THÔNG TƯ LIÊN BỘ
CỦA BỘ LÂM NGHIỆP - NỘI VỤ SỐ 2-TT/LB NGÀY 13-1-1986
VỀ CÔNG TÁC BẢO VỆ RỪNG VÀ QUẢN LÝ VẬT TƯ LÂM SẢN
Rừng và đất rừng nước ta chiếm
hơn 60% tổng diện tích tự nhiên, là tài nguyên quý của Quốc gia lại có nhiều đồng
bào dân tộc ít người sinh sống, là bộ phận quan trọng của môi trường sống, đồng
thời cũng là một trong những thế mạnh của miền núi và trung du, có vai trò rất
trọng yếu đối với an ninh, quốc phòng, kinh tế và văn hoá công cộng.
Trong những năm qua Đảng và Nhà
nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật bảo vệ rừng và quản lý vật
tư lâm sản. Ngành Lâm nghiệp đã có nhiều cố gắng thực hiện chủ trương, chính
sách nói trên của Đảng và Nhà nước trong kinh doanh phát triển nghề rừng, góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, củng cố an ninh quốc
phòng, phục vụ đời sống dân sinh cả nước.
Nhưng đối chiếu với yêu cầu, nhiệm
vụ công tác bảo vệ rừng, quản lý vật tư lâm sản của Đảng, Nhà nước đặt ra, thì
việc tổ chức thực hiện của ngành Lâm nghiệp và ngành Công an trong những năm
qua còn nhiều khuyết điểm, nhược điểm, nổi bật là những năm gần đây nạn phá rừng,
đốt gây cháy rừng, lấn rừng trái phép còn đang diễn ra nghiêm trọng làm cho diện
tích rừng bị thu hẹp nhanh chóng, tài nguyên rừng bị giảm sút, môi trường sinh
thái bị tác động xấu về nhiều mặt, tình hình tiêu cực trong hoạt động sản xuất
kinh doanh lâm nghiệp như tình trạng trộm cắp, đầu cơ, tham ô, vận chuyển và
kinh doanh trái phép gỗ và lâm sản còn nghiêm trọng. Mâu thuẫn cung cầu về gỗ
và lâm sản ngày càng gay gắt, việc quản lý sử dụng còn nhiều sơ hở, lỏng lẻo,
lãng phí.
Để chấp hành nghiêm chỉnh Pháp lệnh
quy định việc bảo vệ rừng của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (nay là Hội đồng Nhà nước),
Nghị quyết số 03-TW của Bộ Chính trị ngày 25-10-1982 về chống kiểu chiến tranh
phá hoại nhiều mặt của bọn bành trướng, bá quyền Bắc Kinh cấu kết với đế quốc Mỹ,
Nghị quyết số 128-HĐBT ngày 2-8-1982 của Hội đồng Bộ trưởng về những biện pháp
cấp bách để bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa và giữ gìn trật tự an toàn xã hội
và các văn bản khác của Đảng, Nhà nước về công tác bảo vệ rừng, quản lý vật tư
lâm sản, hai Bộ Lâm nghiệp - Nội vụ thống nhất ban hành thông tư liên Bộ về
công tác bảo vệ rừng, quản lý vật tư lâm sản.
I.
YÊU CẦU CỦA CÔNG TÁC BẢO VỆ
1. Bảo vệ và chấp
hành nghiêm chỉnh đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo vệ
an ninh chính trị làm thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại của kẻ địch đối với
tài nguyên rừng và vật tư lâm sản.
2. Kiên quyết chặn đứng tình trạng
phá rừng trái phép, vận dụng mọi biện pháp để ngăn chặn tình trạng gây cháy rừng,
kiên quyết đấu tranh và trừng trị nghiêm ngặt các hiện tượng tham ô, đầu cơ,
tàng trữ, vận chuyển và kinh doanh trái phép lâm sản, cố ý làm sai chế độ chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, gây thiệt hại lớn đến tài nguyên rừng, vật
tư lâm sản, bảo đảm việc cung ứng lâm sản kịp thời, đầy đủ theo yêu cầu kế hoạch
Nhà nước và phục vụ nhu cầu đời sống của nhân dân.
