BỘ Y TẾ
-------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 3780/QĐ-BYT
|
Hà Nội, ngày 26 tháng 8 năm 2019
|
QUYẾT
ĐỊNH
VỀ
VIỆC PHÊ DUYỆT TÀI LIỆU “HƯỚNG DẪN LÂM SÀNG XỬ TRÍ U XƠ CƠ TỬ CUNG”
BỘ TRƯỞNG BỘ Y TẾ
Căn cứ Nghị định số 75/2017/NĐ-CP ngày
20/6/2017 của Chính phủ Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Bộ Y tế;
Căn cứ Quyết định số 2013/QĐ-TTg
ngày 14 tháng 11 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược Dân số Sức khỏe
sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011-2020;
Theo đề nghị của Vụ trưởng Vụ Sức khỏe
Bà mẹ - Trẻ em, Bộ Y tế;
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1. Phê
duyệt tài liệu “Hướng dẫn lâm sàng xử trí u xơ cơ tử cung” kèm theo Quyết định
này.
Điều 2. Quyết
định này có hiệu lực kể từ ngày ký, ban hành.
Điều 3. Các
ông, bà: Chánh Văn phòng Bộ, Vụ trưởng Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em, Chánh thanh
tra Bộ và các Vụ trưởng, Cục trưởng, Tổng cục trưởng của Bộ Y tế; Giám đốc các
Viện, Bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế; Giám đốc các Học viện, Hiệu trưởng các trường
Đại học có đào tạo nhân lực y tế; Thủ trưởng Y tế ngành; giám đốc Sở Y tế các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Thủ trưởng các đơn vị liên quan chịu
trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
Nơi nhận:
-
Như Điều
3;
- Bộ trưởng (để báo cáo);
- Các Thứ trưởng (để biết);
- Website Bộ Y tế;
- Cổng Thông tin
điện tử Bộ Y tế
- Lưu: VT, BMTE,
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Viết Tiến
|
HƯỚNG
DẪN LÂM SÀNG
XỬ
TRÍ U XƠ CƠ TỬ CUNG
(Ban hành kèm
theo quyết định số
3780/QĐ-BYT ngày 26 tháng 8 năm
2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế)
BAN CHỈ ĐẠO
GS. TS. BS.
Nguyễn Viết Tiến
GS. BS.
Nguyễn Thị Ngọc Phượng
GS. TS. BS.
Cao Ngọc Thành
GS. TS. BS.
Trần Thị Phương Mai
ThS. BS.
Nguyễn Đức Vinh
BAN CHUYÊN
GIA
GS. TS. BS. Trần
Thị Lợi
PGS. TS. BS.
Lê Hồng Cẩm
PGS. TS. BS.
Lưu Thị Hồng
ThS. BS. Tống
Trần Hà
ThS. BS. Nghiêm Thị
Xuân Hạnh
PGS. TS. BS.
Nguyễn Vũ Quốc Huy
TS. BS. Vương
Thị Ngọc Lan
Ths. BS. Hồ Mạnh Tường
PGS. TS. BS. Huỳnh
Nguyễn Khánh Trang
BS. CKII. Nguyễn Hữu
Dự
PGS. TS. BS.
Trần Danh Cường
PGS.TS. BS. Lê Hoàng
PGS. TS. BS.
Hồ Sỹ Hùng
ThS. BS. Lê
Quang Thanh
TS. BS. Hoàng
Thị Diễm Tuyết
TS. BS. Trần
Đình Vinh
TS. BS. Huỳnh
Thị Thu Thủy
BS. CKII. Hoàng Thị Mỹ
Ý
ThS. BS.
Nguyễn Thị Quý Khoa
PGS. TS. BS.
Nguyễn Duy Ánh
TS. BS. Vũ Văn Tâm
BS. CKII. Nguyễn Bá Mỹ
Nhi
BS. CKI. Âu Nhựt Luân
ThS. BS. Đặng
Quang Vinh
TS. BS. Tạ Thị Thanh Thủy
TS. BS. Bùi Chí
Thương
TS. BS. Trần
Nhật Thăng
MỤC
LỤC
Trang 1 Chương I. Đại cương
Trang 3 Chương II. Dịch tễ
học và các yếu tố nguy cơ
Trang 5 Chương III. Phân loại
u xơ cơ tử cung
Trang 7 Chương IV. Triệu
chứng lâm sàng của u xơ cơ tử cung
Trang 11 Chương V. Chẩn đoán u xơ
cơ tử cung
Trang 15 Chương VI. Biến chứng
u xơ cơ tử cung
Trang 18 Chương VII. Tiếp cận và xử
trí các trường hợp u xơ cơ tử cung không có chỉ định can thiệp nội ngoại khoa
Trang 20 Chương VIII. Điều trị
nội khoa u xơ cơ tử cung
Trang 27 Chương IX. Điều trị
ngoại khoa u xơ cơ tử cung
Trang 36 Chương X. Các thủ
thuật thay thế phẫu thuật
Trang 39 Chương XI. Chuẩn bị
bệnh nhân trước phẫu thuật
Trang 42 Chương XII. U xơ cơ
tử cung và hiếm muộn
Trang 45 Chương XIII. U xơ cơ
tử cung trong
thai kỳ
Trang 49 Chương XIV. Những điều
cần ghi nhớ về xử trí u xơ cơ tử cung
Trang 54 Chương XV. Tóm tắt
hướng dẫn lâm sàng xử trí u xơ cơ tử cung
Trang 60 Biểu đồ 1. Phác
đồ xử trí u xơ cơ tử cung
Trang 61 Biểu đồ 2. U xơ cơ tử
cung đã chẩn đoán xác định, có siêu âm
Trang 62 Biểu đồ 3. Phác đồ điều
trị nội khoa u xơ cơ tử cung bằng UPA
Trang 63 Biểu đồ 4. Phác đồ xử
trí u xơ cơ tử cung L2 hoặc đa nhân
L2-L5 ở phụ nữ
tuổi sinh đẻ
Trang 64 Tài liệu tham khâo
Chương I.
ĐẠI
CƯƠNG
U xơ cơ tử cung (leiomyoma -
UXCTC), trước đây thường được gọi theo u xơ tử cung, là khối u lành tính
không rõ nguyên nhân
do sự phát triển quá mức của sợi cơ trơn và mô liên kết ở tử cung (Breech và
cs, 2003). Bệnh có
khuynh hướng di truyền.
UXCTC thường không có triệu chứng
(Sciarra và cs, 1986), được phát hiện tình cờ qua khám hay siêu âm. Trong một
số trường hợp u xơ gây biến chứng như cường kinh gây thiếu máu, đau vùng chậu,
triệu chứng chèn ép... UXCTC có biến chứng gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc
sống và ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của người phụ nữ. Do thường không có
triệu chứng nên không xác định được chính xác tần suất UXCTC trong
dân số chung. Tỷ lệ mới mắc của UXCTC tăng theo tuổi, khoảng 20 - 50% nếu phụ
nữ > 30 tuổi (Payson và cs, 2006) ước tính tỷ lệ mới mắc ở phụ nữ 50
tuổi là 70 % (Cao và cs, 2017; Khan và cs, 2014).
Chẩn đoán UXCTC dựa vào hỏi tiền căn,
khám lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh. Cần chẩn đoán phân biệt vớt sarcoma tử
cung. Trong tổng số các trường hợp được cắt tử cung vì nhiều lý do, tỷ lệ
sarcoma cơ trơn thân tử cung khoảng 0,26% bằng với tần suất 0,27% khi
dân số được khảo sát là phụ nữ có khối u vùng chậu phát triển nhanh. Như vậy một
UXCTC đã được phát hiện từ lâu đột ngột lớn nhanh ở người phụ nữ tuổi mãn kinh
hay mới xuất hiện khi đã mãn kinh là một dấu hiệu nghi ngờ ác tính cao (Vilos và cs,
2015).
UXCTC không có triệu chứng không cần
can thiệp. Không nên điều trị dự phòng để tránh biến chứng trong tương lai vì
không có yếu tố tiên lượng đáng tin cậy về sự tiến triển của UXCTC. Trong một
số trường hợp có thể điều trị dự phòng ngăn sẩy thai ở UXCTC dưới
niêm (nếu người này dự định mang thai) và u xơ nằm trong dây chằng rộng gây tắc
nghẽn đường tiết niệu đưa đến thận ứ nước.
UXCTC có triệu chứng (ra huyết âm đạo
bất thường, đau, chèn ép) cần được điều trị. Phương thức và thời gian điều trị
dựa trên một số yếu tố ảnh hưởng như: phân loại UXCTC, mức độ triệu chứng, kích
thước, vị trí, số lượng khối u
xơ, tuổi người bệnh, kế hoạch sinh sản và tiền căn sản khoa, tình trạng bệnh
nội khoa kèm theo, nguy cơ thoái hóa ác tính, tình trạng sắp mãn kinh và mong
muốn bảo tồn tử cung của người phụ
nữ. Trong những năm qua UXCTC là một trong các chỉ định thường gặp nhất cho cắt
tử cung trên toàn cầu. Tuy nhiên, cắt tử cung gây nhiều biến chứng cũng như
tăng gánh nặng kinh tế cho người bệnh (Philippines Society for Reproductive
Medicine, 2017).
Các thụ thể của estrogen (ER) và của
progesterone (PR) được tìm thấy nhiều trên các sợi cơ của UXCTC hơn là
trên các sợi cơ bình thường của tử cung. Như vậy cả hai hormones steroids,
estrogen và progesterone đều có ảnh hưởng lên sự phát triển của UXCTC.
Nếu bị cắt nguồn steroids, hầu hết các u xơ sẽ có chiều hướng thoái triển.
Progesterone đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của UXCTC
(Carranza và cs, 2015). Dựa trên đặc tính đó, điều trị nội khoa bằng cách điều hòa các thụ
thể của hormones steroids đóng vai trò quan trọng trong điều trị UXCTC. Xuất
phát từ những phương pháp điều trị mới ra đời đã được nghiên cứu và có những
chứng cứ y học mức độ cao, hướng dẫn lâm sàng dành riêng cho xử trí u xơ cơ tử cung
được ra đời. Nội dung của hướng dẫn sẽ bao gồm theo dõi không điều trị, điều
trị nội khoa, điều trị ngoại khoa, đặc biệt với u xơ dưới niêm mạc, u xơ ảnh hưởng đến khả
năng sinh sản và thai kỳ.
Mục tiêu của hướng dẫn thực hành lâm
sàng xử trí UXCTC là đưa ra các khuyến nghị trong chẩn đoán và điều trị cho
bệnh nhân UXCTC tại Việt Nam dựa trên các bằng chứng y khoa và kinh nghiệm lâm
sàng hiện có, nhằm đưa đến cách xử trí thống nhất trong ngành sản phụ khoa Việt
Nam.
Chương II.
DỊCH
TỄ HỌC VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ
UXCTC là khối u lành tính của tử cung
phổ biến nhất ở phụ nữ. Đa số các trường hợp UXCTC không có biểu hiện lâm sàng
(Pavone và cs, 2018), ước tính chỉ có khoảng 25% UXCTC có biểu hiện lâm sàng ở
phụ nữ trong độ tuổi sinh sản và khoảng 25% trong số đó có triệu chứng nặng cần điều trị
(Stewart và cs, 2017).
Tỉ lệ mới mắc UXCTC là 217 -
3.745/100.000 mỗi năm và tỉ lệ hiện mắc 4,5 - 68,6% (Stewart và cs, 2017). Các
tỉ lệ này dao động rất nhiều, phụ thuộc vào phương pháp nghiên cứu và dân số
nghiên cứu (đa số các nghiên cứu được tiến hành ở đối tượng phụ
nữ có biểu hiện triệu chứng hoặc sau phẫu thuật) (Stewart và cs, 2017).
Có nhiều yếu tố nguy cơ làm
gia tăng tỉ lệ phát sinh UXCTC bao gồm (Stewart và cs, 2017, Pavone và cs, 2018):
Tuổi. Tần suất xuất hiện
UXCTC tăng theo tuổi (Pavone và cs, 2018). Phụ nữ trên 40 tuổi có nguy cơ bị
UXCTC cao hơn 4 lần phụ nữ dưới
40 tuổi (OR 4,1; KTC 95%, 3,3 - 5,0) (Selo-Ojeme và cs, 2008). Phụ nữ ở nhóm tuổi 41
- 50 (RR, 10,4, KTC 95%, 3,8 - 30,2), nhóm tuổi từ 51 - 60 (RR 10,6, KTC 95%,
3,9 - 31,5) có nguy cơ phát hiện UXCTC cao hơn 10 lần nhóm tuổi 21-30 (Lurie và
cs, 2005). Ngoài ra, khi tuổi của người phụ nữ gia tăng thì UXCTC cũng thường
có kích thước lớn hơn, số lượng u xơ
cũng nhiều hơn và tỷ lệ phải nhập
viện vì UXCTC cũng cao hơn. Điều này phản ánh diễn tiến tự nhiên theo thời gian của
UXCTC (DeWaay và cs, 2002). Tuy nhiên, tỉ lệ mắc bệnh sẽ giảm ở nhóm phụ nữ tuổi
mãn kinh.
Chủng tộc. Tỉ lệ mới mắc UXCTC
không khác biệt giữa người da trắng, châu Á và Mỹ Latin. Tuy nhiên, người da
đen có nguy cơ phát triển UXCTC cao hơn 2 đến 3 lần. Ngoài ra, nguy cơ
suốt đời đối với UXCTC là gần 70% ở người da trắng, và trên 80% ở người da đen.
Phụ nữ da đen thường được chẩn đoán UXCTC ở độ tuổi trẻ hơn, u xơ
thường nhiều và lớn hơn, đồng thời cũng gây ra các triệu chứng nghiêm trọng hơn
ở các nhóm chủng tộc khác. Những khác biệt này phần nào gợi ý sự khác nhau về sinh tổng
hợp estrogen, chuyển hóa và di
truyền (Stewart và cs, 2017, Pavone và cs, 2018).
Tiền sử gia đình. Một nghiên
cứu ở Thái Lan cho thấy, tiền sử gia đình bị UXCTC làm tăng nguy cơ cho người
phụ nữ hơn 3 lần (OR 3,47;
KTC 95%, 2,55 - 4,71) (Lumbiganon
và cs, 1996).
Các yếu tố di truyền. Một số gene
(như MED12, HMGA2, CYP1A1, và CYP1B1) (Styer và cs, 2016) và các bất thường nhiễm
sắc thể (trisomy 12;
đảo đoạn 12q,
6p, 10q, 13q; và
mất đoạn 7q, 3q, 1p) (Mehine và cs, 2013)
được tìm thấy có liên
quan đến sự hình thành và phát triển của UXCTC.
Khoảng cách so với lần sinh con trước
đây.
Một số nghiên cứu cho thấy khoảng cách từ 5 năm trở lên làm tăng nguy cơ phát
triến UXCTC lên 2-3 lần (Wise và cs, 2004, Terry và cs, 2010).
Giai đoạn tiền mãn kinh có nguy cơ
bị UXCTC cao hơn đến 10 lần giai đoạn
mãn kinh (Chiaffarino và cs, 1999). Đồng thời, tỷ lệ UXCTC có triệu
chứng cũng cao hơn 3 lần (Templeman và cs, 2009).
Rối loạn chuyển hóa: Béo phì,
kháng insulin, hội chứng buồng trứng đa nang, tăng lipid máu, tăng huyết áp...
là những yếu tố gây ra hội
chứng chuyển hóa và đều
góp phần làm gia tăng nguy cơ phát triển UXCTC (Stewart và cs, 2017, Pavone và
cs, 2018). Riêng phụ nữ có bệnh lý tăng huyết áp có thể làm gia tăng
gần 5 lần (OR 4,90; KTC
95%, 2,31 - 10,38) nguy cơ phát triển UXCTC so với phụ nữ không tăng huyết áp
(Takeda và cs, 2008).
Lối sống và chế độ
ăn uống cũng có thể
liên quan đến nguy cơ gia
tăng UXCTC, tuy nhiên rất khó nghiên cứu và đánh giá vì có nhiều yếu tố nhiễu. Ít
hoạt động thể chất và nhiều
stress làm gia tăng nguy cơ bị UXCTC. Các loại thực phẩm chứa nhiều acid
béo nguồn gốc động vật, sử dụng nhiều thịt bò, thịt đỏ, thiếu vitamin D, tiêu thụ
nhiều thức uống có cồn,
caffeine có nguy cơ làm gia tăng tỉ lệ UXCTC (Stewart và cs, 2017, Pavone và
cs, 2018).
Các chất phụ gia sử dụng
trong chế biến và bảo quản thực phẩm làm tăng nguy cơ phát triển UXCTC đến 3
lần (OR 3,17; KTC 95%, 2,25 - 4,46) (Shen và cs, 2013).
Bên cạnh đó, cũng có rất nhiều yếu tố
được coi là yếu tố bảo vệ như
mang thai và sinh con nhiều lần, hoạt động thể chất thường xuyên,
ăn nhiều cá và rau xanh, trái cây, vitamin A có nguồn gốc động vật (Stewart và
cs, 2017, Pavone và cs, 2018).
Chương III.
PHẦN
LOẠI U XƠ CƠ TỬ CUNG
UXCTC được phân loại theo hai cách,
theo tính chất và theo vị trí khối u.
Theo tính chất, u xơ có 2 dạng: không
triệu chứng và có triệu chứng. Hầu hết UXCTC thuộc dạng không triệu chứng,
thường không cần điều trị. UXCTC có triệu chứng cần được điều trị và theo dõi (Murase
và cs, 1999; Vilos và cs,
2015).
Theo vị trí, hiện nay, hệ thống phân
loại UXCTC của Hiệp hội Sản Phụ khoa Quốc tế FIGO năm 2011 được sử dụng phổ biến nhất
(Munro và cs, 2011). Phân loại được mô tả chi tiết theo hình bên dưới.
Các UXCTC L0, L1, L2 thường
gây triệu chứng xuất huyết tử cung bất thường, có thể là nguyên
nhân của vô sinh và sẩy thai. Nhóm này cần được điều trị bằng phương pháp nội soi
buồng tử cung (Lefebvre và cs, 2003).
UXCTC L3 cũng có thể gây triệu chứng xuất huyết
tử cung bất thường hoặc không.
Điều trị nhóm này thường ưu tiên dùng thuốc để làm giảm kích
thước khối u trước khi mang thai (Lefebvre và cs, 2003).
Các UXCTC L4-8 thường
không gây xuất huyết tử
cung bất thường. U xơ nhóm này
cần điều trị khi kích thước to hoặc u chèn ép gây thận ứ nước hoặc bí tiểu hoặc
táo bón. Có thể cân nhắc điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật bóc u đối với phụ nữ
còn nguyện vọng mang thai.
Chương IV
TRIỆU
CHỨNG LÂM SÀNG CỦA U XƠ CƠ TỬ CUNG
UXCTC thường nhỏ và không có triệu
chứng nên thường được phát hiện tình cờ thông qua thăm khám, siêu âm phụ khoa.
Tuy nhiên, nhiều phụ nữ có UXCTC cũng gặp nhiều vấn đề làm ảnh hưởng cuộc sống như xuất huyết tử cung bất
thường, đau bụng hay vô sinh. Những triệu chứng của UXCTC thường liên quan đến
số lượng, kích thước và vị trí của khối UXCTC.
TRIỆU CHỨNG CƠ NĂNG
Những triệu chứng của UXCTC gồm rong kinh, cường
kinh, bụng to, cảm giác trằn nặng vùng hạ vị, đau, tiểu khó, táo bón (Stewart
và cs, 2015).
Trong số các triệu chứng bất thường do
UXCTC gây ra thì xuất huyết tử cung bất thường là triệu chứng phổ biến nhất
chiếm 26 - 29%, các triệu chứng khác chiếm tỷ lệ ít hơn.
Ra kinh nhiều hoặc kéo dài là triệu
chứng xuất huyết tử cung bất thường điển hình nhất trong UXCTC và là triệu
chứng thường gặp nhất do UXCTC gây ra (Fraser và cs, 2007). Tình trạng của xuất
huyết tử cung bất thường phụ thuộc nhiều nhất vào vị trí khối u, sau đó là đến
kích thước khối u:
- UXCTC dưới niêm mạc nhô vào trong
lòng tử cung, dù nhỏ (như L0, L1, L2 theo
phân loại FIGO 2011), thường liên quan với tình trạng chảy máu kinh nhiều.
(Buttram và cs, 1981; Wamsteker và cs, 1993; Wegienka và cs, 2003; Munro và cs,
2011)
- UXCTC trong cơ tử cung cũng có thể
gây ra tình trạng chảy máu kinh nhiều hoặc kéo dài nhưng UXCTC dưới thanh mạc
thường không được xem là nguyên nhân chính gây ra tình trạng này.
- UXCTC ở cổ tử cung nếu nằm gần kênh cổ tử cung cũng
có thể gây ra tình trạng xuất huyết tử cung bất thường. UXCTC ở cổ tử cung
thường gây giao hợp đau.
Triệu chứng do chèn ép thay đổi
nhiều, phụ thuộc vào kích thước, hình dạng và vị trí các khối UXCTC. Những
triệu chứng này bao gồm cảm giác khó chịu hay đau vùng chậu, thận ứ nước nếu
chèn ép niệu quản, bí tiểu hoặc đi tiểu khó nếu chèn ép bàng quang hay cổ bàng
quang, táo bón nếu chèn ép trực tràng, chèn ép tĩnh mạch.
- Cảm giác khó chịu, đau vùng chậu - Triệu
chứng trằn nặng, đau vùng chậu âm ỉ thường gặp ở phụ nữ bị UXCTC to.
Tuy nhiên, triệu chứng này ít xuất hiện hơn xuất huyết tử cung bất thường.
- Đau bụng kinh được ghi nhận ở nhiều
phụ nữ có UXCTC. Thường tình trạng đau bụng kinh này thường xuất hiện kèm hiện
tượng chảy máu kinh nhiều, có máu đông.
- Đau khi giao hợp hiện còn là một
triệu chứng chưa rõ có mối liên quan với UXCTC hay không. Tuy nhiên,
những trường hợp có UXCTC nằm ở thành trước, ở cổ tử cung, hoặc ở vùng đáy có
thể có cảm giác đau sâu khi giao hợp. (Ferrero và cs, 2006)
Triệu chứng đau lưng cũng có thể xuất
hiện trong UXCTC, cần loại trừ các nhóm bệnh lý khác có thể gây ra triệu chứng
này.
Trong một nghiên cứu đoàn hệ nhỏ cho
thấy trong 14% trường hợp phụ nữ có UXCTC xuất hiện tình trạng thận ứ nước,
thường ở bên phải, có thể do UXCTC nằm trong dây chằng rộng, chèn ép phải niệu
quản phải. Kích thước UXCTC lớn nhất trung bình khoảng 6 cm và kích thước cả tử
cung khoảng thai 18 tuần thường có sự liên quan với tình trạng thận ứ nước
(Fletcher và cs, 2013).
- Chèn ép tĩnh mạch - UXCTC rất lớn có
thể chèn ép tĩnh mạch chủ và làm tăng nguy cơ tắc mạch do huyết khối. Nghiên
cứu đã chứng minh nguy cơ thuyên tắc tĩnh mạch do huyết khối do UXCTC to cao
hơn nguy cơ sau phẫu thuật (Fletcher và cs, 2009).
- UXCTC thoái hóa hoặc xoắn (thường là UXCTC L7)
cũng có thể gây
ra triệu chứng đau bụng cấp tính. Đau bụng vùng chậu do UXCTC thoái hóa thường
có thể xuất hiện kèm triệu chứng sốt nhẹ, tử cung đau khi sờ chạm, tăng bạch
cầu, hoặc dấu cảm ứng phúc mạc. Đặc biệt, UXCTC trong thai kỳ thường to nhanh,
mạch máu nuôi tăng trưởng theo không kịp đưa đến hoại tử vô trùng, đau rất nhiều và
kéo dài. Tình trạng đau bụng do UXCTC thoái hóa thường giới hạn trong vài ngày
đến vài tuần và
đáp ứng với thuốc giảm đau
NSAIDS.
