THỦ TƯỚNG CHÍNH
PHỦ
******
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 291-TTg
|
Hà Nội, ngày 19
tháng 05 năm 1978
|
VỀ VIỆC DÀNH TỪ 10 ĐẾN 15% RUỘNG ĐẤT ĐỂ SẢN XUẤT THỨC ĂN,
PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI GIA SÚC
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ
IV và Nghị quyết Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ II đã chủ truơng dành từ
10 đến 15% đất tồng trọt của hợp tác xã để sản xuất thức ăn nhằm từng bước đưa chăn
nuôi lên cân đối với trồng trọt và pháp triển theo hướng sản xuất lớn.
Thủ tướng Chính phủ quy định việc
quản lý, sử dụng đất dành cho chăn nuôi như sau.
I. TỶ LỆ DÀNH ĐẤT VÀ TỔ CHỨC SẢN XUẤT THỨC ĂN GIA
SÚC Ở CÁC VÙNG.
Để đẩy mạnh sản xuất thức ăn gia
súc, cơ sở vất chất chủ yếu của ngành chăn nuôi, ngoài 5% đất dành cho kinh tế
phụ gia đình xã viên, nay quy định dành thêm từ 10 đến 15% đất để sản xuất thức
ăn, phát triển chăn nuôi, tăng cường kinh tế kợp tác xã.
Tỷ lệ dành đất này tính theo diện
tích canh tác chung của mỗi huyện, có xem xét đến các điều kiện đất đai để tạo
điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức sản xuất, chế biến thức ăn theo hướng sản
xuất và đảm bảo sự cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi trên địa bàn huyện.
Huyện căn cứ vào số diện tích được
dành cho chăn nuôi mà quy định diện tích dành đất cho từng hợp tác xã tùy theo
khả năng và trình độ quản lý chăn nuôi và yêu cầu về phân bón của mỗi hợp tác
xã.
Trên cơ sở đó, hợp tác xã dành đất
và tổ chức đội chuyên sản xuất thức ăn cho chăn nuôi. Trong vụ đầu, nếu hợp tác
xã chưa thành lập đội chuyên, có thể tạm thời trích sản lượng lương thực cho
chăn nuôi.
Đất dành cho chăn nuôi nên chọn
khu đất trồng màu để tiện bố trí trồng các loại cây thức ăn tinh, thức ăn giàu
đạm và rau xanh có năng suất cao. Nếu trên khu đất đó có diện tích trồng lúacó
hiệu quả kinh tế cao hơn là trồng các loại cây thức ăn khác thì vẫn cứ sản xuất
lúa, sau 9ó sẽ đổi lấy hoa màu mà hợp tác xã thu được trên diện tích khác có
luân canh với hoa màu hoặc đổi cho Nhà nước lấy thức ăn hỗn hơp hoặc hoa màu đã
chế biến để chăn nuôi.
Ngành nông nghiệp và ngành lương
thực có trách nhiệm tổ chức việc đổi thức ăn hỗn hợp và hoa màu đã chế biến cho
các hợp tác xã. Tỷ lệ đổi giữa thức ăn hỗn hợp và hoa màu đã chế biến lấy thóc
do Bộ Nông nghiệp và Bộ Lương thực và thực phẩm quy định. Nhà nước không lấy
công chế biến và cho phí vận chuyển. Giá cả các loại thóc, gạo, màu. Thức ăn
gia súc…tính theo giá chỉ đạo của Nhà nước.
Ở những tỉnh hoặc huyện có các
vùng chuyên trồng màuthì biện pháp tốt nhất để sử dụng đất dành cho chăn nuôi
có hiệu quả hơn cả là tỉnh hoặc huyện xây dựng những vùng chuyên canh sản xuất
thức ăn và tổ chức chế biến thành thức ăn hỗn hợp rồi phân phối cho các hợp tác
xã chăn nuôi. Như vậy các hợp tác xã chỉ cần dành diện tích sản xuất rau xanh tại
chỗ, còn thức ăn tinh thì do tỉnh hoặc huyện đưa số thức ăn đã được chế biến ở
vùng chuyên canh về cho các hợp tác xã tương đương với sản lượng lương thực có
thể sản xuất được trên đất 15% dành cho chăn nuôi.
Trong năm 1978, 1979, mỗi tỉnh
làm thí điểm việc xây dựng vùng chuyên canh và chế biến thức ăn ở một số huyện
có điều kiện để rút kinh nghiệm vào những năm sau.
Phấn đấu đến năm 1980, các huyện
đồng bằng và trung du sử dụng hết 15% đất để phát triển chăn nuôi, vùng thân
canh lúacần có nhiều phân bón có thể dành từ 18 đến 20% vành đai thực phẩm xung
quanh các thành phố, thị xã, khu công nghiệp tập trung có yêu cầu về thực phẩm
lớn thì tùy tình hình mà dành đất nhiều hơn, có thể tới 30 đến 40%; các huyện
miền núi cố gắng sử dụng cho được ít nhất 10% đất để sản xuất thức ăn cho chăn
nuôi của hợp tác xã.
II. QUẢN LÝ,
SỬ DỤNG THỨC ĂN SẢN XUẤT TRÊN ĐẤT DÀNH CHO CHĂN NUÔI
Thức ăn dành cho chăn nuôi phải
được quản lý chặt chẽ và sử dụng theo những quy định sau đây:
1. Căn cứ vào quy hoạch chăn
nuôi đã xác định, hợp tác xã sử dụng phần lớn số thức ăn này để phát triển chăn
nuôi tập thể, chủ yếu là chăn nuôi lợn.