3. Nêu cao trách nhiệm bảo vệ rừng
và quản lý thống nhất vật tư lâm sản trong ngành lâm nghiệp, phát huy quyền làm
chủ tập thể của quần chúng trong việc thực hiện Pháp lệnh quy định việc bảo vệ
rừng và các văn bản của Nhà nước về thống nhất quản lý vật tư lâm sản, đặc sản
rừng, đưa công tác bảo vệ rừng và khai thác, chế biến, cung ứng gỗ và lâm sản
đi vào nền nếp.
II.
NỘI DUNG CÔNG TÁC BẢO VỆ
Bảo vệ rừng và quản
lý vật tư lâm sản là nghĩa vụ và trách nhiệm của Uỷ ban Nhân dân các cấp, các
cơ quan, đoàn thể, xí nghiệp, công nông lâm trường, các đơn vị vũ trang, hợp
tác xã và nhân dân; chủ trương này phải được đặt dưới sự lãnh đạo thường xuyên,
trực tiếp của cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp và phải huy động được tất cả bộ
máy của Đảng, chính quyền và các tổ chức quần chúng tại địa phương thực hiện
nhiệm vụ nói trên thì mới đạt được kết quả.
Ngành Lâm nghiệp là ngành chủ quản
có trách nhiệm chính trong công tác bảo vệ rừng và thống nhất quản lý vật tư
lâm sản. Ngành Công an có trách nhiệm phối hợp cùng ngành Lâm nghiệp tổ chức
các biện pháp bảo vệ rừng, phòng ngừa, điều tra và đề xuất biện pháp xử lý các
vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng.
Hai ngành Lâm nghiệp - Nội vụ cần
tiến hành các mặt công tác cụ thể như sau:
A. NGÀNH LÂM NGHIỆP:
Chịu trách nhiệm tổ
chức và chỉ đạo thực hiện mọi mặt công tác bảo vệ an ninh chính trị, bảo vệ tài
sản xã hội chủ nghĩa trong ngành Lâm nghiệp, trong đó công tác bảo vệ tài
nguyên rừng và vật tư lâm sản có vị trí đặc biệt quan trọng. Bảo đảm trật tự an
toàn xã hội trong các đơn vị ngành Lâm nghiệp, cụ thể là:
1. Tiến hành thường xuyên và sâu
rộng công tác tuyên truyền, giáo dục, phát động phong trào quần chúng bảo vệ rừng,
phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa cho cán bộ,
công nhân viên trong ngành Lâm nghiệp, xã viên hợp tác xã nghề rừng và nhân dân
ở những nơi liền rừng, gần rừng... làm cho mọi người nhận rõ trách nhiệm và
nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh các chế độ, thể lệ, Pháp lệnh quy định việc bảo
vệ rừng, tích cực tham gia bảo vệ rừng, bảo vệ vật tư lâm sản.
2. Trên diện tích rừng, đất rừng
được giao, Giám đốc các Sở Lâm nghiệp, các Liên hiệp lâm nông công nghiệp, lâm
trường, xí nghiệp, các khu rừng cấm, vườn Quốc gia; thủ trưởng các cơ quan, đơn
vị, chủ nhiệm các hợp tác xã phải chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh tế trước
Nhà nước trong việc quản lý, bảo vệ rừng và quản lý vật tư lâm sản. Mọi việc mở
mang để sản xuất kinh doanh bao gồm khai thác, tu bổ, trồng rừng... nhất thiết
phải có thiết kế kinh doanh và phải thực hiện nghiêm chỉnh quy trình, quy phạm
kỹ thuật của Nhà nước và Bộ Lâm nghiệp đã ban hành.