- Chẩn đoán UXCTC thoái hóa thường dựa theo sự
tồn tại của UXCTC cùng các triệu chứng điển hình. Khi siêu âm, triệu chứng đau
khi quét đầu dò trực tiếp vùng UXCTC là triệu chứng giúp định hướng chẩn đoán.
Trong trường hợp không rõ chẩn đoán, chụp MRI vùng chậu có thể được sử dụng với
gadolinium giúp việc chẩn đoán có thể
rõ hơn thông qua dấu hiệu vùng UXCTC thoái hóa không tăng độ tương phản khi sử dụng
gadolinium
(Laughlin
và cs, 2011). Trong trường hợp đau bụng cấp tính nghi ngờ do UXCTC thoái hóa và
có chỉ định phẫu thuật thì cần loại trừ cẩn thận các bệnh lý khác có thể gây tình
trạng đau vùng chậu cấp như lạc nội mạc tử cung, cơn đau quặn thận,
hay các bệnh lý ít gặp như lao vùng chậu. (Mollica và cs, 1996; Moore và cs,
2008)
TRIỆU CHỨNG THỰC THỂ: KHÁM TỔNG QUÁT
VÀ KHÁM PHỤ KHOA
Sốt: hiếm gặp,
thường chỉ gặp trong trường hợp UXCTC thoái hóa.
Thiếu máu: xuất hiện khi tình
trạng xuất huyết tử cung nặng và/hoặc kéo dài, có thể gây ảnh hưởng sinh hiệu
(mạch nhanh, huyết áp tuột) nhưng hiếm, thường gặp hơn là tình trạng da xanh, niêm
nhợt. Có thể sử dụng xét
nghiệm tổng phân tích máu toàn bộ để đánh giá chính xác hơn mức độ thiếu máu.
Khám mỏ vịt: có thể thấy khối
UXCTC tại cổ ngoài cổ tử cung hoặc thấy UXCTC dưới niêm nằm nhô ra ngoài cổ tử
cung, thường được chẩn đoán phân biệt với polyp nội mạc tử cung bằng độ chắc
của khối u và giải phẫu bệnh lý.
Khám: nên khám kỹ để đánh
giá kích thước, vị trí, độ di động của khối UXCTC, khi khám nên kết hợp khám
tay trong âm đạo và tay ngoài thành bụng.
- Kích thước của tử cung có UXCTC khi thăm
khám thường được ước tính tương đương với kích thước một tử cung khi mang thai sống.
- Một tử cung to, di động với đường
viền không đều, cảm giác nhiều
khối nhỏ lổn nhổn trên bề mặt là một tử cung đa nhân xơ.
- Tử cung to nhưng ít di động hoặc
không di động, chúng ta nên nghĩ tới tình trạng viêm nhiễm hoặc kết hợp với lạc
nội mạc tử cung.
TRIỆU CHỨNG CÁC BIẾN CHỨNG
Vô sinh là tình trạng có thể
gặp phải thường liên quan với khối UXCTC làm biến dạng lòng tử cung như UXCTC
dưới niêm mạc hoặc UXCTC trong cơ tử cung có 1 phần nhô vào buồng tử cung.
Những cấu trúc này dù nhỏ, cũng có thể là nguyên nhân làm cản trở quá trình thụ thai cũng
như tăng nguy cơ sẩy thai, sẩy thai liên tiếp (Pritts và cs, 2009). (Xin xem
phần “UXCTC và hiếm
muộn”)
Biến chứng sản khoa: UXCTC cũng
đã được chứng minh là làm tăng các biến chứng sản khoa như nhau bong non, thai chậm
tăng trưởng trong tử cung, ngôi thai bất thường và sinh non (Qidwai và cs,
2006). (Xin xem phần “UXCTC trong
thai kỳ”)
Thoái hóa ác tính: rất hiếm
gặp. Nên nghĩ tới tình trạng UXCTC thoái hóa ác tính khi khối u to
nhanh, nhất là trên phụ nữ tuổi mãn kinh. Siêu âm có thể thấy tình trạng xuất
huyết hoặc hoại
tử. (Xin xem phần “Biến chứng
của UXCTC”)
Chương V
CHẨN
ĐOÁN U XƠ CƠ TỬ CƯNG
CHẨN ĐOÁN XÁC ĐỊNH
Chẩn đoán dựa trên triệu chứng
lâm sàng
Hầu hết trường hợp UXCTC đều không biểu
hiện triệu chứng và được chẩn đoán tình cờ khi khám phụ khoa và siêu âm vùng
chậu (Divakar, 2008). Tuy nhiên cũng có những trường hợp UXCTC gây triệu chứng
rầm rộ trên lâm sàng như xuất huyết tử cung bất thường, đau vùng
chậu, thiếu máu... (Stewart và cs. 2015).
Chẩn đoán UXCTC trên khám lâm sàng dựa
trên các dấu hiệu thường gặp bao gồm (Corazon và cs, 2017): (1) tử cung to, phát
triển chậm (2) xuất huyết tử cung bất thường (rối loạn kinh nguyệt, ra kinh
nhiều hoặc kéo dài), (3) đau, căng tức vùng chậu do thoái hóa hay do chèn ép
các cơ quan xung quanh gây đi tiểu khó, bí tiểu, táo bón, thận ứ nước, (4) sẩy thai
liên tiếp.
Chẩn đoán dựa trên hình ảnh
Siêu âm ngả âm đạo: là kỹ thuật
hình ảnh đầu tay trong chẩn đoán UXCTC. Đặc điểm của UXCTC điển hình trên siêu
âm bao gồm: khối u giới hạn rõ, hình cầu, có thể có dấu calcium hóa,
phân bố mạch máu viền quanh tổn thương trên siêu âm doppler (Levy và cs, 2013).
Hình 1. UXCTC qua siêu
âm ngả âm đạo. Nguồn: Bệnh
viện Mỹ Đức.
- Siêu âm ngả bụng: giúp đánh
giá tổng quát vùng chậu, đếm số lượng khối u, quan sát các khối u lớn. Ngoài
ra, siêu âm ngả bụng còn có thể giúp đánh giá biến chứng chèn ép niệu quản,
bàng quang, trực tràng.
Siêu âm doppler: đánh giá
phân bố mạch máu trong UXCTC, chẩn đoán phân biệt dạng phân bố xuyên tổn thương
trong bệnh tuyến-cơ tử cung (adenomyosis). Ngoài ra, siêu âm doppler đánh giá
chỉ số đập (PI) và chỉ số
kháng trở (RI) động mạch
cũng giúp ích trong chẩn đoán phân biệt UXCTC và bệnh tuyến-cơ tử cung.
- Siêu âm bơm nước buồng tử cung: thường chỉ
định trong chẩn đoán UXCTC dưới
niêm mạc (L 0-2 theo phân loại của FIGO).
- Trong trường hợp UXCTC không điển
hình, không thể chẩn đoán xác định hoặc cần chẩn đoán phân biệt với bệnh tuyến-cơ tử
cung có thể sử dụng cộng hưởng từ (MRI). Phần lớn những trường hợp không thể phân biệt UXCTC và bệnh
tuyến-cơ tử cung trên siêu âm là dạng kết hợp cả hai bệnh lý (Podasca và cs, 2016).
MRI còn có ưu điểm
là giúp đánh giá tổng quát các cơ quan vùng chậu, phát hiện bệnh lý đi kèm hoặc
biến chứng.
CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT
Cần chấn đoán UXCTC và các bệnh lý
sau:
- Tử cung to do có thai.
- Polyp nội mạc tử cung (trường hợp
UXCTC dưới niêm mạc).
- Khối u buồng trứng (trường hợp UXCTC
dưới thanh mạc có
cuống).
- Leiomyosarcoma: sarcoma tử cung được
chẩn đoán xác định dựa trên kết quả giải phẫu bệnh. Chẩn đoán lâm sàng sarcoma
tử cung thật sự là một thách thức, bởi sự biệt hóa đa dạng của sarcoma, dấu
hiệu lâm sàng nghèo nàn, không đặc hiệu, cần đặc biệt lưu ý trường hợp UXCTC
đột ngột tăng nhanh kích thước hoặc mới xuất hiện trên phụ nữ tuổi mãn kinh. Đặc điểm
của sarcoma tử cung trên siêu âm thường là khối đặc với phản âm
không đồng nhất; kèm tăng sinh mạch máu mức độ trung bình trở lên
(Ludovisi và cs, 2019).
Về chẩn đoán hình ảnh, cần chẩn đoán phân
biệt UXCTC và bệnh tuyến-cơ tử cung:
Hình 2. Chẩn
đoán phân biệt UXCTC và bệnh tuyến-cơ tử cung
(adenomyosis) trên siêu âm. Nguồn: Bệnh
viện Mỹ Đức
A: phân bố mạch máu quanh UXCTC trên
siêu âm doppler
B: UXCTC trên siêu âm
thang xám ngả âm đạo
C: bệnh tuyến-cơ tử cung (adenomyosis)
trên siêu âm thang xám ngả âm đạo
D: phân bố mạch đâm xuyên qua
tổn thuơng (mạch luới) bệnh tuyến-cơ tử cung (adenomyosis) trên siêu âm doppler
Đặc điểm
|
UXCTC điển hình
|
Bệnh tuyến-cơ tử cung (Adenomyosis)
|
Đường bờ thanh mạc tử cung
|
Phân thùy hoặc bờ đều
|
Tử cung hình cầu, tăng kích thước
|
Giới hạn tổn thương
|
Giới hạn rõ
|
Giới hạn không rõ
|
Sự đồng nhất của thành
tử cung
|
Thành tử cung không đồng nhất
trong vùng tổn thương giới hạn rõ
|
Thành trước - sau cơ tử cung không
đồng nhất
|
Đường bờ tổn thương
|
Giới hạn rõ, trơn láng
|
Bờ không rõ, không đồng nhất
|
Hình dạng
|
Tròn, oval, phân thùy
|
Không có hình dạng
nhất định
|
Viền tổn thương
|
Phản âm kém hoặc dày
|
Không có viền tổn thương
|
Bóng (lưng)
|
Bóng lưng ở bờ hoặc bên trong
tổn thương (thường có hình rẻ quạt)
|
Không có bóng lưng ở bờ tổn thương,
bóng lưng hình rẻ quạt
|
Độ hồi âm
|
Đồng nhất: có thể đồng
âm, giảm âm hoặc tăng âm
Không đồng nhất: phản âm hỗn
hợp
|
Không đồng nhất: phản âm hỗn hợp
Nhiều nang, nhiều vùng tăng âm,
nhiều đường phản âm sọc dưới NMTC
|
Phân bố mạch máu
|
Quanh tổn thương
|
Mạch đâm xuyên qua tổn thương
(mạch lưới)
|
Vùng nối
|
|
|
Dày vùng nối, tính đồng nhất
|
Không dày, đều hoặc không quan sát
thấy
|
Dày vùng nối, không đều
hoặc giới hạn không
rõ
|
Vùng nối gián đoạn
|
Mất liên tục hoặc giãn ở vùng có UXCTC
L1-3 theo FIGO
|
Vùng nối mất liên tục (ngay
cả khi không quan sát thấy tổn thương khu trú)
|
Nguồn: Van Den Bosch và cs, 2019.
Chương VI
BIẾN
CHỨNG U XƠ CƠ TỬ CUNG
Hầu hết phụ nữ có UXCTC nhỏ
không có triệu chứng. UXCTC to, gây chèn ép, gây xuất huyết tử cung bất thường
làm cho phụ nữ lo lắng và đến khám phụ
khoa.
XUẤT HUYẾT TỬ CUNG BẤT THƯỜNG
Xuất huyết tử cung bất thường là biến
chứng thường gặp nhất, do UXCTC nằm trong buồng tử cung hay nhô ra làm biến dạng buồng tử
cung (L0, L1, L2). Xuất
huyết tử cung bất
thường là cường kinh (30%, Lumsden MA và cs, 1998), rong kinh và xuất huyết
giữa chu kỳ kinh. Cơ chế xuất huyết tử cung bất thường do UXCTC vẫn chưa được
hiểu rõ, giải thích được chấp nhận nhiều nhất là tăng diện tích bề mặt niêm
mạc, bất thường mạch máu tử cung kết hợp với sự thay đổi hệ thống cầm máu tại
nội mạc tử cung (Miura và cs, 2006).
Mức độ xuất huyết phụ thuộc vào vị trí
hơn là kích thước khối u. UXCTC dưới niêm mạc (L0, L1, L2) dù nhỏ
nhưng vẫn có thể gây cường kinh.
UXCTC dưới niêm mạc có thể giải quyết
bằng phẫu thuật nội soi buồng tử cung (L0, L1, L2) hay điều trị nội khoa (L2, L3) bằng
thuốc điều hòa thụ thể progesterone có chọn lọc; thuốc ngừa thai;
GnRH đồng vận; LNG-IUS (vòng Mirena) sau khi đã cắt bỏ UXCTC L0 và L1; tranexamic
acid.
CHÈN ÉP
UXCTC có thể to lên và chèn ép các cơ
quan lân cận trong vùng chậu. Chèn ép niệu quản gây thận ứ nước, chèn ép bàng
quang gây rối loạn đi tiểu hoặc chèn
ép trực tràng gây nên táo bón. Các triệu chứng liên quan đến tiểu tiện nên được thăm khám
và loại trừ các nguyên nhân khác trước khi kết luận các triệu chứng này liên
quan đến UXCTC. (Lumsden và cs, 1998). Một số ít trường hợp khối UXCTC to chèn ép tĩnh
mạch vùng chậu, dẫn đến sự ứ máu tại vùng chậu và dẫn đến thuyên tắc mạch.
UXCTC gặp ở độ tuổi tiền mãn kinh có
nguy cơ liên quan đến thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch sâu và thuyên tắc phổi (Tanaka và
cs, 2002).
ĐAU
Đau do UXCTC ít gặp và thường liên
quan đến thoái hóa. Đa cũng có thể do UXCTC có cuống xoắn và có thể kết hợp với
bệnh tuyến-cơ tử cung (adenomyosis) và/hoặc lạc nội mạc tử cung. Đau do UXCTC không
đáp ứng với điều trị nội khoa cũng là một trong những chỉ định của điều trị
ngoại khoa (Carranza và
cs, 2015)
THOÁI HÓA
Thoái hóa là biến chứng cũng thường
gặp của UXCTC. Thoái hóa được phân chia thành nhiều dạng khác nhau như thoái
hóa kính, thoái hóa nang, hoại sinh vô khuẩn hoặc hóa vôi.
- Thoái hóa kính là loại thoái hóa
thường gặp nhất, chiếm 60%.
- Thoái hóa nang gặp khoảng 4% và
thường xảy ra sau khi có thoái hóa kính.
- Hoại sinh vô khuẩn thường gặp trong khi mang
thai, khoảng 8% UXCTC trong thai kỳ, khoảng 3% cho các UXCTC nói chung (Kawakami
và cs, 1994).
Thoái hóa ác tính (sarcomatous
degeneration) hiếm xảy ra, tỷ lệ khoảng 0,2% cho tất cả các loại UXCTC. Cần đặc
biệt chú ý đến các khối UXCTC phát triển nhanh hoặc những khối u mới xuất hiện
khi đã mãn kinh. Triệu chứng của thoái hóa ác tính có thể là đau và xuất huyết
tử cung bất thường (Yanai H và
cs, 2010). Khi phẫu thuật
bóc nhân xơ hoặc cắt tử cung, nếu khối u to, mặt cắt màu vàng hoặc nâu, mềm, có
đốm xuất huyết
hay hoại tử thì nghi ngờ thoái hóa ác tính. Chẩn đoán được xác định
bằng giải phẫu bệnh lý.
HIẾM MUỘN
Ảnh hưởng của UXCTC lên khả
năng sinh sản luôn là vấn đề được quan tâm nhưng chưa được hiểu biết rõ ràng.
UXCTC đơn thuần không phải là nguyên nhân tuyệt đối gây hiếm muộn, nhiều bệnh
nhân có UXCTC vẫn có thai mà không cần can thiệp. UXCTC dưới niêm làm giảm khả
năng có thai, tăng nguy cơ sẩy thai, UXCTC dưới niêm (L0, L1, L2) phải
được xử trí bằng phẫu thuật nội soi buồng tử cung. Trong khi đó, UXCTC trong cơ
có thể không có ảnh hưởng rõ ràng, tuy nhiên nếu gây biến dạng lòng tử cung thì
có thể ảnh hưởng đến khả năng thụ thai cũng như tăng nguy cơ sẩy thai, sẩy thai
liên tiếp (Carranza và cs, 2015) (Xin xem phần UXCTC và hiếm muộn).
CÁC BIẾN CHỨNG LIÊN QUAN THAI KỲ
Tần suất phát hiện UXCTC trong
thai kỳ phụ thuộc vào các nghiên cứu siêu âm, chủng tộc và độ tuổi (Laughlin và
cs, 2009).
Hầu hết các nghiên cứu siêu âm cho thấy UXCTC
có thể to lên, nhỏ đi hoặc giữ kích thước như trước khi có thai (Laughlin và cs,
2010; De Vivo và cs, 2011).
Một vài nghiên cứu hồi cứu cho thấy ảnh hưởng
của UXCTC và kết cục thai kỳ. Phân tích gộp vào năm 2008 cho thấy có tăng nguy
cơ ngôi bất thường, mổ lấy thai và
sinh non (Klatsky và cs, 2008). Vào năm 2010, một nghiên cứu bao gồm 72.000 phụ
nữ cho thấy tăng nguy cơ nhau tiền đạo, nhau bong non, vỡ ối sớm, sinh non <
34 tuần và thai lưu. Tuy nhiên khác biệt này < 2% và không có ý nghĩa thống
kê. Điều này cho thấy UXCTC (đặc biệt các khối UXCTC lớn) và thai kỳ
nên được theo dõi chặt chẽ để có kết cục sản và nhi khoa tốt (Stout và cs, 2010) (Xin
xem phần UXCTC và thai kỳ).
Chương VII
TIẾP
CẬN VÀ XỬ TRÍ CÁC TRƯỜNG HỢP U XƠ CƠ TỬ CUNG CHƯA CÓ CHỈ ĐỊNH CAN THIỆP NỘI -
NGOẠI KHOA
UXCTC là loại khối u vùng chậu thường
gặp nhất ở phụ nữ trong
độ tuổi sinh sản. Hiện nay, đồng thuận của các Hiệp hội Sản Phụ khoa thế giới
(Divakar, 2008; Lefebvre và cs, 2003; Myers và cs, 2002; Pérez-López và cs,
2014) cho rằng các
trường hợp UXCTC không có triệu chứng và người bệnh không nhu cầu mang thai
thì không cần điều trị. Do đó, chỉ định điều trị nội khoa và ngoại khoa chỉ đặt
ra khi UXCTC có biến chứng gây nên
những triệu chứng làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và khả năng sinh
sản của phụ nữ.
Tuy không cần phải điều trị, các
trường hợp UXCTC không
có chỉ định can thiệp nội khoa hay ngoại khoa vẫn cần được tiếp cận, theo dõi
để dự phòng các biến chứng có thể xảy ra (Singh và cs, 2015).
Để tiếp cận và theo dõi các trường hợp
này, có thể phân thành 2 đối tượng:
UXCTC ở phụ nữ trong lứa tuổi sinh sản
- Theo dõi sự phát triển kích thước
của khối u bằng các số đo của siêu
âm mỗi 6 tháng - 1 năm tùy vị trí, kích
thước của khối u.
- Theo dõi sự xuất hiện các triệu
chứng liên quan đến các biến chứng; khai thác bệnh sử, thăm khám mỗi 6 tháng -
1 năm
UXCTC ở phụ nữ mãn kinh
- Vì UXCTC có khuynh hướng giảm kích
thước một cách đáng kể, thậm chí biến mất ở phụ nữ mãn kinh, vì vậy ở đối tượng
này thì thái độ thận trọng theo dõi là một chọn lựa tối ưu hơn là một biện pháp
can thiệp khác (Bulun, 2013). Theo dõi sự
phát triển về kích thước, tính chất của khối u qua khảo sát siêu âm mỗi 3-6
tháng. Chú ý khả năng hóa ác khi khối u to nhanh, hình ảnh hoại tử trong lòng
khối u.
- Đối với những phụ nữ mãn kinh có điều
trị nội tiết thay thế, thì cần được cảnh báo rằng UXCTC có thể sẽ không
giảm kích thước và có thể xuất hiện
một số triệu chứng liên quan của UXCTC (Ryan và cs, 2005). Nếu có xuất huyết âm đạo,
cần theo dõi sát để xác định khả năng ác tính. Cần đo bề dày niêm mạc tử cung ở mỗi lần siêu
âm và nạo sinh thiết tầng nếu nội mạc tử cung dày.
Chương VIII
ĐIỀU
TRỊ NỘI KHOA U XƠ CƠ TỬ CUNG
Hiện nay, các Hiệp hội Sản Phụ Khoa
đều đồng thuận rằng việc điều trị UXCTC chỉ được đặt ra khi UXCTC có biến chứng
gây nên những triệu chứng làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và khả năng
sinh sản của phụ nữ (Mas và cs, 2017; Breech và cs, 2003).
Việc điều trị UXCTC nên được cá thể
hóa dựa trên tuổi, triệu
chứng, kích thước UXCTC, nhu cầu mang thai và các tác dụng phụ có thể có của
từng phương pháp.
Trước đây, các trường hợp UXCTC có
biến chứng thường được chỉ định phẫu thuật. Tuy nhiên, điều trị nội khoa có nhiều tiến
bộ và xu hướng điều trị bảo tồn tăng lên do yêu cầu của bản thân người phụ nữ
và do có những bằng chứng cho thấy phụ nữ cắt tử cung, chừa 1 hoặc 2 buồng
trứng, có nguy cơ mãn kinh sớm
hơn 2-3 năm so với nhóm chứng (Moorman và cs, 2011).
Nhiều nhóm thuốc được nghiên cứu và
bước đầu mang lại kết quả khả quan tạo thêm nhiều lựa chọn phù hợp cho từng
bệnh nhân và giúp bảo tồn khả năng sinh sản.
Điều trị nội khoa có thể được áp dụng
cho các trường hợp:
- UXCTC gây rong kinh rong huyết nhưng
chưa ảnh hưởng nghiêm trọng đến thể trạng của bệnh nhân như gầy sút, thiếu
máu nặng, chất lượng cuộc sống suy giảm trầm trọng.
- UXCTC không gây chèn ép lòng tử
cung, vô sinh hoặc sẩy thai liên
tiếp.
- UXCTC không gây chèn ép nặng niệu
quản, thận ứ nước, suy thận mãn sau thận do tắc nghẽn.
- Để giảm kích thước khối u và tử
cung, cải thiện tình trạng thiếu máu của bệnh nhân trước khi mổ.
TRANEXAMIC ACID
Tranexamic acid là một chất chống ly
giải fibrin. Tranexamic acid được chứng minh làm giảm lượng máu kinh kể cả khi
có UXCTC (Telner và cs,
2007). Khuyến cáo:
- Có bằng chứng ủng hộ sử dụng
tranexamic acid trên
bệnh nhân cường kinh và kiểm
soát chảy máu trong phẫu thuật. (Khan và cs, 2014; Laughlin và cs,
2011; Wellington và cs, 2003)
- Điều trị kết hợp thuốc ngừa thai và
tranexamic không được khuyến cáo. (Peitsidis và cs, 2014)
- Tranexamic acid không được khuyến
cáo trên bệnh nhân có bệnh lý đông máu bẩm sinh hoặc có tiền căn huyết khối. Cách sử dụng:
o Đường uống: viên Transamin 250 mg
hoặc 500 mg, 1viên x 3 lần mỗi
ngày đến khi ngưng xuất huyết. Liều
tối đa: 750 mg
- 2.000 mg/24 giờ.
o Hoặc đường tiêm (ống thuốc có hàm
lượng 250 mg hoặc 500 mg/5mL) : 250 - 500 mg/ngày tiêm bắp hay tĩnh mạch, dùng 1-
2 lần/ngày trước khi mổ hoặc nếu
xuất huyết trong hay
sau phẫu thuật 500 - 1.000 mg/lần tiêm tĩnh mạch hoặc 500 - 2.500 mg pha trong
500 mL dung dịch glucose 5% hay dung dịch có chất điện giải, truyền nhỏ giọt
tĩnh mạch 24 giờ.
o Cẩn thận trên bệnh nhân đang điều trị huyết
khối tĩnh mạch, suy thận hay quá mẫn với các thành phần của thuốc.
o Lưu ý tác dụng phụ có thể gặp bao gồm thống kinh,
nôn ói, buồn nôn dù không thường xuyên xuất hiện.
