BỘ
Y TẾ
TỔNG CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM
UỶ BAN THỂ DỤC THỂ THAO
TRUNG ƯƠNG ĐOÀN THANH NIÊN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
01-HC/5
|
Hà
Nội, ngày 16 tháng 05 năm 1969
|
CHỈ THỊ
VỀ CUỘC VẬN ĐỘNG TẬP THỂ DỤC, GIỮ GÌN VỆ SINH, TĂNG CƯỜNG SỨC
KHỎE, NÂNG CAO NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG TRONG CÁN BỘ, CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC
Trong những năm vừa qua,
các hoạt động thể dục thể thao, thể thao quốc phòng và vệ sinh phòng bệnh trong
công nhân, viên chức đã góp phần vào việc giữ gìn sức khỏe, đẩy mạnh sản xuất
và chiến đấu; gây không khí vui tươi và sinh hoạt lành mạnh. Tuy nhiên phong
trào thể dục thể thao không đều, không thường xuyên, nhất là phong trào thể dục
vệ sinh và thể dục sản xuất ở nhiều nơi còn rất yếu, chưa thu hút được đông đảo
quần chúng tập luyện, chất lượng tập luyện còn kém. Nguyên nhân chủ yếu là do
nhận thức về ý nghĩa và tác dụng của thể dục thể thao chưa được quán triệt
trong công nhân, viên chức và trong cán bộ lãnh đạo, còn khuynh hướng chỉ chú
trọng thể thao, mà coi nhẹ thể dục, chưa thấy phải dựa trên cơ sở đẩy mạnh
phong trào thể dục mà phát triển các môn thể thao. Việc tổ chức chỉ đạo ở cơ sở
chưa có nền nếp, thiếu động viên liên tục, thiếu một đội ngũ hướng dẫn viên
đông đảo để làm nòng cốt trong việc duy trì, mở rộng và nâng cao chất lượng của
phong trào; ban thể dục vệ sinh các cấp ở nhiều nơi không họp đều và hoạt động
thiếu thường xuyên
Để tích cực thi hành Chỉ
thị số 156-CT/TW ngày 20-11-1967 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc bảo vệ
và tăng cường sức khỏe cán bộ, công nhân, viên chức, Tổng công đoàn Việt Nam, Ủy
ban Thể dục Thể thao, Bộ Y tế và trung ương đoàn thanh niên lao động Việt Nam
nhất trí mở cuộc vận động cán bộ, công nhân, viên chức tập thể dục và vệ sinh
phòng bệnh nhằm bảo vệ và tăng cường sức khỏe, nâng cao năng suất lao động
trong cán bộ, công nhân, viên chức.
I. MỤC ĐÍCH,
YÊU CẦU CUỘC VẬN ĐỘNG
1. Vận động đông đảo cán bộ,
công nhân, viên chức tập thể dục và thực hiện vệ sinh, phòng bệnh một cách có nền
nếp, thường xuyên và hướng dẫn tốt để bảo vệ, tăng cường sức khỏe một cách tích
cực, giảm tỷ lệ ốm đau, phục vụ tốt sản xuất, chiến đấu và đời sống, tạo điều
kiện để bảo đảm ngày công theo chế độ và giờ công có ích cao, nhằm không ngừng
tăng năng suất lao động, hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước.
2. Góp phần xây dựng nếp sống
lành mạnh, tươi vui, nâng cao ý thức tổ chức, kỷ luật trong cán bộ, công nhân,
viên chức. Trên cơ sở đẩy mạnh phong trào tập thể dục và vệ sinh phòng bệnh có
chất lượng mà phát triển các hoạt động thể dục thể thao khác.
II. NỘI DUNG
CUỘC VẬN ĐỘNG
1. Thể dục buổi sáng (hoặc
sau khi ngủ dậy).
Chủ yếu tập theo bài thể dục vệ
sinh nam và nữ do Ủy ban Thể dục Thể thao ban hành năm 1969.