3. Gỗ và các loại lâm sản, đặc sản
rừng đã khai thác phải được bảo vệ, vận chuyển kịp thời ra các kho. Hạn chế và
tiến tới chấm dứt tệ chặt cây, phá rừng bừa bãi, để gỗ, lâm sản trong rừng gây
nên cháy, ải mục mất phẩm chất, lãng phí. Các Liên hiệp lâm nông công nghiệp,
lâm trường, hợp tác xã... được giao nhiệm vụ khai thác phải nghiêm chỉnh chấp
hành chỉ tiêu giao nộp gỗ, lâm sản cho cơ quan cung ứng lâm sản theo chỉ thị số
15-CNR ngày 25-4-1981 và Quyết định số 456-CNR ngày 15-5-1985 của Bộ Lâm nghiệp.
Các đơn vị sản xuất, cung ứng vật tư lâm sản phải thực hiện nghiêm chỉnh Quyết
định số 17-CP ngày 3-2-1972 của Hội đồng Chính phủ về việc quản lý thống nhất
khai thác, thu mua, phân phối gỗ và các cơ sở cưa xẻ gỗ.
4. Các Liên hiệp chế biến cung ứng
lâm sản, các Công ty lâm sản địa phương, Tổng công ty xuất nhập khẩu lâm sản
trên địa bàn được giao phải tổ chức quản lý, bảo vệ, cung ứng kịp thời lâm sản
cho yêu cầu sản xuất theo kế hoạch đã định, không được để gỗ tồn đọng gây mối mọt,
mục ải, mất mát tại các kho; có kế hoạch bảo vệ chặt chẽ gỗ, lâm sản vận chuyển
trên đường bộ, đường thuỷ, đường sắt, nhất là trong mùa mưa, bão, lũ. Quản lý
và sử dụng phương tiện vận chuyển chuyên dùng và các cơ sở cưa xẻ gỗ theo đúng
Quyết định số 68-HĐBT ngày 20-2-1984 của Hội đồng Bộ trưởng về quản lý thống nhất
ô-tô chuyên dùng vận chuyển gỗ và các cơ sở cưa xẻ gỗ dân dụng vào ngành Lâm
nghiệp. Thông tư số 9-TTLB ngày 29-1-1985 của liên Bộ Lâm nghiệp - Nội vụ hướng
dẫn thực hiện quyết định trên của Hội đồng Bộ trưởng, chấp hành nghiêm chỉnh
các quy định hiện hành của Bộ Lâm nghiệp về thủ tục vận chuyển lâm sản. Nghiêm
cấm việc bán gỗ, lâm sản ngoài kế hoạch không có lệnh của Hội đồng Bộ trưởng và
Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp. Kiểm tra chặt chẽ các ngành, các địa phương, các đơn vị
chế biến trong việc chấp hành chế độ, chính sách về quản lý sử dụng gỗ, lâm sản,
phải thực hiện nghiêm chỉnh chế độ quyết toán vật tư theo Quyết định số
195-HĐBT ngày 14-12-1982 của Hội đồng Bộ trưởng và Chỉ thị số 15-CNR ngày
6-6-1984 của Bộ Lâm nghiệp.
5. Tất cả các liên hiệp, các xí
nghiệp, các công ty sản xuất kinh doanh, chế biến cung ứng lâm sản phải chú ý cải
tiến về cơ chế quản lý, cải tiến chế độ xuất nhập, cung ứng vật tư lâm sản đối
với từng mặt hàng cụ thể, từng khâu trong dây chuyền sản xuất, gắn với nhiệm vụ
và trách nhiệm, chế độ thưởng phạt về lương, tiền... nhằm thực hiện tốt Nghị định
số 217-CP ngày 8-6-1979 của Hội đồng Chính phủ về 4 chế độ (chế độ trách nhiệm,
chế độ kỷ luật, chế độ bảo vệ của công và chế độ phục vụ nhân dân), mang lại
năng suất, chất lượng và hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh lâm nghiệp, củng
cố bổ sung các nội quy, chế độ bảo vệ ở khu vực kho tàng, bãi bến, cơ quan, xí
nghiệp. Tiến tới chấm dứt mọi việc thanh lý rừng trồng không thành rừng, gỗ và
lâm sản bị cháy, bị mục ải, mất mát,... trừ trường hợp do thiên tai, địch hoạ đột
xuất.