THUỐC VIÊN TRÁNH THAI NỘI TIẾT KẾT HỢP
(TVTTNTKH)
Khuyến cáo:
- Có bằng chứng ủng hộ sử dụng
TVTTNTKH để điều
trị triệu chứng xuất huyết tử cung nặng liên quan tới UXCTC, sau khi
đã điều trị đợt xuất huyết cấp. (Vilos và cs, 2015)
- Chống chỉ định trên bệnh nhân có
nguy cơ thuyên tắc tĩnh mạch, béo phì, tăng huyết áp và hút thuốc. (Practice
Committee of the American Society for Reproductive Medicine, 2017)
Nguy cơ có thể gặp gồm ung thư vú, nhồi máu cơ tim,
đột quỵ được xem là thấp dựa trên các chứng cứ hiện có (Kiley và cs, 2007).
Ngoài ra, thuốc còn có các tác dụng phụ khác như đau đầu, buồn nôn, căng ngực.
PROGESTINS-DỤNG CỤ TỬ CUNG CHỨA
LEVONORGESTREL (LEVONORGESTREL INTRAUTERINE SYSTEM - LNG-IUS)
Khuyến cáo:
LNG-IUS được chỉ định điều trị triệu
chứng cường kinh và có thể là biện pháp điều trị thay thế để tránh nguy cơ phẫu
thuật trong trường hợp cường kinh là triệu chứng chính của bệnh nhân.
- LNG-IUS có thể cải thiện nồng độ
haemoglobin.
- LNG-IUS không được khuyến cáo cho
những bệnh nhân xuất huyết âm đạo bất thường chưa xác định nguyên nhân.
- Bệnh nhân cần được điều trị ổn định
qua đợt xuất huyết cấp, được nội soi buồng tử cung cắt các khối UXCTC L0, L1, L2, và điều
trị các bệnh lây truyền qua
đường tình dục (nếu có) trước khi đặt vòng LNG-IUS.
LNG-IUS làm giảm đáng kể lượng máu mất
bằng cách giảm phân bào nội mạc tử cung, tăng cường chết tế bào theo
chương trình (Maruo và cs, 2001).
LNG-IUS làm giảm 80% lượng
máu kinh trong 4 tháng đầu tiên, có thể gây vô kinh trong vòng 2 năm. Haemoglobin tăng
7,8% trong 4 tháng đầu điều trị (Dhamangaonkar và cs, 2015). LNG-IUS cải thiện
chất lượng sống, tăng mức độ hài lòng của bệnh nhân và tiếp tục duy trì quá trình
điều trị, tránh bớt chỉ định phẫu thuật (Qiu và cs, 2014).
Tỷ lệ rơi vòng tuy thấp nhưng có
thể xảy ra, đặc biệt ở những trường hợp có UXCTC to dưới niêm hoặc trong cơ
(Khan và cs, 2014).
Các thuốc chứa progestins khác cũng có
thể làm giảm chảy máu như que
cấy chưa etonogestrel (Implanon).
GnRH ĐỒNG VẬN
(GONADOTROPIN RELEASING HORMONE
AGONIST)
Khuyến cáo:
- GnRH đồng vận được sử dụng điều trị
UXCTC có triệu chứng, có thể làm giảm kích thước khối u xơ và tử cung.
Có thể sử dụng trước phẫu thuật 1-3 tháng để giảm lượng máu mất và mổ dễ hơn.
- GnRH đồng vận được khuyến cáo sử
dụng trong trường hợp UXCTC có triệu chứng nhằm cải thiện nồng độ huyết sắc tố
trước phẫu thuật. (Lethaby và cs, 2000)
- Ngưng GnRH đồng vận trong khoảng 2
tuần trước khi phẫu thuật.
- Không nên sử dụng GnRH đồng vận kéo
dài trên 6 tháng, trừ khi có kết hợp thêm các điều trị bổ sung nhằm cân bằng
những rối loạn do nội tiết tố sinh dục. Có bằng chứng cho thấy GnRH đồng vận
gây giảm mật độ xương không hồi phục dù đã bổ sung estrogen trong quá trình điều
trị. (Palomba và
cs, 1999; Palomba và cs, 2002)
- GnRH đồng vận gây nên những triệu
chứng của mãn kinh như bốc hỏa, viêm teo âm đạo và giảm mật độ xương do đó chỉ
nên chỉ định ngắn hạn (dưới 6 tháng) trước khi phẫu thuật nhằm làm giảm kích thước
u xơ và cải thiện tình trạng thiếu máu cho bệnh nhân.
Lưu ý, UXCTC có thể tái phát rất nhanh đồng thời kéo
theo các triệu chứng liên quan sau khi ngưng điều trị GnRH
đồng vận (Letterie và cs, 1989).
THUỐC ĐIỀU HÒA CHỌN LỌC THỤ THỂ PROGESTERONE
(SELECTIVE PROGESTERONE RECEPTOR
MODULATORS-SPRMS)
Mifepristone
Khuyến cáo:
- Mifepristone được khuyến cáo chỉ
định trong trường hợp UXCTC có xuất huyết tử cung bất thường, trằn nặng hạ vị,
thiếu máu và thống kinh (Gurusamy và cs, 2016; Islam và cs, 2013; Khan và cs,
2014; Shen và cs, 2013; Singh và cs, 2015; Tristan và cs, 2012).
- Mifepristone chống chỉ định sử dụng
trong thai kỳ và bệnh nhân đã điều trị steroids trong 3 tháng trước đó.
(Bagaria và cs, 2009; Tristan và cs, 2012)
Lưu ý:
- Khoảng 63% bệnh nhân được ghi nhận
dày niêm mạc tử cung khi điều
trị với mifepristone (Bagaria và cs, 2009).
- Những thay đổi trên nội mạc tử cung
được gọi là “thay đổi nội
mạc tử cung liên quan đến điều
hòa thụ thể
progesterone-PAEC”, có thể thoái triển
khi ngưng liệu
trình điều trị. Sự thay đổi này không phải tăng sinh nội mạc tử cung hay ung
thư nội mạc tử cung (Chabbert-Buffet và cs, 2014).
- Cần lưu ý, mifepristone không được
đăng ký chính thức để điều trị UXCTC (off-label).
Thuốc điều hòa chọn lọc thụ thể
Progesterone (SPRMs)
Ulipristal acetate
(UPA)
Khuyến cáo:
- UPA hiện được khuyến cáo là lựa chọn
đầu tay trong điều trị nội khoa UXCTC.
- UPA được khuyến cáo điều trị làm
giảm triệu chứng cường kinh
và trằn nặng hạ vị do có tác dụng làm giảm lượng máu kinh (liều 5mg có thể làm
giảm lượng máu kinh trên 91% bệnh nhân và 50% bệnh nhân sẽ ngưng xuất huyết
trong vòng 10 ngày đầu điều trị (Donnez và cs, 2012)) và giảm kích thước khối u
khoảng 25% kích thước sau 13 tuần (Donnez và cs, 2012; Talaulikar và cs, 2012).
- UPA có thể được chỉ định trước phẫu
thuật để làm nhỏ kích thước khối u và tử cung, cải thiện tình trạng thiếu máu
của bệnh nhân.
- Không cần thiết sử dụng đồng thời thuốc
ngừa thai nội tiết và progestogens với UPA (Talaulikar và cs, 2014).
- SPRMs không ảnh hưởng trên tế bào cơ
tử cung bình thường và không ức chế hoàn toàn hoạt động trục nội tiết nên không
gây ra tình trạng giống mãn kinh (Chabbert-Buffet và cs, 2014). SPRMs gây chết
tế bào theo chương trình (apoptosis) của các sợi cơ trong u, giảm chất nền khối
u. Do đó khối UXCTC và các triệu chứng ít tái phát sau khi ngưng điều trị.
- Ulipristal acetate (UPA) là thuốc
được sử dụng rộng rãi và cho nhiều kết quả khả quan nhất trong nhóm SPRMs hiện
nay (Farris và cs, 2019).
- UPA có được sửa dụng nhằm (Odejinmi
và cs, 2017):
• Cải thiện khả năng có thai ở phụ nữ
hiếm muộn.
• Cải thiện triệu chứng gây ra bởi UXCTC cho phụ
nữ gần tuổi mãn kinh.
• Tránh phẫu thuật cho bệnh nhân mang
UXCTC có triệu chứng, do một số UXCTC sẽ
giảm kích thước khi được điều trị với UPA. Từ đó cải thiện
khả năng đậu thai.
• Tránh phẫu thuật cho bệnh nhân không
muốn phẫu thuật.
• Kiểm soát triệu chứng ở người phụ nữ
không đủ điều kiện phẫu thuật.
• Ngăn ngừa tái phát UXCTC ở phụ nữ đã
được phẫu thuật bóc u xơ.
- Liều dùng: UPA 5 mg 1 viên/ngày trong 3
tháng. Nếu muốn dùng
lặp lại phải ngưng 2 tháng rồi cho đợt thứ nhì 3 tháng. Có thể dùng tối đa 8 đợt.
- Chống chỉ định của UPA
bao gồm có thai, xuất huyết âm đạo bất thường chưa rõ nguyên nhân và bệnh lý ác
tính (Talaulikar và cs,
2014).
- Các tác dụng phụ thường gặp của UPA
được ghi nhận gồm đau đầu, căng ngực, đau bụng, tuy nhiên các triệu chứng này
cũng rất ít gặp (Donnez và cs, 2012).
- Nội mạc tử cung dày liên quan với
UPA được ghi nhận, có thể do dày nang tuyến, ít liên quan đến tăng sinh nội mạc
tử cung (Talaulikar và cs,
2012). Điều trị UPA thời gian dài cần theo dõi độ dày nội mạc tử cung qua siêu
âm, đặc biệt ở thời điểm giữa các đợt điều trị.
- Tính an toàn của UPA đã được
Ủy Ban Châu Âu
về Dược Phẩm (European Medicines Agency - EMA) yêu cầu xem xét lại
từ tháng 11 năm 2017 và đến tháng 05 năm 2018 đã kết luận và cho phép tiếp tục sử dựng
UPA, với các
lý lẽ như sau:
• Trên 1.800 bệnh nhân sử dụng UPA 2,5 mg
hoặc 5 mg mỗi ngày x 3 tháng mỗi
đợt x 1 - 8 đợt:
không thấy có dấu hiệu UPA gây độc cho gan.
• Không có bệnh nhân nào uống 5 mg UPA
mỗi ngày trong 1 hoặc nhiều đợt 3 tháng có men gan ALT hay AST tăng gấp 3 lần mức độ
cao bình thường và không có bệnh nhân nào tổn thương gan do thuốc theo tiêu
chuẩn quốc tế (Hy’s Law).
- Có một số ca báo cáo về tổn thương
gan xảy ra sau khi UPA được lưu hành trên thị trường (8/765.000 ca đang sử dụng
UPA - tỷ lệ # 1/100.000).
- UPA không nằm trong nhóm thuốc gây tổn thương gan
(drugs-induced liver injuries - DILI).
- Trong thời điểm hiện tại, trên thị trường
không có một loại thuốc nào ngoài UPA đã được chứng minh có hiệu quả điều trị u
xơ cơ tử cung có biến chứng nặng hoặc
trung bình, được cấp phép điều trị.
- Tổn thương gan có thể được loại trừ
khi sử dụng UPA bằng cách xét nghiệm chức năng gan như sau:
• Trước khi bắt đầu điều trị: xét
nghiệm chức năng gan, nếu AST (aspartate aminotransferase) hoặc ALT (alanine
transaminase) > 2 lần giá trị
bình thường, không nên chỉ định UPA.
• Trong 2 đợt điều trị đầu, xét nghiệm
AST, ALT mỗi tháng.
• Những đợt điều trị tiếp theo: xét
nghiệm AST, ALT trước khi bắt đầu đợt điều trị hoặc khi lâm sàng có triệu chứng liên quan.
• Cuối mỗi đợt điều trị: xét nghiệm
AST, ALT sau 2-4 tuần kết thúc đợt.
• Ngưng ngay UPA nếu men gan tăng gấp
3 lần giới hạn trên và chuyển bệnh nhân khám chuyên khoa gan mật.
(Donnez và
cs, 2018)
Điều trị nội khoa UXCTC bằng UPA là
một biện pháp:
- Có thể sử dụng trước phẫu thuật làm
nhỏ khối u và tử cung, cải thiện tình trạng thiếu máu.
- Có thể sử dụng lâu dài.
- Có thể thay thế phẫu thuật, nhất là
cho phụ nữ sắp mãn kinh hoặc mong muốn có con, đáp ứng nguyện vọng giữ tử cung
một cách an toàn cho hầu hết bệnh nhân.
Chương IX
ĐIỀU
TRỊ NGOẠI KHOA U XƠ CƠ TỬ CUNG
Trong thời gian gần đây, điều trị nội
khoa UXCTC được phát triển nhiều vì có nhiều thuốc mới điều trị hiệu quả.
Một số trường hợp vẫn cần điều trị ngoại khoa như:
- UXCTC to, gây cảm giác khó chịu nhiều cho bệnh
nhân lớn tuổi, không mong có thêm con.
- UXCTC gây biến chứng nặng như xuất
huyết tử cung bất thường nặng, sẩy thai liên tiếp.
- Điều trị nội khoa thất bại (ít gặp).
CHUẨN BỊ TRƯỚC MỔ
1. Làm giảm kích thước
khối u trước phẫu thuật (mức độ chứng cứ: mạnh)
GnRH đồng vận: Theo một
phân tích gộp của Cochrane 2001 gồm 26 thử nghiệm lâm sàng cho thấy sử dụng
GnRH đồng vận trong 3-4 tháng trước phẫu thuật làm giảm kích thước tử cung và
kích thước khối UXCTC nên giảm thời gian phẫu thuật, giảm lượng máu mất và thời
gian nằm viện.
Nên tiến hành phẫu thuật sau khi ngừng
GnRH đồng vận trong vòng tối đa 2 tuần.
SPRMs (selective
progesterone receptor modulators): Một thử nghiệm lâm sàng bao gồm những
người bệnh UXCTC có triệu chứng được sử dụng UPA 5 mg/ngày (n=96) hoặc 10
mg/ngày (n=98) trong 13 tuần so với nhóm giả dược (n=48) cho thấy, kết quả kiểm
soát được tình trạng chảy máu nặng 91-92% so với nhóm chứng là 19% đồng thời
giảm kích thước và khối lượng UXCTC có ý nghĩa thống kê (Donnez và cs, 2012).
2. Loại trừ các tổn thương ung thư nội
mạc tử cung hay cổ tử cung trước phẫu thuật
Tất cả những trường hợp có xuất huyết
tử cung bất thường cần được loại trừ ung thư trước khi tiến hành phẫu thuật
bằng cách thực hiện các thủ thuật nạo sinh thiết từng phần, soi cổ tử cung,
phết tế bào cổ tử
cung, bấm sinh thiết cổ tử cung nếu có chỉ định.
3. Cần khảo sát kỹ trước phẫu thuật:
- Yếu tố người bệnh: mức độ trầm trọng
của xuất huyết (thiếu máu hay
ảnh hưởng đến sinh hoạt), triệu chứng
liên quan (đau
vùng chậu, vô sinh), các bệnh lý nội khoa mắc phải, nguy cơ tiềm ẩn huyết khối, vị trí,
kích thước và số lượng UXCTC,
tuổi, PARA, mong muốn có thai.
(Stewart và cs, 2017; Templeman và cs, 2009)
- Yếu tố phẫu thuật viên: quá trình
đào tạo, kỹ năng và kinh nghiệm.
- Yếu tố cơ sở y tế: trang
thiết bị y tế - kỹ thuật sẵn có, dự trữ máu và các thành phần của máu, chất
lượng của đội ngũ hỗ trợ.
4. Giải thích và cung cấp đầy đủ thông
tin
cho người bệnh về điều trị nội khoa và điều trị ngoại khoa, điều trị ngắn hạn
và điều trị dài hạn, Người bệnh cần ký cam kết bản đồng thuận điều trị.
5. Đặt sonde JJ đối với các
UXCTC to, UXCTC có gây
biến chứng chèn ép niệu quản, thận ứ nước.
Tất cả bệnh nhân có UXCTC to gây
biến chứng chèn ép niệu quản, thận ứ nước trên siêu âm nên được chụp hệ niệu
cản quang (Urographie intra
veineuse-UIV) nhằm xác
định mức độ tắc nghẽn. CT scan hoặc MRI cũng có thể là chọn lựa nếu cần khảo sát kỹ
hơn về hệ niệu, bể thận và nếu điều kiện cơ sở y tế có sẵn.
Những bệnh nhân có tắc nghẽn trên UIV mức độ
nhiều cần được đặt sonde JJ trước mổ nhằm giúp phẫu thuật viên (PTV) có thể
định vị được vị trí niệu quản một cách thuận lợi trong cuộc mổ. Trong một số
trường hợp như khi UXCTC to,
hình ảnh thận ứ nước trên siêu âm và không thực hiện được UIV vì nhiều lý
do, có thể cân nhắc đặt sonde JJ thường quy trước phẫu thuật.
Điều này rất có ích vì giúp PTV hạn
chế được biến chứng tổn thương niệu quản khi bóc những UXCTC nằm ở vị trí khó,
gần niệu quản.
Ngoài ra nếu có xảy ra biến chứng tổn thương niệu quản trong lúc mổ, PTV có thể dễ dàng
phát hiện sớm và hội chẩn bác sĩ
chuyên khoa ngoại niệu kịp thời để xử trí.
CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA
A. BÓC U XƠ CƠ TỬ CUNG
Bóc UXCTC là một lựa chọn với trường
hợp UXCTC có biến chứng nhưng mong muốn bảo tồn tử cung để mang thai.
Bằng chứng cho thầy bóc UXCTC làm tăng tỷ tệ có thai phụ nữ
< 35 tuổi có hiếm
muộn, tỷ lệ sẩy thai giảm có ý nghĩa thống kê (p < 0,001)(Machupalli và cs, 2013;
Li và cs, 1999).
Chỉ định:
- Có UXCTC nhưng người bệnh muốn giữ tử cung
để bảo tồn chức
năng mang thai (người bệnh còn mong muốn có thai).
- Bệnh nhân trẻ có xuất huyết tử cung
nặng gây thiếu máu (Milton và cs,
2019), có UXCTC làm biến dạng buồng tử cung (L0, L1, L2),
- Bệnh nhân trẻ có UXCTC gây đau vùng
chậu. (Milton và cs,
2019)
• Đau vùng chậu cấp
• Đau mạn tính vùng chậu hoặc thắt
lưng hoặc bị đè nặng vùng chậu
- UXCTC gây hiếm muộn hoặc
sẩy thai liên tiếp (Philippines Society for Reproductive Medicine, 2017).
- Bệnh nhân không muốn cắt tử
cung.
Tư vấn nguy cơ:
- Có thể cắt tử cung trong quá trình
phẫu thuật bóc UXCTC, do tổn thương quá nhiều, phức tạp.
- Khoảng 15% tái phát sau bóc UXCTC,
10% cắt tử cung sau 5-10 năm.
- Nguy cơ vỡ tử cung trong thai kỳ sau
phẫu thuật bóc UXCTC đặc biệt là những trường hợp bóc nhiều nhân xơ.
Lựa chọn ngả thực hiện bóc u xơ: Tùy thuộc
vào số lượng của
khối u, kích thước, vị trí, mức độ dính và kinh nghiệm của phẫu thuật viên mà chọn ngả
thực hiện bóc u xơ. Kiểm soát và xử trí tình trạng chảy máu trong quá trình bóc
u xơ là ưu tiên hàng
đầu để đạt kết quả tốt nhất sau phẫu thuật. (Kovac và cs, 2002).
1. Phẫu thuật nội soi
buồng tử cung cắt UXCTC
Chỉ định: Hiệp hội Phẫu Thuật
Nội Soi Phụ khoa Hoa Kỳ (American Association of Gynecologic Laparoscopists, 2012)
khuyến nghị rằng phẫu thuật nội soi buồng tử cung cắt u xơ là lựa chọn đầu tay
cho các trường hợp UXCTC dưới
niêm L0, L1, L2 có biến
chứng gây xuất huyết nặng, vô sinh, sẩy thai liên tiếp, và kích thước khối u < 5
cm.
Một nghiên cứu tại Hoa Kỳ gồm 1422
bệnh nhân ghi nhận nội soi buồng tử cung cắt u xơ L0, L1, L2 đạt kết
quả cao trong việc điều trị xuất huyết tử cung bất thường. Tuy nhiên, tỷ lệ tái
phát từ 14,5 - 30% sau 3 - 4 năm. Một nghiên cứu tiến cứu khác cũng tại Hoa Kỳ
trong 3 năm cho kết quả khả quan khi 94,1% người bệnh đã kiểm soát được xuất
huyết tử cung bất thường. Tương tự theo tác giả Piecak và Milart, 2017,
phẫu thuật cắt bỏ UXCTC dưới niêm mạc giúp cải thiện tình trạng mang thai.
Phẫu thuật viên có kinh nghiệm sẽ thực
hiện được việc cắt UXCTC dưới niêm (L0, L1, L2) có kích thước 4 - 5 cm qua nội soi buồng tử
cung. Cắt UXCTC dưới
niêm L2 có nhiều khả năng thực hiện phẫu thuật 2 thì so với L0, L1 vì nguy cơ
hấp thụ dịch cao và thủng tử cung trong phẫu thuật. Cần thận trọng khi u xơ
dưới niêm cách lớp thanh mạc tử cung dưới 5 mm (Puri K và cs, 2014).
Tai biến:
- Chảy máu: Trong phẫu
thuật nội soi cắt đốt u xơ L0, L1, L2, tỷ lệ
chảy máu khoảng 0,1 - 6,0%, sử dụng bóng sonde Foley bơm 30 ml nước muối sinh
lý có hiệu quả cầm máu (Piecak và Milart, 2017)
- Tổn thương tử cung: nguy cơ chít
hẹp cổ tử cung, thủng tử cung thường trong xẩy ra trong thì nong cổ tử cung,
thủng tử cung trong thì cắt đốt có thể gây tổn thương ruột, bàng quang và các
mạch máu lân cận (Piecak
và Milart, 2017)
- Dính buồng tử cung: Là biến
chứng thường gặp trong phẫu thuật nội soi buồng tử cung cắt đốt UXCTC L0, L1, L2. Tỷ lệ
dính buồng tử cung sau phẫu thuật 35-45% được báo cáo nếu sử dụng
năng lượng đơn cực nhưng nếu sử dụng năng lượng lưỡng cực thì tỷ lệ này giảm
xuống còn 7,5% (Roy và cs, 2017). Hiện nay tại Việt Nam, một số bệnh viện đã
sử dụng
bộ
đốt lưỡng cực trong nội soi phụ khoa.
Một số phương pháp chống
dính buồng tử cung sau phẫu thuật, được cho hiệu quả thấp như đặt dụng cụ tử
cung, liệu pháp hormone, trong khi các phương pháp có hiệu quả chống dính buồng
tử cung tốt hơn như sử dụng bóng của ống thông Foley, gel hyaluronic.
Khuyến cáo nên sử dụng phương pháp chống dính trong khoảng 6-8 tuần sau phẫu thuật
(Piecak và Milart, 2017).
