi đấu gồm 2 phần:
a. Đầu tiên, tất cả
các đội, đấu thủ tham gia giải đều xếp vào một sơ đồ giống như sơ đồ thi đấu
loại một lần thua. Sơ đồ này gọi là sơ đồ A (sơ đồ chính), các đội, đấu thủ
thắng (chưa thua lần nào) sẽ thi đấu ở sơ đồ này.
b. Sau vòng đấu đầu
tiên, các đội thua được xếp xuống sơ đồ B (sơ đồ phụ), sơ đồ này gồm các đội,
đấu thủ đã bị thua 1 lần. Đội, đấu thủ nào thua thêm 1 lần nữa ở sơ đồ B sẽ bị
loại. Các đội, đấu thủ ở sơ đồ A bị thua ở vòng đấu nào thì được xếp vào sơ đồ
B ở vòng đấu tương ứng.
Đội, đấu thủ thắng
liên tục ở sơ đồ A sẽ gặp đội, đấu thủ thắng liên tục ở sơ đồ B và nếu đội, đấu
thủ ở sơ đồ A lại thắng thì sẽ là vô địch. Nếu đội, đấu thủ ở sơ đồ B thắng thì
phải đấu thêm một lần nữa (vì đội, đấu thủ ở sơ đồ A mới thua một lần, bằng số
lần thua của đội, đấu thủ ở sơ đồ B), trong trận này đội, đấu thủ ở sơ đồ nào
thắng thì sẽ vô địch.
- Tổng số trận đấu
trong phương pháp đấu loại 2 lần thua là:
Y = (A x 2) – 2
Trong đó: Y là tổng
số trận đấu.
A là số đội tham gia
giải
- Nếu tổng số đội,
đấu t
- hủ tham gia giải
không đúng với một số là 2n (A # 2n), thì cách tính cũng giống như
đấu loại một lần thua.
Ví dụ: Vạch sơ đồ thi đấu
hai lần thua cho 8 đấu thủ:
Thi đấu hỗn hợp
Phương pháp thi đấu
này tổng hợp cả hai phương pháp trên. Có thể giai đoạn đầu chia bảng thi đấu
vòng tròn, giai đoạn sau đan chéo, hoặc giai đoạn đầu đấu trực tiếp, giai đoạn
sau còn 4 đội (đấu thủ) đấu vòng tròn…
Chú ý: Tổ chức theo điều lệ
giải quy định.
Thể thức thi đấu đồng
đội nam “Cúp THOMAS” và đồng đội nữ “Cúp UBER”
1. Các đội tham gia
thi đấu đồng đội nam hoặc đồng đội nữ, được phép đăng ký từ 4 – 6 VĐV. Căn cứ
vào số lượng VĐV của các đội đăng ký tham dự, ban tổ chức dựa vào Điều lệ của
giải và Luật thi đấu để xếp thi đấu đơn, đôi như sau:
Nếu 4 VĐV được phép
xếp 6 đôi và 4 đơn.
Nếu 5 VĐV được phép
xếp 10 đôi và 5 đơn.
Nếu 6 VĐV được phép
xếp 15 đôi và 6 đơn.
2. Trước trận đấu 30
phút, các lãnh đội phải nộp cho Ban tổ chức giải danh sách đăng ký thi đấu đồng
đội của đội mình theo thứ tự cụ thể như sau:
- Trận đơn thứ nhất:
(Tên VĐV)
- Trận đơn thứ hai:
(Tên VĐV)
- Trận đơn thứ ba:
(Tên VĐV)
- Trận đơn thứ nhất:
(Tên VĐV)
- Trận đơn thứ hai:
(Tên VĐV)
3. Mỗi VĐV chỉ được
phép tham gia thi đấu 1 trận đơn và 1 trận đôi.
4. Các đội phải xếp
vị trí trong bảng đăng ký của đơn vị mình theo nguyên tắc các VĐV (đôi) mạnh ở
phía trên. (Ở Việt Nam lấy kết quả của giải vô địch, Thế giới lấy thứ tự xếp
hạng của IBF).
5. Trên cơ sở danh
sách đăng ký của các đội, Ban Tổ chức sẽ quyết định thi đấu đồng đội ở 1 trong
8 trường hợp theo nguyên tắc tránh cho các VĐV phải thi đấu hai trận liên tiếp,
hoặc phải thi đấu trận đôi trước trận đơn, cụ thể như sau:
- Trường hợp 1: Trận
đơn thứ nhất - trận đôi thứ nhất - trận đơn thứ hai - trận đôi thứ hai - trận
đơn thứ ba.
- Trường hợp 2: Trận
đơn thứ nhất - trận đôi thứ hai - trận đơn thứ hai - trận đôi thứ nhất - trận
đơn thứ ba.
- Trường hợp 3: Trận
đơn thứ nhất - trận đơn thứ hai - trận đôi thứ nhất - trận đơn thứ ba - trận
đôi thứ hai.
- Trường hợp 4: Trận
đơn thứ nhất - trận đơn thứ hai - trận đôi thứ hai - trận đơn thứ ba - trận đôi
thứ nhất.
- Trường hợp 5: Trận
đơn thứ nhất - trận đơn thứ hai - trận đơn thứ ba - trận đôi thứ nhất - trận
đôi thứ hai.
- Trường hợp 6: Trận
đơn thứ nhất - trận đơn thứ hai - trận đơn thứ ba - trận đôi thứ hai - trận đôi
thứ nhất.
- Trường hợp 7: Trận
đơn thứ nhất - trận đôi thứ nhất - trận đơn thứ hai - trận đơn thứ ba - trận
đôi thứ hai.
- Trường hợp 8: Trận
đơn thứ nhất - trận đôi thứ hai - trận đơn thứ hai - trận đơn thứ ba - trận đôi
thứ nhất.
Trong đăng ký danh
sách của các đội, nếu cả 8 trường hợp nêu trên đều không thoả mãn, Ban tổ chức
sẽ lựa chọn trường hợp thứ 5, với điều kiện giữa hai trận đấu mà VĐV phải thi
đấu liên tiếp sẽ được nghỉ giữa 30 phút.
* Trong thi đấu giải
đồng đội, đội nào thắng 3 trận thì đội đó thắng cuộc. Song Điều lệ thi đấu hiện
nay của IBF và của Việt Nam: thắng, thua đều phải thi đấu cả 5 trận.