2. Thể dục sản xuất.
Chủ yếu tập theo 4 bài mẫu phù hợp
với ngành, nghề: cơ khí, nửa cơ khí, lao động chân tay và hành chính sự nghiệp
do ban Thể dục Thể thao Tổng công đoàn phổ biến hồi cuối năm 1968. Ngoài ra, có
thể áp dụng các bài thể dục sản xuất do anh chị em ở các cơ sở biên soạn, phù hợp
với các ngành, nghề khác, nhằm chống mệt mỏi, giữ vững năng suất lao động chống
bệnh nghề nghiệp. (Trong khi biên soạn và trước khi áp dụng cần tranh thủ sự hướng
dẫn của cơ quan thể dục thể thao).
Thể dục buổi sáng và thể dục sản
xuất phải coi trọng cả hai mặt: mở rộng phong trào và nâng cao chất lượng tập
luyện, làm cho phong trào vừa có tính quần chúng rộng rãi, vừa có tính khoa học.
Vận động tập thể dục và giữ vệ sinh cần kết hợp với việc rèn luyện thân thể
theo tiêu chuẩn 5 môn và các môn thể thao khác… tùy điều kiện của địa phương và
cơ sở. Phải lấy việc tập luyện thể dục thường xuyên và có chất lượng làm cơ sở
để đẩy mạnh các môn thể thao và các hoạt động thể thao cũng phải kết hợp với
phong trào thể dục. Cần khắc phục khuynh hướng chỉ chú trọng thể thao mà coi nhẹ
thể dục.
Song song với phong trào thể dục,
cần đẩy mạnh phong trào vệ sinh yêu nước chống Mỹ (xây dựng và sử dụng tốt 3
công trình vệ sinh cơ bản, thực hiện tốt tiêm chủng phòng bệnh, vệ sinh cá
nhân, vệ sinh ăn ở, vệ sinh công cộng, vệ sinh lao động v.v…).
III. ĐỐI TƯỢNG
CUỘC VẬN ĐỘNG
Gồm tất cả nam nữ cán bộ, công
nhân, viên chức các lứa tuổi trong đơn vị. Mọi người đều có nhiệm vụ tập thể dục,
giữ gìn vệ sinh để tự bảo vệ và nâng cao sức khỏe. Đoàn viên thanh niên cần phát
huy tác dụng làm nòng cốt cho phong trào, hăng hái tình nguyện làm hướng dẫn
viên.
Nội dung, khối lượng tập luyện
phải vận dụng cho phù hợp với sức khỏe của từng người. Thời gian tập luyện cũng
cần phù hợp với điều kiện sản xuất, sinh hoạt của từng nơi. Chú ý, tổ chức tập
thể dục tập thể ở tổ sản xuất, đội, phòng, ban và khu, xóm, gia đình. Đặc biệt
tổ chức tốt việc tập thể dục sản xuất cho những người làm ca kíp (kể cả ca 3)
vào những giờ thích hợp.
IV. BIỆN PHÁP
TIẾN HÀNH CUỘC VẬN ĐỘNG
1. Cần tuyên truyền cho mọi người
thấy rõ ý nghĩa, mục đích cuộc vận động tập thể dục và vệ sinh phòng bệnh trong
cán bộ, công nhân, viên chức.
Tổ chức phổ biến lời kêu gọi tập
thể dục của Hồ Chủ Tịch và Chỉ thị số 156-CT/TƯ của Trung ương Đảng về việc giữ
vững và tăng cường sức khỏe trong cán bộ, công nhân, viên chức, ngoài ra còn cần
phải phổ biến kiến thức khoa học phổ thông về thể dục và vệ sinh, làm cho mọi
người thông suốt mà tự nguyện tự giác tập thể dục và giữ gìn vệ sinh công cộng,
vệ sinh cá nhân.
2. Bồi dưỡng và đào tạo thật nhiều
hướng dẫn viên thể dục và vệ sinh viên để đủ người hướng dẫn cho các tổ, các
nhóm. Các cấp lãnh đạo cần quan tâm tạo điều kiện cho cán bộ và hướng dẫn viên
hoạt động, không để ảnh hưởng đến sản xuất, nghề nghiệp và đời sống của họ.