- Nếu cuộc mổ khó, kéo dài, cần bơm nhiều dịch
vào buồng tử cung, có thể gây ra tăng tái hấp thụ dịch dẫn đến quá tải tuần
hoàn, phù phổi cấp, phù não cấp. Nếu sử dụng dung dịch glycine mà truyền quá
nhiều sẽ gây mất
cân bằng điện giải (hạ natri máu, hạ protein
máu và hematocrit thấp) gây buồn
nôn, nôn, nhức đầu và lú lẫn (Piecak và Milart, 2017).
2. Mổ hở thành bụng
bóc UXCTC
Chỉ định:
- Nhiều nhân xơ, to, trong cơ tử cung
ở vị trí L2 đến L7.
- UXCTC có biến chứng nặng, không điều
trị được bằng nội khoa.
- Bệnh nhân muốn bảo tồn tử cung hoặc
đang mong con.
Trong quá trình phẫu thuật, cần giảm
lượng máu mất bằng cách tiêm vasopressin hoặc các chất khác (xem
phần các thuốc làm giảm
chảy máu trong bóc UXCTC).
Tỷ lệ vỡ tử cung, mổ lấy thai thấp hơn
so với phẫu thuật nội soi ổ bụng bóc u xơ.
Có thể bóc nhân xơ ngả bụng bằng đường
rạch nhỏ < 8 cm nếu các khối u không quá to.
Phẫu thuật bóc UXCTC ngả bụng bằng
đường rạch nhỏ là một lựa chọn nhằm giảm sự xâm lấn trên người bệnh có UXCTC
lớn và nhiều khối.
Đường rạch da < 8 cm, cho phép phẫu
thuật viên có thể sờ nắn các
khối u xơ nằm
trong cơ tử cung và quá trình khâu phục hồi các lớp cơ của tử cung theo 3 lớp
tiêu chuẩn dễ dàng hơn.
Tai biến trong trong phẫu thuật thường là
mất máu nhiều nên cần dự trù máu cùng nhóm.
Tai biến sau phẫu thuật
- Chảy máu trong vết khâu sau
bóc nhân xơ nếu không khâu phục hồi cơ tử cung kỹ.
- Nhiễm trùng, nhất là khi có tụ máu
nơi khâu phục hồi cơ tử cung.
- Vỡ tử cung trong lần mang thai sau,
chiếm tỉ lệ 0 - 4%.
- Dò bàng quang-âm đạo-trực tràng, tổn
thương niệu quản.
3. Phẫu thuật nội soi
ổ bụng bóc nhân xơ (mức độ chứng cứ: mạnh)
Chỉ định:
- UXCTC dưới thanh mạc và trong cơ có
biến chứng.
- Kích thước nhỏ hơn 10cm.
Tai biến trong phẫu thuật
- Chảy máu nhiều, thời gian phẫu thuật
kéo dài.
- Đối với các nhân xơ to sau khi được
bóc bằng nội soi, không thể lấy khối u ra khỏi ổ bụng qua đường rạch nội soi
rất nhỏ, nhiều phẫu thuật viên đã sử dụng máy bào lấy mô. Tuy nhiên, sử dụng
máy bào lấy mô UXCTC có
nhiều điểm không thuận lợi như thời gian gây mê kéo dài, khả năng khối u đã hóa
ác tính (sarcoma). Bào khối u
có thể làm rơi vãi các tế bào ung thư
trong ổ bụng gây di căn cho bệnh nhân (Wong và cs, 2018) tổng kết 33723
trường hợp UXCTC ở Trung Quốc được bóc qua nội soi ổ bụng, có sử dụng máy bào điện. Trong
số này có 62 ca u đã hóa ác tính (0,18%) do giải phẫu bệnh lý xác nhận. Do đó,
nếu sử dụng máy bào thì phải đặt khối u vào trong bao.
- Tổn thương ruột - bàng quang - các
mạch máu lớn do đâm
Trocar là biến chứng do lỗi kỹ thuật của phẫu thuật viên và thường ít khi gặp
(Piecak và Milart, 2017).
- Thuyên tắc khí là một biến
chứng hết sức nguy hiểm. Phẫu thuật viên và bác sĩ gây mê phải theo dõi sát và
phát hiện sớm thuyên tắc khí nếu có xảy ra để điều trị kịp thời (Piecak và
Milart, 2017).
Tai biến sau phẫu thuật
- Chảy máu sau mổ.
- Nhiễm trùng: viêm nội mạc tử cung
trong thời gian hậu phẫu chiếm tỷ lệ 1-5%, nhiễm trùng cơ tử cung, nhiễm trùng
vùng chậu dẫn đến cắt tử cung. Kháng sinh dự phòng có thể có hiệu quả để giảm
thiểu tỷ lệ nhiễm trùng sau mổ.
- Vỡ tử cung trong thai kỳ lần sau: dao
động từ 0 - 10%.
Theo dõi sau bóc nhân xơ
- Tái khám định kỳ:
• 1 tháng sau mổ.
• Mỗi 6 - 12 tháng tái khám 1 lần.
- Theo dõi có thai tự nhiên không? Nếu
chưa có thai sau mổ 6-12 tháng, cân nhắc tư vấn cho bệnh nhân phương pháp TTTON
sau khi khám lâm
sàng và kiểm tra buồng tử cung.
- Mổ lấy thai chủ động sau bóc nhân
xơ.
4. Phẫu thuật bóc
nhân xơ cơ tử cung ngả âm đạo (mức độ chứng cứ: yếu)
Phẫu thuật bóc u xơ cơ tử cung ngả âm
đạo, không rạch da là một phẫu thuật khó, chỉ nên được thực hiện đối với UXCTC
nhỏ, nằm ở vị trí thuận lợi (cùng đồ sau). Phẫu thuật này đòi hỏi phẫu thuật viên phải
có kỹ năng cao và nhiều kinh nghiệm.
B. CẮT TỬ CUNG DO U XƠ CƠ TỬ CUNG
Phẫu thuật cắt tử cung và hai ống dẫn
trứng là phương pháp điều trị tận gốc UXCTC có biến chứng. Cắt tử cung
hiện nay là phẫu thuật thường gặp, chỉ đứng sau mổ lấy thai tại các
bệnh viện chuyên ngành Sản Phụ khoa (Blandon và cs, 2007).
Chỉ định
- Nghi ngờ UXCTC thoái
hóa ác tính.
- Đa nhân xơ cơ TC, không còn mô lành,
không thể bóc được.
- Trong khi bóc UXCTC mà không kiểm
soát được tình trạng chảy máu.
- Phụ nữ lớn tuổi và đủ con.
- Có bệnh lý kèm theo như bệnh
tuyến-cơ tử cung hoặc bệnh lý cổ tử cung.
Nếu cuộc mổ khó khăn, có thể cắt tử
cung bán phần và hai ống dẫn trứng.
- Nên cắt 2 buồng trứng nếu
bệnh nhân trên 50 tuổi. Tuy nhiên, cần sự đồng thuận của bệnh nhân bằng văn
bản.
Tư vấn
- Các nguy cơ và tai biến của phẫu
thuật cắt tử cung như tổn thương đường tiết niệu, ruột nếu dính nhiều.
- Phẫu thuật cắt tử cung có thể gây ra
mãn kinh sớm khoảng 2-3 năm.
- Cắt tử cung có thể làm thay đổi cấu
trúc sàn chậu (mất nút trung
tâm đáy chậu tự nhiên nên có thể gia tăng tỷ lệ sa tạng chậu
sau mổ, thường bắt đầu 5 năm sau mổ. Giảm Libido, rối loạn chức năng tâm lý (có thể trầm
cảm) (Blandon và
cs, 2007; Ewalds-Kvist và cs, 2005).
- Các thủ thuật thay thế phẫu thuật:
lợi ích và nguy cơ.
1. Phẫu thuật cắt tử cung qua mổ hở ngả bụng
Chỉ định: khi UXCTC quá lớn,
lan tỏa, nhiều nhân, hoặc các trường hợp chống chỉ định phẫu thuật cắt tử cung
ngả âm đạo hoặc nội soi ổ bụng.
2. Phẫu thuật nội soi ổ bụng cắt tử
cung
Chỉ định: thực hiện
trên tử cung có kích thước < 14 tuần và không dính.
Là lựa chọn tốt hơn so với phẫu
thuật hở cắt tử cung
ngả bụng do chất lượng sống tốt hơn và
giảm biến chứng hậu phẫu. Tuy nhiên, để thực hiện loại phẫu thuật này, cần phải
đánh giá cẩn thận kích thước tử cung, cũng như kinh nghiệm, kỹ năng của phẫu
thuật viên và trang thiết bị nội soi của bệnh viện để có chỉ định phù hợp. Có
thể thực hiện trên người bệnh chưa từng có thai, chưa sanh ngả âm đạo hoặc đã
có phẫu thuật ngả bụng trước đó, nếu không dính nhiều vùng chậu, Phục hồi nhu
động ruột sớm trong thời gian hậu phẫu.
Tai biến trong phẫu thuật:
- Thuyên tắc khí.
- Tổn thương ruột, bàng quang, mạch
máu lớn do lỗi đâm trocar.
- Tổn thương niệu quản.
Tai biến sau phẫu
thuật:
- Nhiễm trùng.
- Dò âm đạo-trực tràng, bàng quang-âm
dạo, niệu quản-âm đạo.
3. Phẫu thuật cắt tử cung ngả âm đạo
Đây là phương pháp ít xâm lấn và chi
phí rẻ nhất. Tuy nhiên, tương tự như phẫu thuật bóc UXCTC ngả âm đạo, đây là
một phẫu thuật khó thực hiện, nhiều nguy cơ biến chứng như chảy máu nhiều, sa
tạng chậu, tổn thương niệu quản. Phẫu thuật này đòi hỏi phẫu thuật viên phải có kỹ năng
và nhiều kinh nghiệm. Cần theo dõi sát tình trạng bệnh nhân sau mổ ở cơ sở y tế có đủ
trang thiết bị kỹ thuật theo dõi để phát hiện sớm các biến chứng về niệu khoa (bí tiểu, tổn
thương niệu quản), chảy máu sau mổ. Có thể cắt tử cung có UXCTC ngả âm đạo với
sự trợ giúp của nội soi ổ bụng.
Hiện nay, đã có phẫu thuật nội soi cắt
tử cung được áp dụng rộng rãi và hiệu quả, do đó bác sĩ lựa chọn cắt tử cung
ngả âm đạo cần cân nhắc kỹ nguy cơ và biến chứng có thể xảy ra.
GIẢM MẤT MÁU TRONG BÓC UXCTC
Vasopressin: Là một loại
thuốc được ưa chuộng trong phẫu thuật phụ khoa. Sử dụng 30 - 40 ml dung dịch
vasopressin truyền trong mổ được chứng minh là có hiệu quả giảm lượng máu mất
(p=0,0001) và nhu cầu truyền máu trong phẫu thuật bóc UXCTC, mặc dù không có sự
khác biệt có ý nghĩa về việc làm giảm thời gian phẫu thuật và biến chứng hậu
phẫu (Kongnyuy và cs, 2011; Ginsburg và cs, 1993; Fletcher và cs, 1996; Zhao và
cs, 2011).
Misoprostol: Đặt trực
tràng 400 μg trước phẫu thuật cắt tử cung ngả bụng 1 giờ làm giảm lượng máu mất và thời
gian phẫu thuật so với nhóm chứng (574 ± 194,8 ml vs 874 ± 171,5 ml), thêm nửa
lượng Hemoglobin giảm trong thời gian hậu phẫu thấp hơn so với nhóm chứng
(Abdel-Hafeez và cs, 2015).
Oxytocin: tăng sự co
hồi cơ tử cung dẫn đến giảm dòng máu tới tử cung làm giảm tình trạng chảy máu
trong quá trình phẫu thuật. Sử dụng oxytocin phối hợp với misoprostol (một
trong những yếu tố gây co cơ tử cung) trong phẫu thuật cắt tử cung ngả âm đạo
có hỗ trợ của nội soi ổ bụng được cho là có hiệu quả giảm lượng máu mất, thời
gian phẫu thuật ngắn hơn và giảm thời gian nằm viện.
Liều sử dụng 30 đơn vị pha trong 500
ml dung dịch Natri Chlorua 0,9% truyền
tĩnh mạch cho thấy giảm thể tích máu mất so với nhóm chứng có ý nghĩa thống kê.
Nhu cầu cần truyền máu thấp hơn ở nhóm truyền Oxytocin có ý nghĩa thống kê, tỷ lệ
truyền máu ở nhóm có truyền Oxytocin là 7,5% và nhóm không truyền Oxytocin là
25% (P < 0,001).
Antifibrinolytics: Tranexamic
acid đã cho thấy hiệu quả trong việc cầm máu và giảm tỷ lệ truyền máu trong
phẫu thuật, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). Với liều 1g tiêm/truyền
tĩnh mạch làm giảm lượng
máu mất trong phẫu thuật cắt tử cung (p = 0,004), giảm lượng máu
mất > 500 ml (p = 0,003)
và giảm tỷ lệ phải phẫu thuật lại do biến chứng xuất huyết nội
(p = 0,034) (Topsoee và cs, 2016).
Chương X
CÁC
THỦ THUẬT THAY THẾ PHẪU THUẬT
THUYÊN TẮC ĐỘNG MẠCH TỬ CUNG
(UTERINE ARTERY EMBOLISATION - UAE)
Thuyên tắc động mạch tử cung (nút mạch
tử cung) là thủ thuật ít xâm lấn trong điều trị UXCTC, giúp bảo tồn tử cung và
bệnh nhân nhanh chóng
hồi phục. Phương pháp điều trị thực hiện bằng cách tiêm các hạt nhỏ vào mạch
máu đến tử cung, mục đích chặn việc cung cấp máu cho u xơ để giảm triệu chứng
và giảm kích thước của UXCTC.
Có bằng chứng cho thấy thuyên tắc động
mạch tử cung có hiệu quả giảm triệu chứng ngắn và trung hạn một cách đáng kể:
- Giảm 43% khối lượng u xơ sau 2 tháng
và 59% sau 6 tháng (Burn và cs, 2000).
- Giảm triệu chứng 80% trong số 1387
bệnh nhân trong khoảng thời gian 24 tháng.
- Cải thiện đáng kể cuộc sống trong
vòng 3 năm theo dõi (p < 0,001) (Linden, 2012).
UAE có hiệu quả trong điều trị hội
chứng chèn ép và cường kinh tuy nhiên thiếu hiệu quả trong điều trị UXCTC dưới
niêm và xuất huyết tử
cung bất thường
(Laughlin và Stewart,
2011; Telner và Jakubovicz, 2007).
Chống chỉ định: Mong con, khối u nghi
ngờ ác tính, mãn kinh, nhân xơ cơ tử cung có cuống, nhân xơ cơ tử cung dưới
niêm mạc (Smeets và cs, 2010).
Các biến chứng được ghi nhận bao gồm:
Nhồi máu tử
cung, tổn thương bàng quang và âm hộ, tổn thương buồng trứng, hội chứng sau tắc
mạch (Post-embolization
syndrome), đau, tăng tiết dịch âm đạo, mãn kinh sớm (Linden, 2012).
Sau 5 năm điều trị tỉ lệ tái phát là
10 - 20% (cao hơn UXCTC dưới niêm) và cần được điều trị lại hoặc phẫu thuật (Memtsa
và Homer, 2012). Tuy UAE tốn ít phí thực hiện hơn so với phẫu thuật
nhưng sau đó cần theo dõi sát hơn, cân nhiều khảo sát hình ảnh, và thời gian
theo dõi sau thủ thuật dài hơn (The REST Investigators, 2007).
Bệnh nhân cần được tư vấn
về nguy cơ thất bại điều trị, nguy cơ tái phát và cần can thiệp
bổ sung. Phương pháp UAE không phải là lựa chọn đầu tay cho các phụ nữ đang
mong con.
TIÊU HỦY UXCTC BẰNG
NHIỆT
MRI - Guided Focused
Ultrasound (MRgFUS) hay High-Intensity Focused Ultrasound (HIFU) là
phương pháp tập trung các chùm siêu âm năng lượng cao vào một mô đích, biến
thành nhiệt năng.
Nếu nhiệt độ tại mô mục tiêu lớn hơn
55°C thì sẽ làm
biến đổi protein mô đích khiến chết tế bào và hoại tử (Hindley và cs, 2004).
Các mô xung quanh có thể bị ảnh hưởng ấm lên nhưng không bị hoại tử do nhiệt.
Chỉ định:
- Bệnh nhân có UXCTC mong muốn bảo tồn
tử cung.
- Bệnh nhân không muốn phẫu thuật bóc
nhân xơ cổ điển.
Chống chỉ định: Mang thai,
đường kính u xơ lớn hơn 10cm,
Hct < 25%, cân nặng trên 113 kg, bệnh lý tim mạch (Hindley và cs,
2004; LeBlang
và cs, 2010),
sẹo mổ cũ trên đường đi của tia siêu âm, u xơ cơ tử cung vị trí khó tiếp cận,
bệnh nhân có chống chỉ định với MRI có cản quang hay siêu âm có cản quang.
Nhược điểm: Khó xác định chính
xác được mục tiêu đích (Tempany và cs, 2003), khó đánh giá hiệu quả nhiệt lên
cơ quan đích do hạn chế của siêu âm trong đánh giá hiệu quả nhiệt
Bệnh nhân nhanh chóng hồi phục sau 24
đến 48 giờ
(LeBlang và cs, 2010). Hiệu quả giảm kích thước khối u xơ cơ tử cung phụ thuộc
vào thể tích tưới máu sau khi điều trị bằng tiêu hủy UXCTC bằng nhiệt. Theo
Zhang, thì có thể giảm kích thước khối u hơn 90,1%, giảm rõ rệt triệu
chứng kinh nguyệt (Zhang và cs, 2010).
Yêu cầu: Hướng của siêu âm từ
thành bụng trước đến u xơ cơ tử cung không đi qua bàng quang và ruột, khoảng
cách từ thanh mạc đến u xơ đích lớn hơn 15 mm(LeBlang và cs, 2010). Các
bệnh nhân có dụng cụ tử cung phải được lấy ra trước thủ thuật (Ren và cs, 2007;
Wang và cs, 2012).
Tác dụng phụ: Vết bỏng da
nhỏ, rát da, mụn nước thành bụng trước (Tempany và cs, 2003; Wang và cs, 2012).
Bệnh nhân cần được tư vấn trước về thiếu dữ liệu an toàn về khả năng có thai và
mang thai sau điều trị MRgFUS, nguy cơ vỡ tử cung khi mang thai, nguy cơ tái
phát.
TIÊU HỦY UXCTC BẰNG SÓNG CAO TẦN
(Radiofrequency Myolysis)
Là phương pháp mới trong điều trị UXCTC. UXCTC
thường được điều trị thu nhỏ kích thước trước thủ thuật bằng GnRH đồng vận (Goldfarb,
2008). Hiện nay tại Việt Nam, thủ thuật đã được bước đầu triển khai tại bệnh
viện Từ Dũ.
Chương XI
CHUẨN
BỊ BỆNH NHÂN TRƯỚC PHẪU THUẬT
CHUẨN BỊ TRƯỚC MỔ
Hỏi kỹ bệnh sử và tiền căn bệnh nhân
và gia đình dị ứng thuốc (tê, mê) hay thức ăn,
thuốc đang dùng, có ngưng thở khi ngủ không, nghiện rượu hay thuốc, bệnh: phổi,
tim, gan, thận, tuyến giáp, đái tháo đường cao huyết áp... (Hilditch và cs,
2008)
Tư vấn các nguy cơ của phẫu thuật cắt
tử cung, bóc UXCTC (nội soi, mở bụng) và nội soi cắt nhân xơ TC dưới niêm mạc,
nguy cơ tái phát khi bóc và nguy cơ vỡ tử cung khi có thai (xem điều trị phẫu
thuật UXCTC).
Ký cam kết phẫu thuật
1. Xét nghiệm thường quy: (O'Neill và
cs, 2016)
- Công thức máu, nhóm máu,
Hemoglobin/Hct. Thời gian prothrombin (PT), thời gian activated partial thromboplastin
(aPTT).
- Xét nghiệm HbsAg, giang mai và HIV (sau khi tư vấn và bệnh
nhân đồng
ý).
- Đường huyết.
- Chức năng gan.
- Chức năng thận creatinine/ huyết
thanh
- Bệnh nhân trong tuổi sinh đẻ nên
được thử β-hCG. (O'Neill và cs, 2016)
- Tổng phân tích nước
tiểu.
- X quang phổi.
- Điện giải đồ: không cần xét nghiệm
thường quy trừ khi bệnh nhân có tiền căn bất thường.
- ECG không cần xét nghiệm thường quy ở
bệnh nhân không có triệu chứng hay bệnh lý tim mạch (ACC/AHA)
- Phết tế bào cổ tử cung (PAP) hoặc
soi cổ tử cung nếu chưa có kết quả PAP.
2. Chẩn đoán hình ảnh: Siêu âm để
xác định số lượng kích thước và vị trí của UXCTC.
Siêu âm bụng để xác định thận có ứ
nước không.
Siêu âm bơm nước buồng tử cung
nếu nhân xơ L0, L1, L2.
MRI giúp tránh bỏ sót khi bóc nhân xơ
cơ tử cung, phân biệt với bệnh tuyến- cơ tử cung (adenomyosis) và sarcoma tử
cung, giúp phân biệt L0-3.
3. Nạo sinh thiết: bệnh nhân xuất huyết tử cung
bất thường có nguy cơ tăng sinh nội mạc tử cung hay ung thư nên được nạo sinh
thiết và có GPB
trước phẫu thuật.
4. Điều trị trước phẫu thuật:
GnRH đồng vận làm giảm kích thước khối
u giúp phẫu thuật nội soi tránh mở bụng. Giảm mất máu (xem điều trị nội khoa). Ulipristal
acetat (UPA) có thể được
sử dụng để giảm thể tích khối u và tử cung, cải thiện tình trạng thiếu máu của
bệnh nhân (xem điều trị nội khoa).
Dự phòng thuyên tắc mạch hoặc thuyên
tắc phổi nếu cuộc mổ kéo dài hơn 30 phút ở bệnh nhân có nguy cơ trung bình hay
cao. (thrombophilia, ung thư, đặt catheter TM trung tâm, có thai, dùng thuốc
viên ngừa thai hay nội tiết thay thế, dùng tamoxifen, suy tim, bệnh tim bẩm sinh,
hội chứng antiphospholipid, béo phì, suy gan, thận, bệnh viêm ruột, > 65
tuổi...). Quyết định dùng hay không dựa vào lợi ích và nguy cơ chảy máu khi
phẫu thuật (Gould và cs,
2012).
Thiếu máu do thiếu sắt: nên điều chỉnh
thiếu máu trước phẫu thuật bằng truyền sắt, không nên truyền máu trước mổ.
5. Chuẩn bị đại tràng: không cần
thiết trừ trường hợp có nguy cơ tổn thương ruột khi phẫu thuật (Fanning và Valea, 2011).
6. Tháo bỏ hết tất cả nữ trang hay
khuyên đeo ở mũi, lưỡi,
miệng.
Nếu
nội
soi buồng tử cung nên lấy DCTC trước mổ. Bệnh nhân nên tắm đêm hôm trước phẫu
thuật, tốt nhất bằng dung dịch chlohexidine gluconate (“Top CDC
Recommendations to Prevent Healthcare-Associated Infections”).
TRONG PHÒNG MỔ
Kháng sinh dự phòng: cefazolin,
cefoxitin hay cefotetan 2 gr tiêm TM trước phẫu thuật 60 phút. Có thể dùng kháng
sinh thay thế ampicillin -
subactam 2gr
TM
hay Clindamycin 900 mg TM hay Vancomycin 2 gTM (American College of
Obstetricians and Gynecologists
practice bulletin no. 104, 2009).