6. Tăng cường các hoạt động
thanh tra, kiểm tra các đơn vị, địa phương trong việc chấp hành các quy định của
Nhà nước, của ngành về công tác bảo vệ rừng và quản lý vật tư lâm sản. Nghiên cứu
dự thảo trình Nhà nước ban hành các chế độ, chính sách khuyến khích bảo vệ rừng,
quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm vật tư lâm sản; sửa đổi bổ sung kịp thời
các văn bản của ngành về các biện pháp công tác bảo vệ rừng, khai thác, chế biến,
cung ứng lâm sản cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ mới, cơ chế quản lý mới.
7. Tiến hành công tác điều tra
cơ bản, phân loại cán bộ làm trong sạch nội bộ, phát hiện kịp thời những người
không đủ phẩm chất chính trị, sa đoạ biến chất ra khỏi các bộ phận thiết yếu,
quan trọng như quản lý sản xuất, kế hoạch, vật tư, cung ứng, tài vụ, kiểm lâm
nhân dân, vận chuyển, thủ kho, bảo vệ, v.v... Bảo đảm bộ máy tổ chức trong sạch
vững mạnh đủ sức làm tròn nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước giao cho mỗi đơn vị cơ sở.
Chú ý củng cố lực lượng bảo vệ, kiểm lâm nhân dân, thanh tra vững về chính trị
tư tưởng, mạnh về tổ chức, được trang bị các thứ cần thiết, và tạo điều kiện
cho lực lượng này hoàn thành tốt nhiệm vụ.
8. Phối hợp chặt chẽ với các cơ
quan công an, kiểm sát, toà án để kịp thời điều tra, xử lý nghiêm minh những vụ
phá hoại, gây cháy rừng, phá rừng trái phép, gây thiệt hại tài nguyên rừng
nghiêm trọng; những vụ tham ô, trộm cắp, đầu cơ buôn bán tàng trữ, vận chuyển,
kinh doanh trái phép lâm sản; những cá nhân, đơn vị làm trái chế độ, chính sách
của Đảng, Pháp luật của Nhà nước trong công tác bảo vệ rừng, quản lý vật tư lâm
sản hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm gây thiệt hại lớn đến tài nguyên rừng và vật
tư lâm sản.
9. Tham mưu cho cấp uỷ, Uỷ ban
Nhân dân các cấp tổ chức các biện pháp bảo vệ rừng, quản lý vật tư lâm sản, tạo
được mối quan hệ phối hợp bảo vệ rừng giữa các đơn vị ngành Lâm nghiệp với các
đơn vị khác và nhân dân địa phương. Có chế độ khen thưởng thoả đáng về tinh thần,
vật chất cho những tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác bảo vệ rừng và
quản lý vật tư lâm sản, nghiêm khắc xử lý những đơn vị, cá nhân vi phạm pháp lệnh
quy định việc bảo vệ rừng và các chế độ, chính sách của Nhà nước về lâm nghiệp.
10. Phối hợp chặt chẽ với các
đơn vị quân đội tổ chức triển khai đến tận cán bộ, chiến sĩ thực hiện nghiêm chỉnh
Chỉ thị số 124-CT ngày 3-9-1981 của Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam
về việc bảo vệ rừng, nghiêm cấm chặt phá rừng.
B. NGÀNH CÔNG AN.
Chịu trách nhiệm tiến
hành mọi biện pháp để phòng ngừa và đấu tranh chống bọn phản cách mạng, bọn tội
phạm kinh tế, tội phạm hình sự và cùng với các đơn vị của ngành Lâm nghiệp phối
hợp bảo vệ an ninh chính trị, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, giữ gìn trật tự
an toàn xã hội các cơ sở sản xuất, kinh tế, dịch vụ của ngành lâm nghiệp và
nhân dân nơi liền rừng, gần rừng. Cụ thể là:
1. Phối hợp chặt chẽ với các đơn
vị trong ngành Lâm nghiệp tiến hành các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, đấu
tranh với mọi hành vi phá hoại tài nguyên rừng, phát động phong trào quần chúng
bảo vệ an ninh Tổ quốc, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa. Tuyên truyền giáo dục
tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ rừng, bảo vệ lâm sản cho cán bộ chiến sỹ
công an nhân dân, cán bộ nhân dân nơi có rừng, liền rừng. Tiến hành điều tra xử
lý nghiêm minh mọi âm mưu, hành động chống đối, phản tuyên truyền và phá hoại
kinh tế trong việc cải tạo và phát triển nghề rừng.