Những nơi có điều kiện chăn nuôi
trâu bò sinh sản, trâu bò thịt, sữa, gà công nghiệp, vịt đàn, thả cá…thì dành một
phần thức ăn cho những gia súc đó. Nơi trâu bò thiếu thức ăn có thể dành một ít
đất để trồng cỏ nuôi trâu bò.
2. Để khuyến khích chăn nuôi gia
đình xã viên và trong khi chăn nuôi tập thể của hợp tác xã chưa phát triển kịp
yêu cầu thì các hợp tác xã trích một phần thức ăn tinh, nhiều nhất không quá
20% số thức ăn sản xuất trên đất dành cho chăn nuôi để bán hỗ trợ cho người
nuôi lợn đực giống, lợn nái, sản xuất lợn hậu bị, lợn con theo kế hoạch của hợp
tác xã giao. Số thức ăn này do huyện điều hành, cân đối chung trong huyện.
Điều quan trọng là phải nhanh
chóng đẩy mạnh chăn nuôi tập thể của hợp tác xã nuôi được nhiều lợn nái, cung cấp
đủ yêu cầu về lợn con giống của hợp tác xã và gia đình xã viên, mà giảm dần số
thức ăn bán hỗ trợ này và chuyển vào cho chăn nuôi tập thể.
3. Các hợp tác xã phải có kho thức
ăn gia súc riêng và chỉ được sử dụng thức ăn cho chăn nuôi của hợp tác xã, tuyệt
đối không dùng vào các việc khác.
III. ĐỊNH MỨC
SẢN XUẤT VÀ THU MUA SẢN PHẨM CHĂN NUÔI THEO DIỆN TÍCH VÀ NĂNG SUẤT ĐẤT DÀNH CHO
CHĂN NUÔI
Nghị quyết số 55-CP ngày
03-03-1978 cùa Hội đồng Chính phủ về công tác lương thực trong tình hình mới đã
quy định diện tích đất đã thực sự dành cho chăn nuôi không tính vào diện tích
phải bán lương thực cho Nhà nước theo kế hoạch. Tuy nhiên diện tích đất này vẫn
phải nộp thuế nông nghiệp.
Việc dành từ 10 đến 15% đất cho
chăn nuôi chủ yếu là tạo điều kiện cho các hợp tác xã tăng nhanh tổng sản lượng
lương thực và thực phẩm, do đó sau một năm (hoặc nhiều nhất là hai năm) dành đất
phát triển chăn nuôi, có thêm nguồn phân bón, các hợp tác xã phải tăng mức sản
xuất lương thực lên cao hơn trước.
Nhà nước căn cứ vào diện tích và
năng suất đất dành cho chăn nuôi tập thể của hợp tác xã để giao kế hoạch chăn
nuôi và bán sản phẩm cho Nhà nước theo chính sách và chế độ được quy định.
IV. ĐỐI VỚI
CÁC TỈNH MIỀN NAM
Nơi nào có hợp tác xã hoặc các tổ
chức làm ăn tập thể thì áp dụng những quy định nói trên, đồng thời trong khi hợp
tác xã chưa phát triển nhiều, các tỉnh, huyện cần xúc tiến xây dựng những vùng
chuyên canh sản xuất thức ăn gia súc để cung cấp nguyên liệu cho các xí nghiệp
thức ăn hiện có. Thức ăn đã chế biến được sử dụng để phát triển chăn nuôi quốc
doanh, chăn nuôi gia công theo hợp đồng ở các vùng thực phẩm, vùng xuất khẩu và
để đổi lấy thóc ở những nơi có tập quán nuôi lợn bằng thóc gạo.
Việc dành từ 10 đến 15% đất cho
chăn nuôi là chủ trương hết sức quan trọng, tạo điều kiện đưa chăn nuôi thành
ngành sản xuất chính trong nông nghiệp, đồng thời cũng là biện pháp tích cực để
tạo ra nguồn phân bón dồi dào nhằm tăng năng suất cây trrồng và không ngừng
nâng cao sản lượng lương thực và thực phẩm.
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương cần kiên quyết chỉ đạo dành đủ đất cho chăn nuôi, có
kế hoạch và biện pháp cụ thể hướng dẫn, kiểm tra việc quản lý, sử dụng thức ăn
chăn nuôi. Phải đề phòng và kịp thời ngăn chặn, xử lý mọi hành động tham ô,
lãng phí thức ăn hoặc dùng thức ăn vào những việc khác.
Bộ Nông nghiệp, Bộ Lương thực và
thực phẩm và Bộ Nội thương cần phối hợp chỉ đạo thực hiện, có văn bản hướng dẫn
cụ thể việc tổ chức sản xuất, chế biến, sử dụng thức ăn, việc đổi thức ăn hỗn hợp
và hoa màu đã chế biến lấy thóc, việc thu mua sản phẩm chăn nuôi theo kế hoạch.
Thông tư này thay thế các văn bản
của Nhà nước trước đây đã quy định về việc dành đất cho chăn nuôi.
Trong khi thi hành, nếu gặp khó
khăn cần kịp thời báo cáo để Thủ tướng Chính phủ bổ sung và chỉ đạo thực hiện
chủ trương dành đất cho chăn nuôi đạt kết quả tốt.
|
KT.
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
Võ Chí Công
|