Bác sĩ phẫu thuật viên: nên khám
vùng chậu trước khi phẫu thuật.
Đặt sonde JJ trong các trường hợp
có chỉ định (xem bài xử trí ngoại khoa UXCTC)
Chuẩn bị vùng phẫu thuật: (American
College of Obstetricians and Gynecologists practice bulletin no. 195, 2018,
Pellegrini và cs, 2017) ngăn nhiễm trùng vị trí phẫu thuật bằng chlohexidine
gluconate 4% với 70% isopropyl alcohol tốt hơn là povidone-iodine và iodone - alcohol
(Darouiche và cs, 2010). Chuẩn bị âm đạo: bằng povidone-iodine nếu dị ứng sẽ
dùng chlorhexidine gluconate 4% (Chlor sẽ không hiệu quả khi ra huyết âm đạo).
Ngay trước khi phẫu thuật:
- Thực hiện kiểm tra tên tuổi bệnh
nhân trước mổ.
- Đánh dấu vị trí phẫu thuật (phải bảo
đảm vẫn còn nhìn thấy sau khi sát trùng và trải săng mổ.
- Time-out ngay trước khi phẫu thuật
để xác định đúng bệnh nhân, phương pháp phẫu thuật, vị trí phẫu thuật, dự kiến
thời gian và các phương pháp ngăn ngừa biến chứng. (The Joint Commission on
Accreditation of Healthcare Organizations protocol for surgical time-out, 2017)
(Time-out = kỹ thuật viên dụng cụ
phòng mổ đọc tên, năm
sinh, siêu âm, chỉ định mổ, cách mổ cho cả đội phẫu thuật viên, gây mê hồi sức
và bệnh nhân cùng nghe).
Chương XII
U
XƠ CƠ TỬ CUNG VÀ HIẾM MUỘN
UXCTC là loại khối u thường gặp nhất, xuất
hiện ở 20 - 40% phụ nữ trong độ
tuổi sinh sản và ở 5 - 10% phụ
nữ hiếm muộn (Cook và cs,
2010). Ảnh hưởng
của UXCTC lên khả năng sinh sản luôn là vấn đề được quan tâm nhưng chưa được
hiểu biết rõ ràng. UXCTC đơn
thuần không phải là nguyên nhân tuyệt đối gây hiếm muộn, nhiều bệnh nhân có
UXCTC vẫn có thai mà không cần can thiệp. Tuy nhiên, một số dạng UXCTC có liên
quan đến tình trạng hiếm muộn như dưới niêm mạc hay trong cơ tử cung mà có gây
biến dạng lòng
tử cung làm giảm tỷ lệ thai, tỷ lệ trẻ sinh sống, tăng nguy cơ sẩy thai diễn
tiến và sinh non. UXCTC dưới thanh mạc không làm ảnh hưởng tới khả năng sinh sản (Pritts và cs,
2009; Sunkara và cs, 2010).
XỬ TRÍ UXCTC Ở BỆNH NHÂN HIẾM MUỘN
1. Khảo sát toàn diện các yếu tố liên
quan đến hiếm muộn trước
khi quyết định can thiệp UXCTC.
2. Bệnh nhân có UXCTC có triệu chứng
lâm sàng: can thiệp UXCTC nên gần với thời điểm mong muốn có thai (>6-12
tháng) để giảm khả
năng tái phát của UXCTC.
3. Siêu âm đánh giá kỹ UXCTC về vị trí, kích
thước và số lượng.
4. Quyết định can thiệp tùy theo vị
trí, kích thước của UXCTC và xem xét quá trình điều trị hiếm muộn của bệnh nhân
- UXCTC dưới niêm mạc (FIGO L0, L1, L2) gây biến
dạng lòng tử cung làm giảm khả năng có thai.
• UXCTC (FIGO L0, L1, L2): nội soi
buồng tử cung bóc UXCTC dưới niêm trước khi điều trị hỗ trợ sinh sản.
• UXCTC (FIGO L2), nếu
kích thước UXCTC > 3 cm: nội soi ổ bụng để bóc UXCTC.
• Cần tư vấn cho bệnh nhân các nguy cơ liên quan đến tổn thương
lòng tử cung, dính lòng tử cung trước tiến hành phẫu thuật. Nguy cơ dính lòng
tử cung sau nội soi buồng tử cung khoảng 7,5% (Valle và cs, 1988).
- UXCTC trong cơ tử cung (FIGO L3-5)
• Kích thước UXCTC > 4 cm hay UXCTC < 4
cm nhưng thất bại chuyển phôi nhiều chu kỳ thụ tinh ống nghiệm mặc dù phôi tốt
hay kết cục thai kỳ xấu (sẩy thai,
sinh non): Bóc
UXCTC (nội soi hay mổ mở) (Oliveira và cs, 2004; Kolankaya và cs,
2006).
- UXCTC có kích thước to, vị trí cản trở
quá trình chọc hút để điều trị thụ tinh ống nghiệm có thể được xem xét
bóc trước khi điều
trị. Nếu vị trí không gây cản trở việc chọc hút trứng và bệnh nhân trên 35
tuổi, cân nhắc kích thích buồng trứng, tạo phôi, trữ phôi toàn bộ rồi bóc nhân xơ
và chờ 1 năm sau chuyển phôi.
- Các biện pháp điều trị thay thế:
• Áp dụng cho các trường hợp:
o UXCTC (FIGO L3-5) kích
thước < 4 cm ở bệnh nhân thất bại nhiều chu kỳ thụ tinh ống nghiệm
nhiều chu kỳ và bệnh nhân không muốn mổ bóc UXCTC.
o UXCTC có liên quan kết cục thai kỳ
xấu.
o Phẫu thuật UXCTC tiên
lượng
thành
công kém như đa UXCTC, nguy cơ tổn thương lòng tử cung, dính buồng tử cung.
• Điều trị thay thế:
o Nội khoa: Ulispristal
Acetate (UPA). UPA là một chất điều hòa thụ thể progesterone có chọn
lọc. Trong các nghiên cứu giai đoạn 3 để phát triển UPA, có 21 bệnh nhân đang
trong thời gian thử nghiệm, mong con; 15 trong số này đã có thai
18 lần (15/21 = 71%). Trong số đó, 12 người đã sinh 13 cháu, khỏe mạnh, bình
thường còn 6 lần có thai kia đã bị sẩy thai (Luyckx và cs, 2014).
Kỹ thuật MRgFUS (kỹ thuật điều trị UXCTC bằng
năng lượng sóng siêu âm tần số cao) cũng có thể được áp dụng với các trường hợp có UXCTC nhỏ.
Tuy nhiên, các bằng chứng tới hiện tại trong y văn chưa ủng hộ việc sử dụng thường
quy MRgFUS trong điều trị UXCTC ở phụ nữ mong muốn duy trì hoặc cải thiện khả năng
sinh sản.
KẾT LUẬN
UXCTC đơn thuần không là nguyên nhân
tuyệt đối gây hiếm muộn. Một số dạng UXCTC có liên quan đến tình trạng hiếm muộn. Xử trí UXCTC ở bệnh
nhân hiếm muộn cần xem xét toàn diện các nguyên nhân gây hiếm muộn và quyết
định can thiệp UXCTC dựa vào tuổi bệnh nhân, vị trí, kích thước, số lượng nhân
xơ và quá trình điều trị hiếm muộn của bệnh nhân.
Chương XIII
U
XƠ CƠ TỬ CUNG TRONG THAI KỲ
MỞ ĐẦU
Tỉ lệ mới mắc UXCTC trong thai kỳ ước
tính dao động từ 2,7% ở những thai phụ phát hiện trên siêu âm tam cá nguyệt
hai, 12,5% trên những thai phụ điều trị thụ tinh trong ống nghiệm và có thể lên
đến 25% ở những thai
phụ xin trứng (Lee và cs, 2010).
Tỉ lệ mới mắc của UXCTC tăng
theo tuổi nên tỉ lệ thai phụ có
UXCTC cũng tăng theo tuổi và tiền sử
thai sản. Hiện tại chưa có dữ liệu về tỉ lệ hiện mắc UXCTC trong thai kỳ ở các vùng
trên thế giới. Nhưng tỉ lệ đó được nhận thấy là tùy thuộc vào độ tuổi, thời điểm
siêu âm và chủng tộc.
ẢNH HƯỞNG CỦA THAI KỲ LÊN UXCTC
UXCTC thường tăng kích thước từ tam cá
nguyệt một đến hai, nhưng có xu hướng nhỏ đi đáng kể từ tam cá nguyệt ba đến
lúc sinh.
Sự tăng trưởng của UXCTC phụ thuộc vào
các hormones steroids. Estrogen là hormone chính trong thai kỳ làm tăng kích
thước của UXCTC do UX có nhiều
thụ thể nội tiết hơn với estrogen. Tuy nhiên gần đây, có bằng chứng cho thấy sự
phát triển của UXCTC cũng có lệ thuộc vào progesterone, trong đó thụ thể PR-B
có tác dụng làm tăng kích thước UXCTC, thụ thể PR-A không làm thay đổi kích
thước UXCTC. Đa số các
nghiên cứu cho thấy UXCTC vẫn không thay đổi kích thước khi có thai (Aharoni và
cs, 1988; Lev-Toaff và cs, 1987; Muram và cs, 1980; Neiger và cs,
2006; Rosati và cs, 1992; Strobelt và cs, 1994; Winer- Muram và cs, 1983).
Thậm chí, UXCTC có hiện tượng nhỏ đi tự nhiên trên 80% phụ nữ trong 6 tháng đầu
hậu sản (Laughlin và cs, 2011). Những nghiên cứu gần đây cũng cho thấy kích
thước UXCTC ổn định trong thai kỳ (tăng giảm < 10% thể tích) trong 50 - 60% trường
hợp, tăng lên trong 22 - 32% và giảm đi ở 8 - 27% thai phụ (Aharoni và cs,
1988; Lev-Toaff và cs, 1987; Rosati và cs, 1992).
Sự giảm kích thước UXCTC trong thai kỳ
có liên quan đến sự thiếu máu nuôi ở lớp nội mạc và cơ tử cung khi gần sinh. Sự
thiếu máu nuôi này vẫn tiếp tục hiện diện trong giai đoạn hậu sản, bao gồm cả
sự tái cấu trúc của hệ thống mạch máu tử cung (Aharoni và cs, 1988; Ciavattini
và cs, 2016; Lev-Toaff và cs, 1987; Rosati và cs, 1992).
ẢNH HƯỞNG CỦA UXCTC LÊN THAI KỲ
Sẩy thai
Trong tam cá nguyệt một, biến chứng
thường gặp nhất là sẩy thai, số lượng cũng như vị trí UXCTC là yếu tố tiên
lượng trong sẩy thai. Các UXCTC ở vị trí L0, L1, L2 theo phân loại FIGO thì có nguy cơ gây
sẩy thai cao hơn so với các vị trí khác. Sự hiện diện nhiều UXCTC trong cơ
(L4-5) có thể không gây sẩy thai. Trong tam cá nguyệt hai, hầu hết các nghiên
cứu không cho thấy biến cố bất
lợi sản khoa nào đáng chú ý (Benson và cs, 2001).
Sinh non
Một trong những nguyên nhân gây ra các
kết cục bất lợi cho sơ sinh trên thai phụ có UXCTC chính là sinh non. Một
nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu cho thấy tỉ lệ sinh
non cao hơn ở những thai phụ có UXCTC, đặc biệt là nhóm có UXCTC > 3 cm
(19,2% vs 12,7%, p < 0.001) (Lai và
cs, 2012). Thời điểm sinh trung bình ở các sản phụ không có UXCTC, có UXCTC ≤ 5 cm và có
UXCTC > 5 cm lần lượt là 38,6, 38,4 và 36,5 tuần, khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (Shavell và cs, 2012). Bên cạnh đó, sản phụ có UXCTC dưới niêm < 3
cm có nguy cơ sinh non tăng thêm 7% (OR 1,5; KTC 95%, 1,3-1,7) (Klatsky và cs,
2008). Ngoài ra, phụ nữ có nhiều UXCTC khi mang thai cũng có nguy cơ sinh non
cao hơn.
Ngôi bất thường
Ngôi thai bất thường cũng khá thường
gặp trong UXCTC. Những
UXCTC to dưới niêm làm biến dạng lòng tử cung hoặc u xơ nằm ở đoạn dưới có mối liên hệ đến
tình trạng ngôi bất thường (OR 2,9; KTC 95% 2,6-3,2) (Klatsky và cs, 2008). Một
nghiên cứu trên 72000 thai kỳ đơn thai từ năm 1990 đến 2007 cho thấy tỉ lệ thai ngôi
mông tăng lên đáng kể ở nhóm thai kỳ
có UXCTC (OR 1,5; KTC 95% 1,3-1,9) (Stout và cs, 2010). Một vài nghiên cứu khác
cho thấy các yếu tố như đa UXCTC, UXCTC nằm sau bánh nhau hoặc đoạn dưới tử
cung, UXCTC to > 10 cm làm tăng tỉ lệ ngôi thai bất thường (Lev-Toaff và cs,
1987; Qidwai và cs, 2006; Rice và cs, 1989; Worthen và Gonzalez, 1984).
Thai chậm tăng trưởng
UXCTC ảnh hưởng rất ít và gần như không ảnh
hưởng đến sự tăng trưởng của thai (OR 1,4; KTC 95% 1,1-1,7) (Exacoustòs và
Rosati, 1993; Lev-Toaff và cs, 1987; Rice và cs, 1989; Shavell và cs, 2012). Tuy
nhiên những UXCTC to với thể tích > 200 ml có thể liên quan đến cân nặng trẻ sơ sinh
nhỏ so với tuổi thai (< bách phân vị 10 của tuổi thai lúc sinh) (Rosati và
cs, 1992). UXCTC nằm tại vị trí bánh nhau cũng có liên quan đến thai chậm
tăng trưởng do làm giảm tuần hoàn tử cung nhau thai.
Ối vỡ non
Đa số nghiên cứu không ghi nhận sự
liên quan giữa UXCTC và ối vỡ non.
Nhiều nghiên cứu cho thấy UXCTC làm
tăng nguy cơ nhau bong non, đặc biệt là những UXCTC nằm tại vị trí sau bánh
nhau.
TRIỆU CHỨNG UXCTC TRONG THAI KỲ
Đa số các UXCTC không có triệu chứng
trong thai kỳ. Một số trường hợp
có thể gặp triệu chứng đau do UXCTC thoái hóa, đi kèm sốt, buồn nôn, nôn,
bạch cầu tăng (Katz và cs,
1989). Tần suất
đau có mối liên hệ với kích thước và thường gặp ở những thai phụ có UXCTC >
5 cm (Exacoustòs và Rosati, 1993; Rice
và cs, 1989). Đau thường xuất hiện ở cuối tam cá nguyệt một và đầu tam cá
nguyệt hai, lúc UXCTC ở kích thước lớn nhất và có nguy cơ hoại tử nhất, Hoại tử
vô trùng UXCTC không do thoái hóa trong thai kỳ thường rất đau, điều trị để giữ
thai đến đủ tháng rất khó. Đau trên thai phụ có UXCTC còn được lý giải là do sự
thuyên tắc một phần các mạch máu nuôi u xơ khi tử cung phát triển to dần trong
thai kỳ (Parker, 2007).
ĐIỀU TRỊ VÀ THEO DÕI
Phụ nữ mang thai có UXCTC gây ra triệu
chứng đau có thể cần phải nhập viện để được điều trị phù hợp.
Điều trị hỗ trợ và giảm đau
acetaminophen là can thiệp ban đầu. Những thuốc giảm đau opioid với liều chuẩn
hoặc giảm đau non-steroids kéo dài trong 48 giờ có thể được dùng nếu như các
biện pháp giảm đau khác không hiệu quả. Giảm đau với ibuprofen (indomethacin)
chỉ nên được sử dụng đối với những thai nhỏ hơn 32 tuần do nguy cơ có thể làm
đóng ống động mạch sớm, làm tăng áp phổi sơ sinh, đa ối, và thậm chí là rối
loạn chức năng tiểu cầu cho thai (Dildy và cs, 1992).
Mổ lấy thai (MLT) trên thai phụ có
UXCTC chỉ nên thực hiện khi có chỉ định sản khoa (UXCTC tiền đạo) hoặc chỉ định
liên quan đến thai (ngôi bất thường, CD ngưng tiến triển, thai suy cấp).
Không nên phẫu thuật bóc UXCTC trong
MLT một cách thường quy. Cần đánh giá
kỹ nguy cơ - lợi ích cũng như cân nhắc kỹ năng và kinh nghiệm của phẫu thuật
viên, lượng máu dự trù, số lượng, vị trí và kích thước của UXCTC.
Không có sự liên quan giữa phẫu thuật
bóc UXCTC trong MLT với những kết cục bất lợi lâu dài.
Những UXCTC nằm ở thành trước đoạn
dưới tử cung có tiên lượng mổ lấy thai khó hơn u xơ nằm ở các vị trí khác. UXCTC nằm thấp
đoạn dưới có khả năng gây bế sản dịch sau mổ dẫn đến biến chứng viêm nội mạc tử
cung nếu không được xử trí kịp thời. Do đó có thể cân nhắc bóc nhân xơ khi mổ
lấy thai. Hậu sản hay hậu phẫu mổ lấy thai ở những bệnh nhân có UXCTC đoạn
dưới, cần đánh giá sản dịch mỗi ngày về lượng, tính chất (màu, mùi) và khám âm
đạo, cổ tử cung, đánh giá sinh hiệu để phát hiện kịp thời dấu hiệu bế sản dịch.
Nếu có hiện tượng bế sản dịch, cần nong cổ tử cung để xử trí.
Bóc UXCTC ở vị trí thành trước đoạn
dưới tử cung, UXCTC có cuống, dưới thanh mạc (L5-6-7) trong cuộc MLT không liên
quan đến các yếu tố bất lợi quanh
phẫu thuật và được xem là an toàn.
Ở những bệnh nhân đã từng bóc UXCTC
đoạn dưới tử cung trong lúc MLT, có thể cho thử sinh ngả âm đạo ở những lần
mang thai kế, nhưng phải theo dõi rất
sát.
Chương XIV
NHỮNG
ĐIỀU CẦN GHI NHỚ VỀ XỬ TRÍ U XƠ CƠ TỬ CUNG
UXCTC là khối u vùng chậu lành tính thường gặp
nhất ở phụ nữ.
Yếu tố nguy cơ gồm: chủng
tộc da đen, tuổi, tình trạng tiền mãn kinh, cao huyết áp, bệnh sử gia đình,
thời gian kể từ lần sinh trước dài (hơn 5 năm), phụ gia thực phẩm
và sữa đậu nành. Yếu tố giảm nguy cơ
gồm hút thuốc lá, chỉ số khối cơ thể thấp, đa sản, dùng thuốc viên ngừa thai
hay DMPA.
Bệnh lý UXCTC không được hiểu rõ tuy nhiên
nội tiết steroids đóng vai trò then chốt. Trong đó thụ thể progesterone đóng
vai trò quyết định trong sự phát triển của UXCTC.
Đa số không có triệu chứng lâm sàng.
Phân loại UXCTC theo FIGO góp phần giải thích
triệu chứng mà khối u gây ra cũng như ảnh hưởng đến phương pháp và kết quả điều
trị. U xơ dưới niêm
mạc thường được phân loại theo STEP-w.
Cần chẩn đoán phân biệt với bệnh tuyến-cơ tử
cung (adenomyosis) và sarcoma cơ trơn tử cung (leiomyosarcoma), xuất huyết tử
cung bất thường và khối u vùng chậu như u buồng trứng.
Biến chứng thường gặp của UXCTC là xuất huyết tử
cung bất thường, thoái hóa, đau và chèn ép. Biến chứng hiếm gặp gồm thuyên tắc
mạch, suy thận, xuất huyết trong phúc mạc, huyết khối tĩnh mạch mạc treo ruột
và thoái hóa mủ. Thoái hóa ác rất hiếm.
Siêu âm là phương pháp đầu tay giúp
chẩn đoán UXCTC và phân biệt với bệnh tuyến-cơ tử cung (adenomyosis). MRI là phương
pháp chẩn đoán hình ảnh chính xác nhất cho phát hiện, vị trí và phân loại khối
u. CT giá trị thấp do không phân định được u với niêm mạc hay cơ tử cung. Siêu
âm bơm nước lòng tử cung được đề nghị cho u xơ dưới niêm mạc. Siêu âm 3 D và
nội soi buồng tử cung giá trị giới hạn trong chẩn đoán. Siêu âm màu
không giúp phân biệt u lành hay ác.
ĐIỀU TRỊ
Phụ nữ không có triệu chứng: cần theo
dõi cẩn thận sự phát triển của u
Nên theo dõi định kỳ mỗi năm trừ
trường hợp UXCTC gây thận
ứ nước mức độ trung bình hay nặng, hoặc u xơ dưới niêm mạc và muốn có thai.
Phụ nữ mãn kinh: phần lớn sau mãn kinh
khối u sẽ thoái triển, tuy nhiên phụ nữ béo phì và dùng nội tiết thay thế u xơ
sẽ không nhỏ đi.
Nên loại trừ sarcoma ở phụ nữ mãn kinh
khi có u vùng chậu lớn nhanh hay mới xuất hiện. Tần suất sarcoma là 1-2% ở phụ
nữ mãn kinh nếu u to nhanh, hay mới xuất hiện, ra huyết âm đạo bất thường hay
đau vùng chậu.
Điều trị nội khoa UXCTC
Điều trị giảm chảy
máu nhiều và giảm kích thước khối u
Gồm kháng viêm non-steroids, thuốc
viên ngừa thai kết hợp, Letrozole, Carbegoline, Progesterone và chất điều hòa
chọn lọc thụ thể estrogen: qua các nghiên cứu RCT cho mức độ chứng cứ thấp.
RCT cho thấy LNG-IUS giảm mất
máu và giảm kích thước khối u so với thuốc viên ngừa thai kết hợp tuy nhiên mẫu nhỏ
(n=58).
Dùng GnRH đồng vận trước phẫu thuật là có
hiệu quả hơn so với
progesterone uống và LNG-IUS trong cường kinh nặng và giảm kích thước UXCTC.
Hầu hết các UXCTC sẽ
phát triển trở lại ngay khi ngưng GnRH. Nếu điều trị GnRH kéo dài hơn 6 tháng
sẽ gây thiếu hụt estrogen và progesterone.
Chất điều hòa chọn lọc thụ thể
progesterone (SPRM): hiệu quả điều
trị giảm xuất huyết nặng và giảm kích thước khối UXCTC. So với GnRH, điều trị
với SPRM ít tác dụng phụ hơn và cho hiệu quả kéo dài hơn. SPRM gây biến đổi nội
mạc tử cung nhưng sẽ hồi phục hoàn toàn sau điều trị.
Điều trị phẫu thuật
UXCTC có triệu chứng
Điều trị phẫu thuật UXCTC cần phải
được tư vấn đầy đủ và ký
cam kết, lựa chọn phương pháp phẫu thuật dựa trên nhu cầu sức khỏe của bệnh
nhân. Trong bối cảnh có nhiều tiến bộ trong điều trị nội khoa và mối quan ngại
về tăng nguy cơ mãn kinh sớm 2-3 năm trên phụ nữ cắt tử cung chừa 1-2 buồng
trứng, chỉ định phẫu thuật cần được cân nhắc thực hiện trên từng đối tượng
cụ thể.
Các phẫu thuật gồm bóc nhân xơ cơ tử
cung (nội soi, mở
bụng) cắt tử cung (nội soi, mở
bụng), nội soi buồng tử
cung cắt nhân xơ. Lựa chọn loại phẫu thuật tùy thuộc vào: triệu chứng, vị trí
kích thước số lượng nhân
xơ, tuổi, số con và mong
muốn có thai trong tương lai, tùy thuộc vào phẫu thuật viên và trang thiết bị của bệnh
viện.