2. Giúp ngành Lâm nghiệp phát hiện
những người không đủ tư cách, phẩm chất chính trị, sa đoạ, biến chất, quan hệ
sinh hoạt bất minh, bọn gian thương móc ngoặc với các phần tử xấu trong nội bộ
đầu cơ, ăn cắp gỗ v.v... kiến nghị điều chuyển ra khỏi những bộ phận thiết yếu
quan trọng có liên quan đến tài sản. Có kế hoạch giúp ngành Lâm nghiệp xây dựng
lực lượng kiểm lâm nhân dân, lực lượng bảo vệ chuyên trách, và các thiết bị
phòng chữa cháy rừng; giúp huấn luyện nghiệp vụ (điều tra, phòng ngừa, ngăn chặn).
3. Trên từng địa phương, địa bàn
công tác, các đơn vị công an nhân dân có trách nhiệm phối hợp với lực lượng kiểm
lâm nhân dân, lực lượng bảo vệ rừng quản lý, giáo dục các đối tượng chuyên lén
lút phát, đốt trái phép rừng làm nương, chặt trái phép cây rừng, săn bắt trái
phép chim thú, buôn bán trái phép lâm sản; tham gia cùng lực lượng kiểm lâm
nhân dân, quân đội nhân dân mở những đợt truy quét bọn phá rừng, xoá các tụ điểm
buôn bán lâm sản.
4. Phối hợp chặt chẽ với ngành
Lâm nghiệp từ Trung ương đến các đơn vị cơ sở phát hiện và đấu tranh với những
cá nhân, đơn vị vi phạm chế độ chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
trong lâm nghiệp. Kiên quyết đưa ra xử lý trước pháp luật những vụ phá rừng
trái phép, gây cháy rừng, tham ô, đầu cơ, tàng trữ, vận chuyển và kinh doanh
trái phép lâm sản gây thiệt hại lớn đến tài nguyên rừng. Đối với những vụ vi phạm
nếu thấy có những dấu hiệu phạm tội, thì cơ quan công an phối hợp ngay với cơ
quan kiểm lâm nhân nhân tiến hành điều tra, lập hồ sơ chuyển sang Viện Kiểm sát
nhân dân truy tố trước pháp luật.
5. Thường xuyên theo dõi phát hiện
những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý bảo vệ rừng, quản lý vật tư lâm sản
để thông báo cho ngành Lâm nghiệp và kiến nghị các biện pháp khắc phục.
6. Hỗ trợ lực lượng kiểm lâm
nhân dân khi có yêu cầu để kiểm soát việc vận chuyển gỗ và lâm sản, phát hiện
và có biện pháp ngăn chặn kịp thời các vi phạm về vận chuyển trái phép gỗ và
lâm sản.
7. Kịp thời nắm tình hình phát
hiện mọi sự va chạm giữa các đơn vị lâm nghiệp với nhân dân địa phương và với
các cơ quan khác để đề xuất với cấp uỷ, chính quyền các biện pháp giải quyết.
C. ĐỐI VỚI UỶ BAN
NHÂN DÂN CÁC CẤP:
Công tác quản lý bảo
vệ rừng, sản xuất kinh doanh khai thác, chế biến lâm sản có liên quan đến nhiều
ngành, nhiều địa phương và thường có nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh. Vì vậy,
công tác bảo vệ rừng, quản lý thống nhất vật tư lâm sản phải đặt dưới sự lãnh đạo
trực tiếp, thường xuyên của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương các cấp mới huy
động được sức mạnh tổng hợp cùng tham gia, trong đó lực lượng kiểm lâm nhân dân
và lực lượng công an nhân dân làm nòng cốt. Vì vậy, lực lượng kiểm lâm nhân dân
và lực lượng công an nhân dân phải xác định là lực lượng tham mưu và xung kích
của cấp uỷ và chính quyền địa phương để thực hiện các biện pháp sau đây:
1. Phát động phong trào quần
chúng bảo vệ rừng, quản lý vật tư lâm sản và các vật tư tài sản khác của ngành
Lâm nghiệp cho cán bộ, công nhân viên các đơn vị, cơ quan và nhân dân địa
phương, tạo được sự chuyển biến rõ rệt về nhận thức trách nhiệm cho mọi người,
mọi cơ quan trong công tác bảo vệ và tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh Pháp lệnh
quy định việc bảo vệ rừng, các chế độ, thể lệ, pháp luật về lâm nghiệp.