3. Tùy điều kiện của cơ sở và địa
phương mà từng thời gian tiến hành kiểm tra phong trào thể dục, khen thưởng kịp
thời để động viên phong trào được rộng rãi, liên tục với khí thế sôi nổi hào hứng.
4. Tổ chức công đoàn, đoàn thanh
niên, thể dục thể thao và y tế các cấp cần tăng cường phối hợp chặt chẽ để thực
hiện các biện pháp trên. Cụ thể ở mỗi cấp như sau:
A. Ở tổ, đội, phòng, ban.
- Cần phổ biến mục đích, ý nghĩa
việc tập luyện thể dục giữ gìn vệ sinh để tăng cường sức khỏe, bảo đảm ngày
công, giờ công, nâng cao năng suất lao động và hiệu suất công tác;
- Lựa chọn người làm hướng dẫn
viên và củng cố mạng lưới vệ sinh viên;
- Hướng dẫn các bài tập cho quần
chúng, hướng dẫn những điều cần thiết về vệ sinh phòng bệnh;
- Tổ chức giờ tập và nơi tập cho
hợp lý;
- Đặt thành chỉ tiêu thi đua của
tổ công đoàn và phân đoàn thanh niên.
B. Ở phân xưởng và các đơn vị
tương đương.
- Tuyên truyền động viên, hướng
dẫn tập thể dục và vệ sinh phòng bệnh rộng rãi trong phân xưởng, trong đơn vị;
- Tổ chức bồi dưỡng mạng lưới hướng
dẫn viên thể dục vệ sinh viên cho các tổ, đội, tạo điều kiện cho họ hoạt động;
- Tổ chức thi đua tập luyện và
giữ gìn vệ sinh giữa các tổ, đội.
C. Ở cơ sở, xí nghiệp, công
trường, nông trường, lâm trường, cơ quan.
- Có kế hoạch phát động duy trì
và phát triển phong trào tập thể dục, giữ gìn vệ sinh cho cả đơn vị;
- Tuyên truyền, động viên rộng
rãi và đôn đốc, hướng dẫn phong trào, rút kinh nghiệm và phổ biến kinh nghiệm
trong toàn đơn vị;
- Bồi dưỡng các hướng dẫn viên
thể dục, vệ sinh viên cho các phân xưởng và các đơn vị trực thuộc, tạo điều kiện
cho các hướng dẫn viên hoạt động;
- Tổ chức thi đua, khen thưởng
phong trào tập thể dục và vệ sinh phòng bệnh ở các phân xưởng và các đơn vị trực
thuộc.
D. Ở khu tập thể và xóm gia
đình
- Tổ chức giờ tập và nơi tập cho
thích hợp (chú ý: đối với người làm ca 3 không nên làm trở ngại đến giấc ngủ
ban ngày của họ);
- Đưa việc tập thể dục và vệ
sinh phòng bệnh vào nội quy của khu tập thể và xóm gia đình;
- Tổ chức những người tích cực
làm hướng dẫn viên thể dục, vệ sinh viên ở khu tập thể và xóm gia đình.
E. Ở tỉnh, thành.
- Ban thể dục, thể thao tỉnh,
thành, sở, ty y tế phối hợp cùng liên hiệp công đoàn và tỉnh, thành đoàn thanh
niên, có kế hoạch mở cuộc vận động tập thể dục, giữ gìn vệ sinh, tăng cường sức
khỏe, nâng cao năng suất lao động trong cán bộ, công nhân, viên chức của địa
phương. Cần chuẩn bị tốt để có thể hoạt động vào tháng 6 hoặc tháng 7 năm 1969.