Bóc u xơ cơ tử cung
Ở người muốn bảo tồn tử cung chỉ định
bóc UXCTC cho trường hợp u xơ có biến chứng gây chảy máu nặng, đau, chèn ép, vô
sinh và sẩy thai tái phát. Phụ nữ nên được tham vấn về nguy cơ cắt tử cung
trong lúc phẫu thuật. Khoảng 15% u xơ sẽ tái phát và khoảng 10% u xơ tái phát
phải mổ lại cắt tử cung 5- 10 năm sau khi phẫu thuật.
Mở bụng nên thực hiện đối với những u
xơ lớn. Có thể mở bụng với đường rạch da nhỏ cho những u xơ lớn hay đa u
xơ. Nội soi bóc nhân xơ nên thực hiện ở những khối u xơ dưới thanh mạc hay
trong cơ. Có thể kết hợp nội soi bóc nhân xơ và mở bụng nhỏ trong những ca
UXCTC lớn và nhiều nhân. Robot trợ giúp nội soi bóc nhân xơ cho đến nay không
thấy có lợi so với chỉ nội soi.
Nội soi buồng tử cung là chọn lựa đầu
tiên cho bóc nhân xơ trong buồng tử cung.
Bóc nhân xơ qua ngả âm đạo có thể thực hiện ở
những nhân xơ nằm ở cùng đồ sau.
Nguy cơ vỡ tử cung ở thai phụ có
tiền căn mổ bóc UXCTC. Nguy cơ 0-4% nếu mở bụng 0-10% nếu nội soi bóc u. Tránh
đốt nhiều và khâu nhiều lớp khi bóc nhân xơ để giảm nguy cơ vỡ tử cung khi có
thai. Hiện nay máy bào không nên sử dụng khi bóc nhân xơ nội soi do nguy cơ làm
rơi vãi tế bào ung thư, ổ bụng bệnh
nhân không được biết là ung thư tử cung. Nên lấy u trong bao.
Cắt tử cung
Cắt tử cung là điều trị triệt để cho những trường
hợp UCTC có biến chứng. Chỉ định: UXCTC không có triệu chứng nhưng to ở phụ nữ
mãn kinh không dùng nội tiết thay thế. UXCTC gây xuất huyết mà điều
trị nội khoa thất bại, UXCTC có triệu chứng nặng, đủ con, mong muốn được điều
trị triệt để.
Điều trị thay thế phẫu thuật
Thuyên tắc động mạch tử cung (Nút mạch
tử cung - UAE) có thể cân nhắc thay cho phẫu thuật ở phụ nữ UXCTC có biến
chứng nhưng không còn muốn duy trì khả
năng sinh sản. Tuy nhiên hiệu quả của phương pháp này không cao.
UAE chống chỉ định ở UXCTC có cuống,
dưới niêm mạc, kích thước u quá lớn, có tiền căn thắt động mạch hạ vị và chưa
có con. Sau UAE có 14,4% cần phải can thiệp thêm như mổ cắt tử cung, bóc nhân
xơ.
Cho đến nay bằng chứng yếu về hiệu quả
của siêu âm tần số cao dưới
hướng dẫn của MRI trong điều trị UXCTC.
UXCTC dưới niêm
GnRH và SPRM hiệu quả giảm chảy máu ở phụ nữ trong
tuổi sinh sản có nhân xơ dưới niêm (bằng chứng mạnh).
Leuprolide và SPRM trước
phẫu thuật nội soi cho hiệu quả cải thiện kết cuộc phẫu thuật, nhưng hiện nay chưa
có bằng chứng dùng
thường quy trước nội soi buồng tử cung cắt nhân xơ dưới niêm mạc.
Nội soi buồng tử cung hiệu quả trong
cắt UXCTC dưới niêm, cân nhắc nội soi bụng hay mở bụng trong trường hợp phức tạp
UXCTC kích thước > 4cm). Nội soi buồng tử cung cắt nhân xơ sẽ làm tăng tỷ lệ
có thai ở phụ nữ vô sinh.
Các phương pháp làm chín muồi cổ tử
cung như laminaria,
prostaglandin E1 làm giảm thời
gian phẫu thuật nội soi buồng tử cung.
Chuẩn bị phẫu thuật
Trước phẫu thuật các GnRH và SPRM làm
cải thiện kết cuộc phẫu thuật, chất ức chế aromatase, thảo dược không có bằng
chứng có lợi, Danazol có hại (chứng cứ mạnh).
Trong phẫu thuật: tiêm vasopressin
giảm chảy máu khi bóc u (bằng chứng mạnh). Bằng chứng yếu khi tiêm
bupivacain kết hợp
epinephrine, tranexamic acid,
dinoprostone, buột quanh cổ tử cung hay quanh cổ tử cung và dây chằng rộng để
giảm chảy máu khi bóc nhân xơ. Oxytocine, kẹp động mạch tử cung tạm thời không
có hiệu quả giảm mất máu.
Tránh dính: không có hiệu quả.
UXCTC và hiếm muộn
UXCTC ảnh hưởng xấu lên khả năng sinh
sản do yếu tố cơ học và sinh học. Nên nội soi buồng tử cung cắt nhân
xơ dưới niêm để làm tăng tỷ lệ có thai. Chưa đủ bằng chứng bóc u xơ kích thước
lớn trong cơ sẽ tăng tỷ lệ có thai.
Nếu bệnh nhân làm thụ tinh trong ống
nghiệm thất bại nên cân nhắc bóc UXCTC. UXCTC dưới thanh mạc không ảnh hưởng đến vô
sinh. UXCTC dưới niêm và gây biến dạng lòng tử cung gây sẩy thai liên tiếp và
thất bại làm tổ nhiều lần
nên được phẫu thuật.
UXCTC và thai
Tần suất khoảng 2,7%. Thường to lên
trong tam cá nguyệt 1 và 2 của thai kỳ, thoái triển ở tam cá nguyệt 3 hay hậu
sản.
UXCTC có thể gây sinh non, ối vỡ
non, nhau tiền đạo, nhau bong non, thai chậm phát triển trong tử cung, thai
chết, băng huyết sau sinh, ngôi bất thường, chuyển dạ kéo dài.
Không nên bóc nhân xơ thường quy khi
mổ lấy thai ở thai phụ có nhân xơ cơ tử cung, cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ,
khả năng mất máu, trình
độ và kinh nghiệm của phẫu thuật viên, vị trí kích thước của u xơ và lựa chọn
của bệnh nhân.
TÓM TẮT HƯỚNG
DẪN THỰC HÀNH LÂM SÀNG XỬ TRÍ U XƠ CƠ TỬ CUNG (UXCTC)
- Chủ yếu là u lành tính của tử cung,
tỷ lệ thoái hóa ác tính rất thấp (# 0,16 - 0,28%).
- Tiến triển thường chậm, lặng lẽ, qua
nhiều năm, không triệu chứng; nếu u to nhanh, nhất là ở tuổi quanh mãn kinh hoặc sau
mãn kinh, (khoảng từ 40 đến 60), cần nghĩ ngay đến thoái hóa ác tính.
- U phụ thuộc vào hormones sinh dục, estrogens,
progesterone, và testosterone.
- U có thể gây ra nhiều biến chứng nặng, thường gặp
nhất do vị trí các khối u, là xuất huyết tử cung bất thường (XHTCBT) và các
triệu chứng do chèn ép các cơ quan lân cận. UXCTC có thể có ảnh hưởng đến thai kỳ, hiếm
muộn, sẩy thai và sẩy thai liên tiếp.
- FIGO (Hiệp hội Sản Phụ Khoa Quốc tế) đưa ra
bảng phân loại mới, năm 2011, đã được đồng thuận sử dụng trên toàn cầu, dựa trên
vị trí và số lượng khối u.
- Chẩn đoán dựa vào triệu chứng lâm sàng và
siêu âm đầu dò âm đạo, siêu âm ngả bụng, siêu âm có bơm nước, siêu âm Doppler.
Đôi khi, để chẩn đoán phân biệt, cần có cộng hưởng từ (MRI).
- Điều trị:
• Xu hướng hiện nay là giảm bớt chỉ
định phẫu thuật cắt tử cung, kể cả bóc nhân xơ vì đã có nhiều loại thuốc
giúp điều trị nội khoa rất hiệu quả.
• Nếu u không có triệu chứng: không điều
trị mà chỉ cần theo dõi các triệu chứng XHTCBT và triệu chứng chèn ép. Đối với
phụ nữ tuổi mãn kinh cần theo dõi
tiến triển sang ác tính, nhất là khi u to nhanh. Hướng dẫn bệnh nhân khám phụ
khoa định kỳ 6 - 12 tháng một lần, mỗi lần gặp, nên hỏi và đánh giá kỹ các triệu
chứng lâm sàng, siêu âm theo dõi sự phát triển của khối u.
• Nếu u có triệu chứng
XHTCBT nặng hoặc chèn ép nặng, nhất là ở
người đã lớn tuổi, có đủ con, nên cân nhắc chỉ định phẫu thuật sau khi tư vấn kỹ về
các thuận lợi và nguy cơ của từng biện pháp điều trị và để bệnh nhân tự
lựa chọn, có cam kết bằng văn bản. Nếu có UXCTC loại L0, L1, L2: điều
trị nội khoa để chấm dứt xuất huyết, tiến hành nội soi buồng tử cung, cắt các
khối u. Nếu bệnh
nhân chưa cần có thai ngay, có thể đặt dụng cụ tử cung có chứa progestin (levonorgestrel)
để ngăn chặn dính buồng tử cung và tái phát triệu chứng.
• Nếu các triệu
chứng không nặng: có thể điều
trị nội khoa ngay, kể cả các trường hợp đa nhân xơ hay nhân xơ to, loại L3.
CÁC THUỐC CÓ THỂ SỬ DỤNG TRONG ĐIỀU
TRỊ NỘI KHOA UXCTC
1. Tranexamic acid chống ly giải
fibrin. Có thể sử dụng:
- Đường uống: viên Transamin 250 mg
hoặc 500 mg, 1viên x 3 lần mỗi ngày
đến khi ngưng xuất huyết. Liều tối đa: 750 mg- 2000 mg/24giờ.
- Hoặc đường tiêm (ống thuốc có
hàm lượng 250 mg hoặc 500 mg/5mL): 250 - 500 mg/ngày tiêm bắp hay tĩnh mạch,
dùng 1 - 2 lần/ngày trước khi mổ hoặc nếu xuất huyết trong hay sau phẫu thuật
500 -1000 mg/lần tiêm tĩnh mạch hoặc 500 - 2500 mg pha trong 500 mL dung dịch
glucose 5% hay dung dịch có chất điện giải, truyền nhỏ giọt tĩnh mạch 24 giờ.
- Cẩn thận trên bệnh nhân đang điều
trị huyết khối tĩnh mạch,
suy thận hay quá mẫn với thuốc.
2. Thuốc viên nội tiết kết hợp tránh
thai
(TVNTKHTT) có thể sử dụng nhưng hiệu quả thường chậm.
3. Các loại Progestins, uống hay đặt
trong dụng cụ tử cung (LNG-IUS - vòng Mirena), hiện nay ít sử dụng vì sợi cơ
của UXCTC có nhiều thụ thể progesterone cũng như estrogens nên có thể làm u to
lên. Vòng Mirena có thể được sử dụng sau khi điều trị ngưng XHTCBT.
4. GnRH đồng vận ức chế tuyến yên chế tiết
FSH và LH sau tiêm khoảng 7 - 10 ngày (do tác dụng flare-up ngay
sau tiêm). Do ức chế nội tiết nên giảm các hormones steroids ở buồng trứng,
khối UXCTC giảm thể tích, giảm
xuất huyết tử cung. Khi ngưng thuốc, khối u to trở lại cùng với các triệu
chứng. Liều sử dụng: Zoladex 3,6 mg hoặc Dipherelin 3,75 mg mỗi ống, tiêm dưới
da hoặc tiêm bắp, 4 tuần một lần. Có thể tiêm tối đa 6 lần vì các tác
dụng phụ gây triệu chứng giống mãn kinh và làm giảm mật độ xương. Có thể sử
dụng GnRH đồng vận 3 tháng, ngưng khoảng 2 tuần trước mổ.
5. Thuốc điều hòa
thụ thể progesterone
có chọn lọc (SPRMs):
- Mifepristone: (sử đụng
off-label để điều
trị UXCTC), chủ
yếu gắn vào thụ thể PR-A nên có thể làm giảm thể tích khối u và tử cung khoảng
50% sau 3 tháng và cũng làm ngưng XHTCBT. Liều sử dụng: có thể 5-10 mg, uống mỗi ngày
một viên đến khi ngưng xuất huyết. Mifepristone có thể gây dày NMTC, nhưng
không phải là tăng sản hay
ung thư. Cần theo dõi
độ dày NMTC trong khi uống. Do cơ chế tác dụng là ức chế nội tiết nên khi ngưng
sử dụng, có tái phát.
- Ulipristal acetate
(UPA):
Cơ chế tác dụng là làm tăng chết tế bào theo lập trình (apoptosis) và làm giảm
mô nền trong khối u nên ít tái phát sau khi ngưng thuốc. UPA không có tác dụng
trên sợi cơ bình thường của khối u, không ức chế trục hạ đồi-tuyến yên-buồng
trứng nên không gây triệu chứng mãn kinh như GnRH đồng vận. Uống UPA 5 mg, một viên
mỗi ngày có thể
làm ngưng XHTCBT trên 91% bệnh nhân và làm ngưng xuất huyết sau 10 ngày điều
trị trên 50% bệnh nhân, kích thước khối u giảm 25% sau 13 tuần.
Cách sử dụng UPA:
• Khám và xét nghiệm toàn diện, chú ý
chức năng gan trước khi cho sử dụng UPA. Nếu AST và/hoặc ALT tăng gấp 2 lần giá trị cao
bình thường, không cho sử dụng.
• Uống UPA 5 mg, mỗi ngày 1 viên x 3 tháng một
đợt. Trong khi điều
trị, xét nghiệm chức năng gan mỗi tháng một lần, nếu AST và/hoặc
ALT tăng gấp 2 lần, ngưng sử dụng. Sau 13 tuần, ngưng sử dụng và xét nghiệm lại
chức năng gan
khoảng
2 -3 tuần sau.
• Nếu chức năng gan vẫn bình thường,
cho uống tiếp đợt 2 sau khi nghỉ thuốc 2 tháng, liều lượng và theo dõi như trên.
• Nếu cần thiết, có thể ho uống đến 4-8
đợt, hai đợt cách nhau 2 tháng.
• Những đợt sau, chỉ xét nghiệm trước
và sau mỗi đợt điều trị.
Tác dụng phụ UPA: nhức đầu,
đau bụng, căng ngực, làm dày NMTC nhưng không phải tăng sản hay ung thư. Có thể liên quan
đến tổn thương gan nhưng chưa đủ chứng cứ, tỷ lệ 8/765000 bệnh nhân đã và đang
sử dụng. Sau điều trị, bệnh nhân có thể có thai tự nhiên hay hỗ trợ. UPA có thể
giảm chỉ định phẫu thuật cắt tử cung trước điều trị UPA.
Điều trị nội khoa UXCTC bằng UPA
là một biện pháp:
• Có thể sử dụng trước phẫu
thuật làm nhỏ khối u và tử cung, cải thiện tình trạng thiếu máu.
• Có thể sử dụng lâu dài.
• Có thể thay thế phẫu thuật, nhất là
cho phụ nữ sắp mãn kinh hoặc mong muốn có con, đáp ứng nguyện vọng giữ tử cung
một cách an toàn cho hầu hết bệnh
nhân.
ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA UXCTC
Một số trường hợp có thể vẫn cần chỉ
định điều trị ngoại khoa: phẫu thuật bóc nhân xơ tử cung hoặc cắt tử cung:
1. Bóc nhân xơ tử cung: đối với
những phụ nữ
- Có UXCTC có biến chứng nhưng vẫn
muốn giữ TC mà điều trị nội khoa không thành công hoặc tiên lượng khó thành
công vì u to, nhiều nhân, muốn được điều trị nhanh để mang thai.
- Có UXCTC gây hiếm muộn hoặc sẩy thai liên
tiếp, thường là khối u nằm trong buồng TC hoặc dưới niêm mạc TC (L0, L1, L2).
- Bệnh nhân trẻ, có UXCTC gây XHTCBT nặng,
thiếu máu và/hoặc làm biến dạng buồng
TC, hoặc gây đau vùng chậu không thể chịu đựng thêm.
2. Cắt tử cung và hai ống dẫn trứng: đối với
những phụ nữ
- Có UXCTC nghi ngờ thoái
hóa ác tính.
- Có quá nhiều nhân xơ, dự kiến còn
rất ít hoặc không còn mô lành sau khi bóc hết nhân xơ.
- Trong khi bóc nhân xơ mà không kiểm
soát được chảy máu.
- Phụ nữ lớn tuổi đã có đủ con.
- Có bệnh lý kèm theo như lạc NMTC
nặng, hoặc có bệnh lý cổ TC.
- Nếu khi mổ cắt TC quá khó vì TC dính
nhiều với ruột và các cơ quan lân cận, có thể cắt TC bán phần và 2 ống dẫn trứng.
- Đối với bệnh nhân trên 50 tuổi, cần
giải thích, cung cấp thông tin, và thảo luận trước với bệnh nhân về việc nên
cắt 2 buồng trứng, khi bệnh nhân và gia đình có quyết định đồng ý hay không
đồng ý, nên đề nghị nêu rõ trong tờ cam kết đồng thuận.
Cần tư vấn kỹ:
- Có thể cắt TC qua mổ hở
thành bụng hay qua nội soi, đường âm đạo hay ngả bụng.
- Các nguy cơ và tai biến của từng
phương pháp.
- Cung cấp thông tin đầy đủ như, cắt
TC, dù có để lại 2 buồng trứng, vẫn có thể làm cho phụ nữ mãn kinh sớm 2-3
năm...
- Cắt 2 ống dẫn trứng kèm với cắt TC
là để giảm tỷ lệ
ung thư buồng trứng.
- Cắt TC làm thay đổi cấu trúc sàn
chậu, có thể làm gia tăng tỷ lệ sa tạng chậu sau mổ.
- Nếu bệnh nhân và gia đình không hiểu
rõ ảnh hưởng của việc cắt TC, có thể đưa đến rối loạn chức năng tâm lý, giảm libido, ảnh
hưởng hạnh phúc gia đình sau này.
3. Chọn phương pháp phẫu thuật để bóc nhân
xơ hay cắt TC: có thể bằng mổ bụng hở hay nội soi, ngả bụng hay đường âm đạo, tùy
theo các điều kiện có phẫu thuật viên được đào tạo đúng mức và nhiều kinh
nghiệm, có trang bị máy nội soi và dụng cụ đầy đủ, cơ sở có khả năng cấp cứu tốt, có đủ cơ
số máu và các thành phần của máu. Phải cân nhắc thận trọng trong tư vấn cho
bệnh nhân, giải thích và thông tin đầy đủ về thuận lợi cũng như nguy cơ, tai biến có thể có,
để bệnh nhân cùng bác sĩ chọn cách xử trí thích hợp nhất.
Tuy bệnh nhân có tham gia vào quyết
định chọn phương pháp phẫu thuật, nhưng chúng ta cần nhớ, bác sĩ phẫu thuật
viên và gây mê hồi sức vẫn là người chịu trách nhiệm chính khi có tai biến xảy
ra.
Biểu đồ 2. U xơ cơ tử cung đã chẩn đoán xác định, có siêu
âm, có triệu chứng.
Abdel-Hafeez, M., Elnaggar, A., Ali, M., Ismail, A. M.,
& Yacoub,M. (2015). Rectal
misoprostol for myomectomy: A randomised placebo-controlled study. The
Australian & New Zealand Journal of Obstetrics & Gynaecology, 55(4),
363-368. https://doi.org/10.1111/ajo.12359
Aharoni, A., Reiter, A., Golan, D.,
Paltiely, Y., &
Sharf, M. (1988). Patterns of growth of uterine leiomyomas during pregnancy. A
prospective longitudinal study. British Journal of Obstetrics and Gynaecology,
95(5), 510-513. https://doi.org/10.1111/j.1471-0528.1988.tb12807.x
Alizadeh, Z., Faramarzi,
S., Saidijam,
M., Alizamir,
T., Esna-Ashari,
F., Shabab. N., & Farimani Sanoee, M. (2013). Effect of intramural
myomectomy on endometrial HOXA10 and HOXA11 mRNA expression at the time of
implantation window. Iranian Journal of Reproductive Medicine. 11(12), 983-988.
American Association of Gynecologic
Laparoscopists (AAGL): Advancing Minimally Invasive Gynecology Worldwide.
(2012). AAGL practice report: Practice guidelines for the diagnosis and
management of submucous leiomyomas. Journal of Minimally Invasive Gynecology,
19(2), 152-171. https://doi.Org/10.1016/j.jmig.2011.09.005
American Association of Gynecologic
Laparoscopists (AAGL): Advancing
Minimally Invasive Gynecology Worldwide. (2014). AAGL practice report:
Morcellation during uterine tissue extraction. Journal of Minimally Invasive
Gynecology, 21(4), 517-530. https://doi.org/l0.l0l6/j.jmig.20l4.05.0l0
American College of Obstetricians and
Gynecologists (ACOG) Committee opinion no. 557 (2013): Management of acute
abnormal uterine bleeding in nonpregnant reproductive-aged women. Obstet
Gynecol, 121(4), 891-896. https://doi.org/10.1097/01.AOG.0000428646.67925.9a
American College of Obstetricians and
Gynecologists (ACOG) Committee on Practice Bulletins-Gynecology. (2001). ACOG
practice bulletin No. 16. Surgical alternatives to hysterectomy in the
management of leiomyomas. May 2000 (replaces educational bulletin number 192,
May 1994). International Journal of Gynaecology and obstetrics: The Official Organ
of the International Federation of Gynaecology and Obstetrics, 73(3), 285-293.
American College of Obstetricians and
Gynecologists (ACOG) Committee Opinion No 701. (2017). Obstetrics & Gynecology,
129(6), el55-el59. https://doi.org/10.l097/aog.0000000000002112
American College of Obstetricians and
Gynecologists (ACOG) Practice Bulletin No. 96: Alternatives to Hysterectomy in
the Management of Leiomyomas. (2008).
Obstetrics & Gynecology, 112(2), 387-400. https://doi.org/10.1097/AOG.0b013e318183fbab
American College of Obstetricians and
Gynecologists (ACOG) Committee on Practice Bulletins Gynecology. (2009). ACOG
practice bulletin No. 104: Antibiotic prophylaxis for gynecologic procedures. Obstetrics and
Gynecology, 113(5), 1180-1189. https://doi.org/10.1097/AOG.0b0l3e3181a6d0ll.
American College of Obstetricians and
Gynecologists (ACOG) Practice
Bulletin No. 128. (2012). Obstetrics & Gynecology, 120(1), 197-206. https://doi.org/10.1097/aog.0b013e318262e320
American College of Obstetricians and
Gynecologists (ACOG) Practice Bulletin No. 195: Prevention of Infection After
Gynecologic Procedures. (2018). Obstetrics and Gynecology, 131(6), e172-e189. https://doi.org/10.1097/AOG.0000000000002670
ASEAN clincal practise guidelines
on managing symptomatic uterine fibroids.
Bagaria, M., Suneja, A., Vaid, N. B., Guleria, K.,
& Mishra, K. (2009). Low-dose mifepristone in treatment of uterine
leiomyoma: A randomised double-blind placebo-controlled clinical trial. Aust N Z J Obstet
Gynaecol, 49(1), 77-83. https://doi.org/10.1111/j.1479-828X.2008.00931.x
Ben-Nagi, J., Miell, J.,
Mavrelos, D., Naftalin, J., Lee, C., & Jurkovic, D. (2010). Endometrial
implantation factors in women with submucous uterine fibroids. Reproductive
BioMedicine Online, 21(5), 610-615. https://doi.org/10.1016/j.rbmo.2010.06.039
Benson, C. B., Chow, J. S., Chang-Lee,
W., Hill, J.
A., & Doubilet, P. M. (2001).