2. Thực hiện quyền quản lý Nhà
nước trên phạm vi lãnh thổ theo đúng Nghị quyết số 52-HĐBT ngày 23-2-1985 của Hội
đồng Bộ trưởng về cải tiến quản lý các lâm trường quốc doanh và các văn bản
pháp luật khác của Nhà nước, của Bộ Lâm nghiệp. Đặc biệt có biện pháp nghiêm cấm
phá rừng trái phép làm nương rẫy và trồng cây công nghiệp. Khi cần tổ chức các
nông trường trồng cây công nghiệp phải có quy hoạch xin phép được cấp có thẩm
quyền xét duyệt; tổ chức phòng cháy, chữa cháy rừng, phòng chống sâu bệnh bảo đảm
giữ cho được diện tích rừng hiện còn, chống mọi hành vi tiêu cực tác động vào rừng
và vật tư lâm sản.
3. Có kế hoạch cụ thể chỉ đạo
ngành Lâm nghiệp, Công an nhân dân và các ngành khác trong địa phương triển
khai thực hiện thông tư này. Định kỳ nghe thủ trưởng hai ngành Lâm nghiệp và
Công an nhân dân báo cáo tình hình thực hiện công tác bảo vệ rừng, bảo vệ lâm sản
để có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời.
4. Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành
phố, đặc khu chỉ đạo Uỷ ban Nhân dân các huyện, thị tổ chức thực hiện đầy đủ nội
dung quy định trong thông tư này.
III. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
1. Thông tư này sau
khi ban hành, hai Bộ Lâm nghiệp - Nội vụ có kế hoạch, biện pháp cụ thể hướng dẫn
cho từng ngành để quán triệt và chấp hành nghiêm chỉnh, đồng thời hai Bộ thường
xuyên thông báo cho nhau về tình hình kết quả thực hiện Thông tư này. Cuối quý
IV hàng năm, lãnh đạo hai Bộ họp để đánh giá kết quả thực hiện Thông tư này và
đề ra biện pháp thực hiện cho năm tới.
2. Giám đốc các Sở Lâm nghiệp,
Giám đốc Công an các tỉnh, thành phố, đặc khu có trách nhiệm xây dựng kế hoạch
cho lực lượng mình tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền các cấp chỉ đạo thực hiện
triệt để Thông tư này và các thông tư liên Bộ Lâm nghiệp - Nội vụ số 4-TTLB, số
9-TTLB đã ban hành và chủ trì họp các ngành có liên quan triển khai thực hiện.
3. Hàng quý, 6 tháng Giám đốc
Công an tỉnh, thành phố và đặc khu, Giám đốc Sở Lâm nghiệp họp kiểm điểm kết quả
thực hiện ở địa phương mình, làm báo cáo lên cấp uỷ, chính quyền địa phương và
hai Bộ.
4. Ba tháng, 6 tháng một lần các
Cục cảnh sát kinh tế, an ninh kinh tế, phòng cháy chữa cháy (Bộ Nội vụ), Cục kiểm
lâm nhân dân, Ban thanh tra, phòng bảo vệ nội bộ (Bộ Lâm nghiệp) họp giao ban để
kiểm điểm việc thực hiện Thông tư này, Cục Kiểm lâm nhân dân chuẩn bị nội dung.
Thông tư này có hiệu lực thi
hành kể từ ngày ký.
Phan
Thanh Xuân
(Đã
ký)
|
Trần
Quyết
(Đã
ký)
|