Ban thể dục, thể thao tỉnh,
thành, ty, sở y tế phối hợp cùng với liên hiệp công đoàn và tỉnh, thành đoàn
thanh niên tổ chức việc bồi dưỡng cho cán bộ thể dục và vệ sinh viên của cơ sở,
nắm vững các bài tập mẫu, cách thức giữ gìn vệ sinh và phương pháp vận động quần
chúng để về làm nòng cốt cho phong trào tập thể dục và giữ vệ sinh ở cơ sở. Các
lớp bồi dưỡng này cần làm ngắn, gọn và thiết thực.
Ban thể dục, thể thao tỉnh,
thành và ty, sở y tế chịu trách nhiệm bồi dưỡng kỹ thuật chuyên môn bảo đảm
tính khoa học của các bài thể dục, của các biện pháp vệ sinh phòng bệnh, liên
hiệp công đoàn, tỉnh, thành đoàn thanh niên, ban thể dục thể thao tỉnh, thành
và ty y tế phải cùng nhau bàn định, thống nhất kế hoạch tổ chức lớp học, nguyên
tắc lựa chọn và cử người đi học hướng dẫn viên, thống nhất chương trình thời
gian huấn luyện.
Ban thể dục thể thao tỉnh, thành
và ty, sở y tế cử ra một số cán bộ chuyên lo về cuộc vận động này cùng với cán
bộ thể dục thể thao của liên hiệp công đoàn và đoàn thanh niên để chỉ đạo ở một
vài điểm, cùng nhau rút kinh nghiệm phổ biến kinh nghiệm.
- Bốn bên có trách nhiệm cùng
nhau từng thời gian sơ kết, tổng kết, bàn biện pháp duy trì, phát triển phong
trào và nâng cao chất lượng tập luyện, giữ gìn vệ sinh.
F. Ở ngành dọc gia thông vận
tải và hậu cần.
Công đoàn cần bàn với chuyên môn
và đoàn thanh niên để tiến hành cuộc vận động tập thể dục, giữ gìn vệ sinh cho
phù hơp với đặc điểm sản xuất và tổ chức của ngành.
Cuộc vận động tập thể dục, giữ
gìn vệ sinh, tăng cường sức khỏe, nâng cao năng suất lao động trong cán bộ,
công nhân, viên chức sẽ tiến hành trong hai năm 1969-1970 nhằm đưa phong trào tập
thể dục, phong trào vệ sinh yêu nước chống Mỹ của cán bộ, công nhân, viên chức ở
đa số đơn vị phát triển và thu hút đa số công nhân, viên chức tập luyện thường
xuyên, có nền nếp, có hướng dẫn và nâng cao được chất lượng tập luyện.
Đây là cuộc vận động có ý nghĩa
lớn đối với việc bảo vệ và tăng cường sức khỏe của cán bộ, công nhân, viên chức,
góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội, góp phần xây dựng nếp sống lành mạnh,
tươi vui.
Ban thể dục thể thao tỉnh,
thành, các ty, sở y tế, liên hiệp công đoàn tỉnh, thành và tỉnh, thành đoàn
thanh niên cần có kế hoạch tích cực thi hành chỉ thị này. Cuối năm 1969 tiến
hành nhận định hồ sơ và đút rút kinh nghiệm vận động phong trào; cuối năm 1970
sẽ tổng kết toàn bộ cuộc vận động. Từng thời gian cần báo cáo kết quả về Tổng
công đoàn. Ủy ban Thể thao thể thao. Bộ Y tế và Trung ương đoàn thanh niên.
KT. CHỦ NHIỆM
ỦY BAN THỂ DỤC THỂ THAO
ỦY VIÊN THƯỜNG TRỰC
Vương Bích Vượng
|
TM.
TRUNG ƯƠNG ĐOÀN THANH NIÊN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
BÍ THƯ
Lưu Minh Châu
|
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ Y TẾ
THỨ TRƯỞNG
Bác sĩ Nguyễn Văn Tín
|
TM.
TỔNG CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM
ỦY VIÊN THƯ KÝ TỔNG CÔNG ĐOÀN
Đỗ Trọng Giang
|