Outcome of pregnancies in women with uterine leiomyomas identified by
sonography in the first trimester. Journal of Clinical Ultrasound: JCU, 29(5),
261-264. https://doi.org/10.1002/jcu.1031
Bhave Chittawar, P., Franik, S., Pouwer, A.
W., &
Farquhar, C. (2014).
Minimally invasive surgical techniques versus open myomectomy for uterine
fibroids. The Cochrane Database of Systematic Reviews, (10), CD004638.
https://doi.org/10.1002/14651858.CD004638.pub3
Blandon, R. E., Bharucha, A. E., Melton, L. J.,
Schleck, C. D., Babalola,
E.O., Zinsmeister, A. R., & Gebhart, J. B. (2007). Incidence of pelvic
floor repair after hysterectomy: A population-based cohort study. American
Journal of Obstetrics and Gynecology, 197(6), 664.e1-7. https://doi.org/10.1016/j.ajog.2007.08.064
Borah, B. J., Laughlin-Tommaso, S. K., Myers, E.
R., Yao, X., & Stewart, E. A. (2016). Association Between Patient
Characteristics and Treatment Procedure Among Patients With Uterine
Leiomyomas. Obstetrics a Gynecology, 127(1), 67-77. https://doi.org/10.1097/aog.0000000000001160
Breech LL Rook JA. (2003). Leiomyomata
uteri and myomectomy. In Te linde's operative gynecology. In Rock JA, Jones III
HW, eds (9th ed.). Philadelphia: PA: JB Lippincott Co.
Bulun, S. E. (2013). Uterine
Fibroids. New England Journal of Medicine, 369(14), 1344-1355. https://doi.org/10.1056/nejmra1209993
Burr, P. R., McCall, J. M.,
Chinn, R.
J.,
Vashisht, A., Smith, J. R., & Healy,
J. C. (2000). Uterine
Fibroleiomyoma: MR Imaging Appearances before and after Embolization of uterine
Arteries. Radiology,
214(3), 729-734.
https://doi.org/10.1148/radiology.214.3.r00fe07729
Buttram, V. C., & Reiter, R. C. (1981). Uterine
leiomyomata: Etiology, symptomatology, and management. Fertility and Sterility,
36(4), 433-445. https://doi.org/l0.1016/s0015-0282(16)45789-4
Cao, M., Qian, L., Zhang, X.,
Suo, X., Lu, Q., Zhao, H.,
... Suo, S. (2017). Monitoring
Leiomyoma Response tp Uterine Artery
Embolization Using Diffusion and Perfusion Indices from Diffusion-Weighted
Imaging. BioMed Research International, 2017. https://doi.org/10.1155/2017/3805073
Carranza-Mamane, B.,
Havelock, J., Hemmings, R., Reproductive
Endocrinology And Infertility Committee, & Special Contributor. (2015). The
management of uterine fibroids in women with otherwise unexplained infertility.
Journal of Obstetrics and Gynaecology Canada. 37(3), 277-285. https://doi.org/10.1016/S1701-2163(15)30318-2
Centers for Disease Control and
Prevention. “Top CDC
Recommendations to Prevent Healthcare-Associated Infections”. Retrieved
from https://www.cdc.gov/HAI/pdfs/hai/top-cdc-recs-factsheet.pdf.
Chabbert-Buffet, N., Esber, N.,
& Bouchard, P. (2014).
Fibroid growth and medical options for treatment. Fertil Steril, 102(3),
630-639. https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2014.07.1238
Chiaffarino, F., Parazzini, F.,
Vecchia, C., Marsico, S., Surace,
M., & Ricci, E. (1999). Use of oral contraceptives and uterine fibroids: Results
from a case-control study. BJOG: An International Journal of Obstetrics and
Gynaecology, 106(8), 857- 860. https://doi.org/10.1111/j.1471-0528.1999.tb08409.x
Ciavattini, A., Delli Carpini, G., Clemente,
N., Moriconi, L., Gentili, C., & Di Giuseppe,
J. (2016). Growth trend of small uterine fibroids and human chorionic
gonadotropin serum levels in early pregnancy: An observational study. Fertility
and Sterility, 105(5), 1255-1260. https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2016.01.032
Cook, H., Ezzati, M., Segars,
J. H., & McCarthy, K.
(2010). The impact of uterine leiomyomas on reproductive outcomes. Minerva
Ginecologica, 62(3), 225-236.
Darouiche, R. O., Wall, M.
J., Itani, K. M. F., Otterson, M.
F., Webb, A. L., Carrick, M.
M.,
...
Berger, D.
H. (2010).
Chlorhexldine-Alcohol versus Povidone-Iodine for Surgical-Site Antisepsis. New
England Journal of Medicine, 362(1), 18-26. https://doi.org/10.1056/NEJMoa0810988
Day Baird, D., Dunson, D. B, Hill, M. C., Cousins, D.,
& Schectman, J.
M. (2003). High cumulative incidence of uterine leiomyoma in black and white
women: Ultrasound evidence. American Journal of Obstetrics and Gynecology,
188(1), 100-107. https://doi.org/10.1067/mob.2003.99
De Vivo, A., Mancuso, A.,
Giacobbe, A., Maggio Savasta, L., De Dominici, R., Dugo,
N.,
...
Vaiarelli, A. (2011). Uterine myomas
during pregnancy: A longitudinal sonographic study. Ultrasound in Obstetrics
& Gynecology, 37(3), 361-365. https://doi.org/10.1002/uog.8826
DeWaay, D. (2002).
Natural history of uterine polyps and leiomyomata. Obstetrics & Gynecology,
100(1), 3-7. https://doi.org/10.1016/s0029-7844(02)02007-0
Dhamangaonkar, P. C., Anuradha,
K., & Saxena, A. (2015). Levonorgestrel intrauterine system (Mirena): An emerging
tool for conservative treatment of abnormal uterine bleeding. J Midlife Health,
6(1), 26-30. https://doi.org/10.4103/0976-7800.153615
Dildy, G. A., Moise, K. J., Smith, L. G., Kirshon,
B., & Carpenter, R. J. (1992). Indomethacin for the treatment of
symptomatic leiomyoma uteri during pregnancy. American Journal of Perinatology, 9(3),
185-189. https://doi.org/10.1055/s-2007-999317
Divakar, H. (2008). Asymptomatic uterine
fibroids. Best Practice & Research.
Clinical Obstetrics & Gynaecology, 22(4), 643-654. https://doi.org/l0.1016/j.bpobgyn.2008.01.007
Donnez, J., Tatarchuk, T. F., Bouchard, P., Puscasiu, L., Zakharenko,
N. F., Ivanova,T., ... Group, P. I. S. (2012). Ulipristal
acetate versus placebo for fibroid treatment before surgery. N Engl J Med, 366(5), 409-420. https://doi.org/10.1056/NEJMoa1103182
Donnez, Jacques, Arriagada, P., Marciniak, M., & Larrey, D. (2018).
Liver safety parameters of ulipristal acetate for the treatment of uterine fibroids: A
comprehensive review of the clinical development program. Expert Opinion on
Drug Safety, 17(12), 1225-1232. https://doi.org/10.1080/14740338.20l8.l550070
Ewalds-Kvist, S. B. M.,
Hirvonen, T., Kvist, M., Lertola, K., & Niemelă, P. (2005). Depression,
anxiety, hostility and hysterectomy. Journal of Psychosomatic Obstetrics & Gynecology,
26(3), 193-204. https://dol.org/10.1080/01443610400023163
Exacoustòs, C., & Rosati, P. (1993). Ultrasound
diagnosis of uterine myomas and complications in pregnancy. Obstetrics and
Gynecology, 82(1), 97-101.
Faivre, E., Surroca, M. M.,
Deffieux, X., Pages, F., Gervaise, A., & Fernandez, H. (2010). Vaginal
Myomectomy; Literature Review. Journal of Minimally Invasive Gynecology, 17(2),
154-160. https://doi.org/10.1016/j.jmig.2009.12.007
Fanning, J., & Valea, F. A. (2011). Perioperative
bowel management for gynecologic surgery. American Journal of Obstetrics and
Gynecology, 205(4), 309-314. https://doi.org/10.1016/j.ajog.2011.05.010
Farris, M., Bastianelli, C., Rosato, E.,
Brosens, I., & Benagiano, G. (2019). Uterine fibroids: An update on current and emerging medical
treatment options. Ther Clin Risk Manag, 15,157-178. https://doi.org/10.2l47/TCRM.S147318
Ferrero, S., Abbamonte, L., Giordano,
M., Parisi, M., Ragni, N., &
Remorgida, V. (2006). Uterine
myomas, dyspareunia, and sexual function. Fertility and Sterility, 86(5),
1504-1510. https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2006.04.025
Fleisher Lee A., Fleischmann Kirsten E., Auerbach
Andrew D., Barnason Susan A., Beckman Joshua A., Bozkurt Biykem, ...
Wijeysundera Duminda N. (2014). ACC/AHA Guideline on Perioperative
Cardiovascular Evaluation and Management of Patients Undergoing Noncardiac
Surgery: Executive Summary. Circulation, 130(24), 2215-2245. https://dol.org/10.1161/CIR.0000000000000105
Fletcher, H., Frederick, J., Hardie, M., &
Simeon, D. (1996). A
randomized comparison of vasopressin and tourniquet as hemostatic agents during
myomectomy. Obstetrics and
Gynecology, 87(6), 1014-1018.
Fletcher, H. M., Wharfe, G., Williams,
N. P.,
Gordon-Strachan, G., &
Johnson, P. (2013).
Renal impairment as a complication of uterine fibroids: A retrospective
hospital-based study. Journal of Obstetrics and Gynaecology, 33(4), 394-398.
https://doi.org/10.3109/01443615.2012.753421
Fletcher, H., Wharfe, G., Williams, N.
P.,
Gordon-Strachan, G., Pedican, M., & Brooks, A. (2009). Venous
thromboembolism as a complication of uterine fibroids: A retrospective
descriptive study. Journal of Obstetrics and Gynaecology, 29(8), 732-736. https://doi.org/10.3109/01443610903165545
Fraser, I. S., Critchley, H. O. D., Munro, M. G., & Broder, M.
(2007). A process designed to lead to international agreement on terminologies
and definitions used to describe abnormalities of menstrual bleeding*.
Fertility and Sterility, 87(3), 466-476.
https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2007.01.023
Ginsburg, E. S., Benson, C. B,,
Garfield, J. M., Gleason, R.
E., & Friedman, A. J. (1993). The effect of operative technique and uterine
site on blood loss during myomectomy: A prospective randomized study. Fertility
and sterility, 60(6), 956-962.
Glasser, M. H. (2005). Minilaparotomy
myomectomy: A minimally invasive alternative for the large fibroid uterus.
Journal of Minimally Invasive Gynecology, 12(3), 275-283, https://doi.org/10.1016/j.jmig.2005.03.009
Goldfarb, H. A. (2008).
Myolysis Revisited. JSLS : Journal of the Society of Laparoendoscopic
Surgeons, 12(4), 426-430.
Gould, M. K., Garcia, D. A., Wren, S. M.,
Karanicolas, P, J.,
Arcelus, J. I., Heit, J. A., & Samama, C. M. (2012).
Prevention of VTE in nonorthopedic surgical patients: Antithrombotic Therapy
and Prevention of Thrombosis, 9th ed: American College of Chest Physicians
Evidence-Based Clinical Practice Guidelines. Chest, 141(2 Suppl), e227S-e277S. https://doi.org/10.1378/chest.11-2297
Gurusamy, K. S., Vaughan, J., Fraser, I. S., Best, L
M., & Richards, T.
(2016). Medical Therapies for Uterine Fibroidsâ “A Systematic Review and Network Meta-Analysis
of Randomised Controlled Trials. PLoS One, 11(2), e0149631. https://doi.org/10.1371/journal.pone.0149631
Milton, S. H., Chelmow, D., Talavera, F., Rivlin, M.
E. (2019). Gynecologic Myomectomy: Background, History of the Procedure,
Problem. Retrieved from https://emedicine.medscape.com/article/267677-overview
Heavy menstrual bleeding: Assessment
and management | Guidance | NICE.
(n.d.). Retrieved August 2, 2019, from https://www.nice.org.uk/guidance/ng88
Hilditch, W. G., Asbury.
A J., Jack, E., & McGrane, S. (2003).
Validation of a pre-anaesthetic screening questionnaire. Anaesthesia, 58(9),
874-877. https://doi.org/10.1046/j.l365-2044.2003.03335.x
Hindley, J., Gedroyc, W. M., Regan, L., Stewart,
E., Tempany, C., Hynnen, K., ... Jolesz, F.
(2004). MRI Guidance of Focused Ultrasound Therapy of Uterine Fibroids:Early Results.
American Journal of Roentgenology, 183(6), 1713-1719.
https://doi.org/10.2214/ajr.l83.6.0l831713
Hodge, J. C., &
Morton, C. C. (2007).
Genetic heterogeneity among uterine leiomyomata: Insights into malignant
progression, Human Molecular Genetics, 16(R1), R7-R13.
https://doi.org/10.1093/hmg/ddm043
Islam, M. S., Protic, O.,
Giannubilo, S. R., Toti, P., Tranquilli,
A. L., Petraglia, F., ... Ciarmela,
P. (2013). Uterine
leiomyoma: Available medical treatments and new possible therapeutic options. J
Clin Endocrinol Metab, 98(3), 921-934. https://doi.org/10.1210/jc.2012-3237
Kawakam, S., Togashi,
K., Konishi, I., Kimura, I., Fukuoka, M., Mori, T., & Konishi, J.
(1994). Red Degeneration of Uterine Leiomyoma. Journal of Computer Assisted
Tomography, 18(6), 925-928. https://doi.org/10.1097/00004728-199411000-00014
Khan, A. T., Shehmar, M., & Gupta,
J. K. (2014). Uterine fibroids: Current perspectives. Int J Womens Health, 6,
95-114. https://doi.org/10.2147/IJWH.S51083
Kido, A., Ascher, S. M., Hahn, W., Kishimoto,
K., Kashitani, N., Jha, R. C., ... Spies, J. B. (2014). 3 T MRI uterine
peristalsis: Comparison of symptomatic fibroid patients versus controls.
Clinical Radiology, 69(5), 468-472. https://doi.org/10-1016/j.crad-2013.12.002
Kiley, J., & Hammond, C. (2007).
Combined oral contraceptives: A comprehensive review. Clin Obstet Gynecol,
50(4), 868-877. https://doi.org/10.1097/GRF.0b013e318159c06a
Kitaya, K., & Yasuo, T.
(2010). Leukocyte density and composition in human cycling endometrium with
uterine fibroids. Human Immunology, 71(2), 158-163. https://doi.org/10.1016/j.humimm.2009.11.014
Klatsky, P. C., Tran, N. D.,
Caughey, A. B., & Fujimoto, V.
Y. (2008).
Fibroids and reproductive outcomes: A systematic literature review from
conception to delivery. American Journal of Obstetrics and Gynecology, 198(4),
357-366. https://doi.org/10.1016/j.ajog.2007.12.039
Kolankaya, A., & Arici, A. (2006).
Myomas and Assisted Reproductive Technologies: When and How to Act? Obstetrics and
Gynecology Clinics of North America,
33(1), 145-152.
https://doi.org/10.1016/j.ogc.2005.12.008
Kongnyuy, E. J., & Wiysonge, C. S. (2011).
Interventions to reduce haemorrhage during myomectomy for fibroids. The
Cochrane Database of Systematic Reviews, (11), CD005355. https://doi.org/10.1002/14651858.CD005355.pub4
Kovac, S. R., Barhan, S., Lister, M.,
Tucker, L., Bishop, M., & Das, A.
(2002). Guidelines for the selection of the route of hysterectomy: Application
in a resident clinic population. American Journal of Obstetrics and Gynecology,
187(6) 1521-1527. https://doi.org/10.1067/mob.2002.129165
Lai, J., Caughey, A. B., Qidwai, G. I., &
Jacoby, A. F. (2012). Neonatal outcomes in women with sonographically
identified uterine leiomyomata. The Journal of Maternal-Fetal & Neonatal
Medicine: The Official
Journal of the European Association of Perinatal Medicine, the Federation of
Asia and Oceania Perinatal Societies, the International Society of Perinatal
Obstetricians, 25(6), 710-713. https://doi.org/10.3109/14767058.2011.572205
Laughlin. S. K., Baird, D. D., Savitz, D.
A., Herring, A. H., & Hartmann, K. E. (2009) Prevalence of Uterine
Leiomyomas in the First Trimester of Pregnancy. Obstetrics &
Gynecology, 113(3), 630-635. https://doi.org/10-1097/aog.0b013e318197bbaf
Laughlin, S. K.,
Hartmann, K., & Baird,
D. D. (2011). Postpartum factors and natural fibroid regression. American
Journal of Obstetrics and Gynecology, 204(6), 496.e1-6. https://doi.org/10.1016/j.ajog.2011.02.018
Laughlin, S. K.,
Herring, A. H.,
Savitz, D. A., Olshan,
A. F., Fielding, J. R., Hartmann, K. E., & Baird, D. D. (2010).
Pregnancy-related fibroid reduction. Fertility and Sterility, 94(6),
2421-2423. https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2010.03.035
Laughlin, S. K., &
Stewart, E. A. (2011). Uterine
leiomyomas: Individualizing the approach to a heterogeneous condition, Obstetrics
and Gynecology, 117(2 Pt 1), 396-403.
https://doi.org/10.1097/AOG.0b013e31820780e3
LeBlang, S. D., Hoctor, K., & Steinberg, F. L. (2010). Leiomyoma
Shrinkage After MRI-Guided Focused Ultrasound Treatment: Report of 80 Patients. American
Journal of Roentgenology, 194(1), 274-280. https://doi.org/l0.2214/ajr.09.2842
Lee, H. J., Norwitz, E.
R., & Shaw, J.
(2010). Contemporary Management of Fibroids in Pregnancy Reviews in Obstetrics
and Gynecology, 3(1), 20-27.
Lefebvre, G., Vilos, G.,
Allaire, C., Jeffrey, J., Arneja, J., Birch, C., … Clinical
Practice Gynaecology Committee, Society for Obstetricians
and Gynaecologists of Canada. (2003). The management of uterine leiomyomas.
Journal of obstetrics and Gynaecology Canada: JOGC = Journal
d'obstetrique et Gynecologie Du Canada:
JOGC, 25(5), 396-418; quiz 419-422.
Lethaby, A.,
Vollenhoven, B., & Sowter, M. (2000). Pre-operative GnRH analogue therapy before
hysterectomy or myomectomy for uterine fibroids. Cochrane Database Syst Rev,
(2), CD000547
https://doi.org/10.1002/14651858.CD000547
Letterie, G. S., Coddington, C. C., Winkel, C. A., Shawker,
T. H., Loriaux, D. L.,
& Collins, R. L. (1989). Efficacy of a gonadotropin-releasing
hormone agonist in the
treatment of uterine leiomyomata: Long-term follow-up. Fertil Steril, 51(6),
951-956. (2498132).
Lev-Toaff, A. S., Coleman, B.
G., Arger, P. H., Mintz,
M. C., Arenson, R. L., & Toaff, M. E.
(1987). Leiomyomas in pregnancy. Sonographic study. Radiology, 164(2), 375-380.
https://doi.org/10.1148/radiology.164.2.3299488
Levy, G., Dehaene, A., Laurent, N., Lernout,
M., Collinet, P., Lucot,
J.-P., … Poncelet, E.
(2013). An update on adenomyosis. Diagnostic and Interventional Imaging, 94(1),
3-25. https://doi.org/10.1016/j.diii.2012.10.012
Li, T. C., Mortimer, R., & Cooke, I. D. (1999).
Myomectomy: A retrospective study to examine reproductive performance before
and after surgery. Human
Reproduction (Oxford, England), 14(7), 1735-1740. https://doi.org/10.1093/humrep/14.7.1735
Linden, B. (2012). NICE guidance on
off-pump coronary artery bypass graftingNational Institute for Health and Clinical
Excellence (2011a) Off Pump
Coronary Artery Bypass Grafting, (Interventional Procedures Guidance 377]. Www.nice.Org.uk/guidance/IPG377
(accessed 16
December 2011). British Journal of Cardiac Nursing, 7(1), 8-9. https://doi.org/10.l2968/bjca.2012.7.1.8
Ludovisi, M., Moro, F., Pasciuto, T., Di Noi, S., Giunchi, S., Savelli. L., … Testa, A. C. (2019),
Imaging of gynecological disease: Clinical and ultrasound characteristics of
uterine sarcomas. Ultrasound in Obstetrics & Gynecology: The official Journal of
the International Society of Ultrasound in Obstetrics and Gynecology. https://doi.org/10.1002/uog.20270
Lumbiganon, P., Rugpao, S., Phandhu-fung, S.,
Laopaiboon,
M., Vudhikamraksa,
N., & Werawatakul, Y. (1996).
Protective effect of depot-medroxyprogesterone acetate on surgically treated
uterine leiomyomas: A multicentre case-control study. BJOG: An International
Journal of obstetrics and Gynaecology, 103(9), 909-914. https://doi.org/10.1111/j.l471-0528.1996.
tb09911.x
Lumsden, M. A., & Wallace, E.
M. (1998). 2 Clinical presentation of uterine fibroids. Baillière’s Clinical Obstetrics and
Gynaecology, 12(2), 177-195. https://doi.org/10.1016/s0950-3552(98)80060-6
Lurie, S., Plper, I.,
Woliovitch, I., & Glezerman, M.
(2005). Age-related prevalence of sonographicaly confirmed uterine myomas.
Journal of Obstetrics and Gynaecology, 25(1), 42-44. https://doi.org/10.1080/01443610400024583
Luyckx, M., Squifflet, J.-L., Jadoul, P., Votino,
R., Dolmans, M.-M., &
Donnez, J. (2014). First series of 18 pregnancies after ulipristal acetate
treatment for uterine fibroids. Fertility and sterility, 102(5), 1404-1409. https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2014.07.1253
Machupalli, S., Norkus, E.
P., Mukherjee,
T, K., & Reilly, K.
D. (2013). Abdominal Myomectomy Increases Fertility Outcome. Gynecology &
Obstetrics 3(2), 1-4. doi: 10.4172/2161-0932.1000144
Maruo, T., Laoag-Fernandez, J. B.,
Pakarinen, P., Murakoshi,
H., Spitz, I. M.,
& Johansson, E. (2001). Effects of the levonorgestrel-releasing
Intrauterine system on proliferation and apoptosis in the endometrium. Hum
Reprod, 16(10), 2103-2108. https://doi.org/10.1093/humrep/16.10.2103
Mas, A., Tarazona, M., Dasi Carrasco, J., Estate, G.,
Cristóbal, I., &
Monleón, J. (2017). Updated
approaches for management of uterine fibroids. International
Journal of Women’s Health, 9, 607-617. https://doi.org/10.2147/IJWH.S138982
Matsutaki, S., Canis, M.,
Darcha, C., Pouly,
J.-L., & Mage, G.
(2009). HOXA-10 expression in the
mid-secretory endometrium of infertile patients with either endometriosis, uterine
fibromas or unexplained infertility. Human Reproduction, 24(12), 3180-3187.
https://doi.org/10.1093/humrep/dep306
Mehine, M., Kaasinen, E., Mãkinen, N., Katainen, R., Kãmpjãrvi, K., Pitkãnen, E., … Aaltonen, L.
A. (2013).
Characterization of Uterine Leiomyomas by Whole-Genome Sequencing. New
England Journal of Medicine, 369(1), 43-53. https://doi.org/10.1056/nejmoa1302736
Memtsa, M., & Homer,
H. (2012).
Complications Associated with Uterine Artery Embolisation for Fibroids, Obstetrics and
Gynecology International, 2012, 1-5. https://doi.org/10.1155/2012/290542
Miura, S., Khan, K. N., Kitajima,
M., Hiraki, K.,
Moriyama, S., Masuzaki,
H., … Ishimaru, T.
(2006). Differential infiltration of macrophages and prostaglandin production by
different uterine leiomyomas. Human Reproduction, 21(10), 2545-2554, https://doi.org/10.l093/humrep/del205
Mollica, G., Pittini, L., Minganti,
E., Perri, G., & Pansini, F. (1996). Elective uterine myomectomy in
pregnant women. Clinical and Experimental Obstetrics & Gynecology, 23(3),
168-172.
Moore, A. R., Rogers, F. M.,
Dietrick, D., &
Smith, S. (2008). Extrapulmonary
Tuberculosis in Pregnancy Masquerading as a Degenerating Leiomyoma. Obstetrics
& Gynecology, 111(2, Part 2), 550-552. https://doi.org/10.1097/0l.aog.0000285482.21168.a7
Moorman, P. G., Myers, E. R.,
Schildkraut, J. M., Iversen, E, S., Wang, F., & Warren, N.
(2011). Effect of Hysterectomy With Ovarian Preservation on Ovarian Function.
Obstetrics and Gynecology, 118(6), 1271-1279. https://doi.org/10.1097/AOG.0b013e318236fdl2
Munro, M. G., Critchley, H. O. D., Broder,
M. S., &
Fraser, I. S. (2011),
FIGO classification system (PALM-COEIN) for causes of abnormal uterine bleeding in
nongravid women of reproductive age. International Journal of Gynecology & Obstetrics,
113(1), 3-13. https://doi.org/10.1016/j.ijgo.2010.11.011
Munro, M. G., Critchley, H. O. D., &
Fraser, I. S. (2011). The
FIGO classification of causes of abnormal uterine bleeding in the reproductive
years. Fertility and Sterility, 95(7), 2204-2208.e3. https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2011.03.079
Muram, D., Gillieson, M., &
Walters, J. H. (1980). Myomas of the uterus in pregnancy: Ultrasonographic
follow-up. American Journal of Obstetrics and Gynecology, 138(1),
16-19. https://dol.org/10.1016/0002-9378(80)90005-8
Murase, E., Siegelman. E. S., Outwater,
E. K.,
Perez-Jaffe, L. A., & Tureck, R. W. (1999). Uterine
Leiomyomas: Histopathologic Features, MR Imaging Findings, Differential
Diagnosis, and Treatment. RadioGraphics, 19(5), 1179-1197. https://doi.org/10.1148/radiographics.19.5.g99se131179
Myers, E. R., Barber, M. D., Gustilo-Ashby,
T., Couchman, G., Matchar, D.
B., & McCrory, D. C. (2002).
Management of uterine leiomyomata: What do we really know? Obstetrics and
Gynecology, 100(1), 8-17.
Neiger, R., Sonek, J. D., Croom, C. S., &
Ventolini, G. (2006). Pregnancy-related changes in the size of uterine
leiomyomas. The Journal of Reproductive Medicine, 51(9), 671-674.
Odejinmi, F., Oliver, R., &
Mallick, R. (2017). Is
ulipristal acetate the new drug of choice for the medical management of uterine
fibroids? Res ipsa loquitur?
Women’s Health
(London, England), 13(3),
98-105.
https://doi.org/10.1177/1745505717740218
Oliveira, F. G., Abdelmassih,
V. G., Diamond, M. P., Dozortsev,
D., Melo, N. R., & Abdelmassih, R. (2004). Impact of subserosal and intramural
uterine fibroids that do not distort the endometrial cavity on the outcome of
in vitro fertilizalion-intracytoplasmic sperm injection. Fertility and
sterility, 81(3), 582-587. https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2003.08.034
O’Neill, F., Carter, E., Pink, N., & Smith, I.
(2016). Routine
preoperative tests for elective surgery: Summary of updated NICE guidance. BMJ, i3292.
https://doi.org/10-1136/bmj.i3292
Palomba, S., Affinito, P., Di Carlo, C., Bifulco, G.,
& Nappi, C. (1999).
Long-term administration of tibolone plus gonadotropin-releasing hormone agonist for
the treatment of uterine leiomyomas: Effectiveness and effects on vasomotor
symptoms, bone mass,
and lipid profiles. Fertil Steril, 72(5), 889-895. (10560995).
Palomba, S., Orio, F., Jr.,
Morelli, M., Russo,
T., Pellicano, M., Nappi, C., ... Zullo, F.
(2002). Raloxifene administration in women treated with gonadotropin-releasing
hormone agonist for uterine leiomyomas: Effects on bone metabolism. J Clin
Endocrinol Metab, 87(10), 4476-4481.
https://doi.org/10.1210/jc.2O02-020780
Parker, W. H. (2007).
Etiology, symptomatology, and diagnosis of uterine myomas. Fertility and
Sterility, 87(4), 725-736. https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2007.01.093
Pavone, D., Clemenza, S., Sorbi, F.,
Fambrini, M., & Petraglia, F. (2018). Epidemiology and Risk Factors of Uterine
Fibroids. Best
Practice & Research Clinical Obstetrics & Gynaecology, 46, 3-11. https://doi.org/10.1016/j.bpobgyn.2017.09.004
Payson, M., Leppert, P., & Segars, J.
(2006). Epidemiology of myomas.
Obstetrics and
Gynecology Clinics of North America, 33(1), 1-11. https://doi.org/10.1016/j.ogc.2005.12.004
Peitsidis, P., &
Koukoulomati, A. (2014). Tranexamic acid for the
management of uterine fibroid tumors: A systematic review of the current evidence.
World J Clin Cases, 2(12), 893-898. https://doi.org/10.12998/wjcc.v2.i12.893
Pellegrini, J. E., Toledo, P., Soper, D. E., Bradford, W. C., Cruz, D.
A., Levy, B. S., St & Lemieux, L.
A. (2017). Consensus Bundle on Prevention of Surgical Site Infections After
Major Gynecologic Surgery. Obstetrics & Gynecology, 129(1), 50-61. https://doi.org/10.1097/aog.000000000000175l
Pérez-López, F. R., Ornat, L., Ceausu, I.,
Depypere, H., Erel, C.T., Lambrinoudaki, I., … EMAS. (2014). EMAS position
statement:
Management
of uterine fibroids. Maturitas, 79(1), 106-116. https://doi.org/10.1016/j.maturitas.20l4.06.002
Philippines Society for reproductive
medicine. Clinical Practice Guideline for Uterine Leiomyomas. (2017). Piecak, K.,
& Milart, P. (2017).
Hysteroscopic myomectomy. Menopausal Review, 16(4), 126-128. https://doi.org/10.5114/pm.2017.72757
Podasca, C., Banciu, S., Moga, M.
A., Mironescu, A., Dracea, L. L., Ples, L., & Barabas, B.
(2016). Preoperative diagnosis of adenomyosis, leiomyoma and intricate situations.
https://doi.org/10.18643/gieu.2016.126
Practice Committee of the American
Society for Reproductive Medicine (2017). Combined hormonal contraception and
the risk of venous thromboembolism: A guideline. Fertility and Sterility,
107(1), 43-51.
https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2016.09.027
Pritts, E. A., Parker, W. H., &
Olive, D. L. (2009). Fibroids and infertility: An updated systematic review of
the evidence. Fertility and Sterility, 91(4), 1215-1223. https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2008.01.051
Puri, K., Famuyide, A. O., Erwin, P. J.,
Stewart, E. A., & Laughlin-Tommaso, S. K. (2014). Submucosal fibroids and the
relation to heavy menstrual bleeding and anemia. American Journal of Obstetrics
and Gynecology, 210(1), 38.e1-38.e7. https://doi.org/10.1016/j.ajog.2013.09.038
Qidwai, G. I., Caughey, A.
B., &
Jacoby, A. F. (2006).
Obstetric outcomes in women with sonographically identified uterine leiomyomata.
Obstetrics and Gynecology, 107(2 Pt 1), 376-382. https://doi.org/10.1097/01.AOG.0000196806.25897.7c
Qiu, J., Cheng, J., Wang, Q.,
& Hua, J. (2014). Levonorgestrel-releasing intrauterine system versus medical therapy
for menorrhagia: A systematic review and meta-analysis. Med Sci Monit, 20,
1700-1713.
https://doi.org/10.12659/MSM.892126
Rackow, B. W., &
Taylor, H. S. (2010). Submucosal
uterine leiomyomas have a global effect on molecular determinants of
endometrial receptivity. Fertility and Sterility, 93(6), 2027-2034. https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2008.03.029
Ren, X.-L., Zhou, X.-D., Zhang, J., He,
G.-B., Han, Z.-H., Zheng, M.-J., … Wang, L. (2007).
Extracorporeal Ablation of Uterine Fibroids With High-Intensity Focused
Ultrasound. Journal of Ultrasound in
Medicine, 26(2), 201-212. https://doi.org/10.7863/jum.2007.26.2.201
Rice, J. P., Kay, H. H., & Mahony, B. S. (1989). The
clinical significance of uterine leiomyomas in pregnancy. American Journal of
Obstetrics and Gynecology, 160(5 Pt 1), 1212-1216. https://doi.org/10.1016/0002-9378(89)90194-4
Richards, P. (1998). The
ultrastructure of fibromyomatous myometrium and its relationship to
infertility. Human Reproduction Update, 4(5), 520-525. https://doi.org/10.l093/humupd/4.5.520
Robboy, S. J., Bentley, R. C., Butnor, K., &
Anderson, M. C. (2000). Pathology and
Pathophysiology of Uterine Smooth-Muscle Tumors. Environmental Health
Perspectives, 108(s5), 779-784. https://doi.org/10.1289/ehp.00108s5779
Rosati, P., Exacoustòs, C., &
Mancuso, S. (1992).
Longitudinal evaluation of uterine myoma growth during pregnancy. A sonographic
study. Journal of Ultrasound in Medicine: Official Journal of the American
Institute of Ultrasound in Medicine, 11(10), 511-515.
Ross, R. K., Pike, M. C., Vessey, M. P., Bull, D.,
Yeates, D., & Casagrande, J. T. (1986). Risk factors for uterine fibroids: Reduced
risk associated with oral contraceptives. Br Med J (Clin Res Ed), 293(6543),
359-362.
https://doi.org/10.1136/bmj.293.6543.359
Roy, K. K., Metta, S., Kansal, Y., Kumar, S., Singhal,
& Vanamail, P. (2017). A
Prospective Randomized Study Comparing Unipolar Versus Bipolar Hysteroscopic
Myomectomy in infertile
Women. Journal of Human Reproductive Sciences, 10(3), 185-193. https://doi.org/10.4103/jhrs.JHRS_134_16
Ryan, G. L., Syrop, C. H., &
Van Voorhis, B. J. (2005). Role, Epidemiology, and Natural History of Benign
Uterine Mass Lesions. Clinical
Obstetrics and Gynecology, 48(2), 312-324. https://doi.org/10.1097/01.grf.0000159538.27221.8c
Sciarra J, Dilts PV Jr. (1986).
Gynecology and obstetrics. Philadelphia: PA: JB Lippincott.
Selo-Ojeme, D., Lawal, O., Shah, J.,
Mandal, R., Pathak, S., Selo-Ojeme, U., &
Samuel, D. (2008). The incidence of
uterine leiomyoma and other pelvic ultrasonographic findings in 2,034
consecutive women in a north London
hospital. Journal of Obstetrics and Gynaecology, 28(4), 421-423. https://doi.org/10.1080/01443610802l49863
Shavell, V. I., Thakur, M., Sawant, A., Kruger, M.
L., Jones, T. B., Singh, M., … Diamond, M. P. (2012). Adverse
obstetric outcomes associated with sonographically identified large uterine
fibroids. Fertility
and Sterility,
97(1), 107-110. https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2011.10.009
Shen, Q., Hua, Y., Jiang, W., Zhang, W., Chen, M., & Zhu, X. (2013). Effects of
mifepristone on uterine leiomyoma in premenopausal women: A meta-analysis. Fertil
Steril,
100(6), 1722-6 e1-10. https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2013.08.039
Shen, Y., Xu, Q., Xu, J., Ren, M. L., &
Cai, Y. L. (2013).
Environmental exposure and risk of uterine leiomyoma: An epidemiologic survey.
European Review for Medical and Pharmacological Sciences, 17(23), 3249-3256,
Singh, S. S., & Belland, L. (2015).
Contemporary management of uterine fibroids: Focus on emerging medical
treatments. Curr Med Res Opin, 31(1),
1-12, https://doi.org/10.1185/03007995.2014.982246
Smeets, A. J., Nijenhuis, R. J., van
Rooij, W. J., Weimar,
E. A. M., Boekkooi, P. F., Lampmann, L.
E. H., … Lohle, P. N. M. (2010). Uterine
Artery Embolization in Patients
with a Large Fibroid Burden: Long-Term Clinical and MR Follow-Up. CardioVascular and
Interventional Radiology, 33(5), 943-948.
https://doi.org/10.1007/s00270-009-9793-2
Stephenson, J. (2014). FDA
Warns Against Procedure Used in Removing Fibroids. JAMA, 311(19), 1956. https://doi.org/10.1001/jama. 2014.5182
Stewart, E. A. (2015). Uterine
Fibroids. New England Journal of Medicine, 372(17), 1646-1655. https://doi.org/10.1056/nejmcp1411029
Stewart, E., Cookson, C., Gandolfo,
R., & Schulze-Rath, R. (2017).
Epidemiology of uterine fibroids: A systematic review. BJOG: An International
Journal of Obstetrics & Gynaecology, 124(10), 1501-1512. https://doi.org/10-1111/1471-0528.14640
Stout, M. J., Odibo, A. O., Graseck, A. S., Macones,
G. A., Crane, J. P., &
Cahill, A. G. (2010).
Leiomyomas at routine second-trimester ultrasound examination and adverse
obstetric outcomes. Obstetrics and Gynecology, 116(5), 1056-1063. https://doi.org/10.1097/AOG.0b013e3181f7496d
Strobelt, N., Ghidini, A.,
Cavallone, M., Pensabene,
I., Ceruti, P., &
Vergani, P. (1994).
Natural history of uterine leiomyomas in pregnancy. Journal of Ultrasound in
Medicine: Official Journal of the American Institute of Ultrasound in
Medicine, 13(5), 399-401.
Styer, A. K., & Rueda, B. R. (2016). The
Epidemiology and Genetics of Uterine Leiomyoma. Best Practice & Research Clinical
Obstetrics & Gynaecology, 34, 3-12. https://doi.org/10.1016/j.bpobgyn.2015.11.018
Sunkara, S. K., Khairy, M.,
El-Toukhy, T., Khalaf, Y., &
Coomarasamy, A. (2009). The
effect of intramural fibroids without uterine cavity involvement on the outcome
of IVF treatment: A systematic review and meta-analysis. Human Reproduction,
25(2), 418-429. https://doi.org/10.1093/humrep/dep396
Takeda, T., Sakata, M.,
Isobe, A., Miyake, A., Nishimoto, F.,
Ota, Y., ...
Kimura, T. (2008).
Relationship between Metabolic Syndrome and Uterine Leiomyomas: A Case-Control Study.
Gynecologic and Obstetric
Investigation, 66(1), 14-17. https://doi.org/10.1159/000114250
Talaulikar, V. S., &
Manyonda, I. (2014).
Ulipristal acetate for use in moderate to severe symptoms of uterine fibroids.
Womens Health (Lond), 10(6), 565-570.
https://doi.org/10.2217/whe.14.60
Talaulikar, V. S., &
Manyonda, I. T. (2012). Ulipristal acetate: A novel option for the medical
management of symptomatic uterine fibroids. Adv Ther, 29(8), 655-663.
https://doi.org/10.1007/sl2325-012-0042-8
Tanaka, H., Umekawa, T., Kikukawa, T.,
Nakamura, M., & Toyoda, N.
(2002). Venous thromboembolic diseases associated with uterine myomas
diagnosed before hysterectomy: A report of two cases. Journal of Obstetrics and
Gynaecology Research, 28(6), 300-303. https://doi.org/10.1046/j.1341-8076.2002.00059.x
Telner, D. E., & Jakubovicz,
D. (2007). Approach to diagnosis and management of abnormal uterine bleeding.
Can Fam Physician, 53(1), 58-64. (17872610).
Tempany, C. M. C., Stewart, E.
A., McDannold, N., Quads, B. J., Jolesz, F. A., & Hynynen, K.(2003). MR
Imaging-guided Focused Ultrasound Surgery of Uterine Leiomyomas: A Feasibility Study.
Radiology, 226(3), 897-905. https://doi.org/10.1148/radiol.2271020395
Templeman, C., Marshall, S. F., Clarke, C. A., DeLellis Henderson,
K., Largent, J., Neuhausen, S., … Bernstein, L.
(2009). Risk
factors
for surgically removed fibroids In a large cohort of teachers. Fertility and Sterility,
92(4), 1436-1446. https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2008.08.074
Terry, K. L., De Vivo, I.,
Hankinson, S. E., & Missmer, S. A. (2010). Reproductive
characteristic and risk of uterine leiomyomata. Fertility and Sterility,
94(7), 2703-2707.
https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2010.04.065
The Joint Commission on Accreditation
of Healthcare Organizations. Time-outs and their role in improving safety and
quality in surgery. (2017, June 1). Retrieved
August 4, 2019, from The Bulletin website: http://bulletin.facs.org/2017/06/time-outs-and-their-role-in-improving-safety-and-quality-in-surgery/
The REST Investigators. Uterine-Artery
Embolization versus Surgery for Symptomatic Uterine Fibroids. (2007). New England Journal
of Medicine, 356(4), 360-370. https://doi.org/10.1056/nejmoa062003
Tocci, A., Greco, E., & Ubaldi, F. M.
(2008). Adenomyosis and ‘endometrial- subendometrial
myometrium unit disruption disease’ are two different entities. Reproductive
BioMedicine Online, 17(2), 281-291. https://doi.org/l0.1016/s1472-6483(10)60207-6
Topsoee, M. F., Bergholt, T., Ravn, P., Schouenborg, L., Moeller, C., Ottesen, B., &
Settnes, A. (2016).
Anti-hemorrhagic effect of prophylactic tranexamic acid in benign
hysterectomy-a
double-blinded randomized placebo-controlled trial. American Journal of Obstetrics
& Gynecology, 215(1), 72.e1-72.e8. doi:
10.1016/j.ajog.2016.01.184
Tristan, M., Orozco, L. J., Steed, A.,
Ramirez-Morera, A., & Stone, P. (2012). Mifepristone for uterine fibroids. Cochrane Database Syst Rev,
(8), CD007687. https://doi.org/10.1002/14651858.CD007687.pub2
Valle, R. F., &
Sciarra, J. J. (1988).
Intrauterine adhesions: Hysteroscopic diagnosis, classification, treatment, and
reproductive outcome. American
Journal of Obstetrics and Gynecology, 158(6), 1459-1470. https://doi.org/10.1016/0002-9373(88)90382-1
Van den Bosch, T., de Bruijn, A. M., de Leeuw, R. A., Dueholm, M.,
Exacoustos, C, Valentin,
L., ... Huirne,
J. A. F. (2019). Sonographic
classification and reporting system for diagnosing adenomyosis. Ultrasound in
Obstetrics & Gynecology, 53(5), 576-582. bttps://doi.org/10.1002/uog.l9096
Vilos, G. A., Allaire, C., Laberge, P. Y., Leyland,
N., & Special, C. (2015). The
management of uterine leiomyomas. J Obstet Gynaecol Can, 37(2),
157-178. https//doi.org/l0.1016/S1701-2163(15)30338-8
Wamsteker, K., Emanuel, M.
H., & de Kruif, J.
H, (1993). Transcervical hysteroscopic resection of submucous fibroids for
abnormal uterine bleeding: Results regarding the degree of intramural
extension. Obstetrics and Gynecology, 82(5), 736-740.
Wang, W., Wang, Y., Wang, T.,
Wang, J., Wang, L., & Tang, J.
(2012). Safety and efficacy of US-guided high-intensity focused
ultrasound for treatment of submucosal fibroids. European Radiology, 22(11),
2553-2558.
https://doi.org/10.1007/s00330-012-2517-z
Wegienka, G., Baird, D. D.,
Hertz-Picciotto, Harlow, S. D., Steege,
J. F., Hill, M. C.(...
Hartmann, K. E. (2003). Self-Reported Heavy Bleeding Associated With Uterine
Leiomyomata. Obstetrics
& Gynecology, 101(3), 431-437. https://doi.org/10.1097/00006250-200303000-00005
Wellington, K., &
Wagstaff, A. J. (2003). Tranexamic acid: A review of its use in the management
of menorrhagia. Drugs, 63(13), 1417-1433.
https://doi.org/10.2155/00003495-200363130-00008
Winer-Muram, H. T., Muram,
D., Gillieson, M. S., Ivey, B. J., &
Muggah, H. F. (19S3). Uterine myomas
in pregnancy. Canadian Medical Association Journal, 128(8), 949-950.
Wise, L. A. (2004). Reproductive
Factors, Hormonal Contraception, and Risk of uterine Leiomyomata in
African-American Women; A Prospective study. American Journal of Epidemiology, 159(2),
113-123. https://doi.org/10.1093/aje/kwh0l6
Wise, L. A., & Laughlin-Tommaso,
S. K. (2016). Epidemiology
of Uterine
Fibroids. Clinical Obstetrics and Gynecology, 59(1), 2- 24. https://doi.org/10.1097/grf.0000000000000164
Wong, M., De Wilde, R. L., & Isaacson, K.
(2018). Reducing the spread of occult uterine sarcoma at the time of minimally
invasive gynecologic surgery. Archives of Gynecology and Obstetrics, 297(2),
285-293. https://doi.org/10.1007/s00404-017-4575-6
Worthen, N. J., &
Gonzalez, F. (1984), Septate uterus; Sonographic diagnosis and obstetric
complications. Obstetrics and Gynecology, 64(3 Suppl), 34S-3SS.
Yanai, H., Wani, Y.,
Notohara, K., Takada, S., &
Yoshino, T. (2010). Uterine
leiomyosarcoma arising in leiomyoma: Clinicopathological study of four cases and
literature review. Pathology International, 60(7), 506-509. https://doi.org/10.1111/j.1440-1827.2010.02549.x
Yoshino, O., Nishii, O., Osuga, Y.,
Asada, H., Okuda, S., Orisaka, M., … Hayashi, T. (2012). Myomectomy
Decreases Abnormal Uterine Peristalsis and Increases Pregnancy Rate. Journal
of Minimally Invasive Gynecology, 19(1), 63-67. https://doi.org/10.1016/j.jmig.2011.09.010
Zhang, L., Chen, W.-Z., Liu, Y.-J.,
Hu, X., Zhou, K., Chen, L.,
…
Wang, Z.-B. (2010). Feasibility of magnetic resonance imaging-guided
high intensity focused ultrasound therapy for ablating uterine fibroids in
patients with bowel lies anterior to uterus. European Journal of Radiology,
73(2), 396-403.
https://doi.org/10.1016/j.ejrad.2008.11.002
Zhao, F., Jiao, Y., Guo, Z., Hou, R., & Wang, M. (2011). Evaluation
of loop ligation of larger myoma pseudocapsule combined with vasopressin on
laparoscopic myomectomy. Fertility and sterility, 95(2), 762-766. https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2010.08.059
BAN THƯ KÝ
BIÊN SOẠN
BS CKII. Bùi Đỗ Hiếu
BS CKI. Vương Tú Như
BSCKII. Hồ Cao Cường
BS CKI. Châu
Ngọc Minh
BS CKI. Bùi Quang Trung
BS CKI. Lê
Văn Khánh
ThS. BS. Hê
Thanh Nhã Yến
BS CKI. Triệu
Thị Thanh Tuyền
BS CKI. Lê Tiểu My
BS CKI. Vũ
Nhật Khang
BS. Hồ Ngọc
Anh Vũ
BS. Nguyễn
Minh Nhật
BS. Lê Văn Thành
BAN THƯ KÝ
HÀNH CHÁNH
Nguyễn Thạch
Thảo Nguyên
Vũ Thị Hà
Trần Hữu Yến
Ngọc