BỘ NÔNG NGHIỆP
******
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 03-NN/CV/CN
|
Hà Nội , ngày 03
tháng 07 năm 1978
|
HƯỚNG DẪN VIỆC SỬ DỤNG 10%-15% ĐẤT CHO CHĂN NUÔI
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành trung
ương Đảng lần thứ hai đã nêu rõ: “Ngoài việc hướng dẫn nông dân sử dụng tốt đất
kinh tế phụ gia đình để sản xuất thức ăn gia súc, phải kiên quyết dành 10-15%
diện tích trồng trọt của các hợp tác xã để sản xuất thức ăn gia súc và hình
thành ở từng tỉnh, từng huyện những vùng chuyên sản xuất thức ăn gia súc”. Tiếp
đó Thủ tướng Chính phủ đã có Thông tư số 291-TTg ngày 19-05-1978 về việc dành từ
10 đến 15% đất để sản xuất thức ăn, phát triển chăn nuôi trong các hợp tác xã sản
xuất nông nghiệp.
Để thực hiện tốt chủ trương này, Bộ
hướng dẫn các địa phương một số vấn đề sau đây.
I. VẤN ĐỀ DÀNH ĐẤT
Dành từ 10 đến 15% đất sản xuất thức
ăn chủ yếu là để phát triển chăn nuôi tập thể, tăng cường kinh tế hợp tác xã. Tỷ
lệ này tính theo diện tích canh tác của từng huyện. Huyện căn cứ vào yêu cầu
phân bón, trình độ và khả năng chăn nuôi của từng hợp tác xã mà quy định cụ thể
tỷ lệ dành đất cho hợp lý.
Những hợp tác xã có kinh nghiệm
chăn nuôi tốt, có thể dành trên 15%. Những hợp tác xã yếu kém, chăn nuôi tập thể
còn ít hoặc chưa chăn nuôi thì dành đất ít hơn. Nhưng tính chung trên địa bàn
huyện phải phấn đấu dành từ 10 đến 15% đất cho chăn nuôi.
Dành từ 10 đến 15% đất sản xuất thức
ăn cho chăn nuôi tập thể bao gồm chăn nuôi lợn, chăn nuôi trâu bò, gia cầm, cá
và dành một phần hỗ trợ chăn nuôi gia đình. Tùy theo phương hướng sản xuất kinh
doanh của từng hợp tác xã, ở từng vùng khác nhau mà tỷ lệ dành đất để sản xuất
thức ăn cho từng loại gia súc khác nhau, hợp tác xã được phân công chuyên nuôi
loại gia súc nào thì tập trung đất để sản xuất thức ăn cho loại gia súc đó.
Nhìn chung hướng kinh doanh của các hợp tác xã vùng đồng bằng hiện nay chủ yếu
là chăn nuôi lợn và gia cầm, các hợp tác xã ở miền núi và vùng bán sơn địa cầu
cần chú ý phát triển chăn nuôi trâu bò.
Hiện nay nhiều nơi chăn nuôi tập thể
còn yếu, việc quản lý, chế biến, sử dụng thức ăn còn tùy tiện, cơ sở chuồng trại
và giống gia súc còn thiếu, vì vậy việc dành đất cần được thực hiện từng bước,
nhưng cũng không vì thế mà dè dặt. Phải bằng mọi cách tổ chức quản lý sử dụng tố
diện tích này để tạo thế cho chăn nuôi từng bước phát triển vững chắc.
Phấn đấu đến năm 1980 các huyện đồng
bằng, trung du dành 15% đất, vùng núi dành 10%, vùng thâm canh lúa dành từ 18 đến
20%, vùng thực phẩm có thể dành từ 30 đến 40% đất cho chăn nuôi.
II. TỔ CHỨC SẢN
XUẤT
Tổ chức sản xuất thức ăn là một vấn
đề quan trọng. Tổ chức sản xuất tốt sẽ nâng cao sản lượng và chất lượng thức
ăn, bảo đảm tính chất tương đối độc lập của ngành chăn nuôi. Có thể tổ chức sản
xuất thức ăn theo các hình thức sau đây:
1. Dành diện tích và lao động tổ
chức đội chuyên sản xuất thức ăn trong phạm vi từng hợp tác xã.
Từng hợp tác xã dành diện tích, cắt
lao động thành lập đội chuyên sản xuất thức ăn. Đội chuyên này hợp đồng chặt chẽ
với đội chăn nuôi và các đội chuyên khác để bố trí thời vụ gieo trồng, thời
gian thu hoạch, bố trí cơ cấu cây trồng phù hợp với kế hoạch chăn nuôi, dưới sự
điều hành chung của ban quản trị hợp tác xã. Hình thức tổ chức đội chuyên có thể
lấy lao động ở nhiều đội hoặc cắt hộ theo chóm xóm. Toàn bộ sản phẩm của đội
chuyên này do đội chăn nuôi quản lý sử dụng. Lao động trong đội chuyên được
phân phối sản phẩm giống như lao động ở các đội chuyên khác. Đây là hình thức tổ
chức sản xuất thức ăn chủ yếu làm phổ biến trong các hợp tác xã.
2. Tổ chức hợp tác xã chuyên sản
xuất thức ăn trong cụm.
Trên địa bàn huyện hiện nay hình
thành những cụm kinh tế kỹ thuật gồm từ 6 đến 10 hợp tác xã với diện tích canh
tác khoảng từ 2 đến 3 ngàn hécta, diện tích dành cho chăn nuôi có từ 300 đến
500 hécta. Dưới sự điều hành và phân công của huyện, các hợp tác xã hợp đồng
giao cho từ một đến hai hợp tác xã có điều kiện thuận lợi chuyên trồng thức ăn.
Tại đây sẽ xây dựng cơ sở chế biến thức ăn. Số thức ăn sau khi được chế biến sẽ
phân phối cho các hợp tác xã trong cụm để chăn nuôi. Phần lương thực bán cho
Nhà nước theo kế hoạch, các hợp tác xã khác trong cụm phải làm thay. Làm theo
cách này là thể hiện sự phân công và hợp tác trong sản xuất.
3. Tổ chức vùng chuyên canh sản
xuất thức ăn.
Trên phạm vi huyện, tỉnh, có những
vùng đất thích hợp với việc trồng thức ăn gia súc, như vùng màu, vùng bãi ven
sông. Tỉnh, huyện có thể quy hoạch phân công những hợp tác xã nằm trong vùng
này chuyên canh cây thức ăn gia súc. Sản phẩm làm ra ở vùng này được chế biến
thành thức ăn phân phối lại cho các hợp tác xã để chăn nuôi. Huyện và tỉnh chịu
trách nhiệm chỉ đạo và điều hành thức ăn, kế hoạch sản xuất lương thực, bảo đảm
lương thực cho người, lương thực bán cho Nhà nước và thức ăn cho gia súc.
Mặt khác phải đảm bảo đường lối
chính sách, sự công bằng hợp lý giữa các hợp tác xã. Tổ chức sản xuất theo hình
thức này là thể hiện sự tập trung, phân công và chuyên môn hóa cao để xây dựng
vùng chuyên canh cây thức ăn gia súc, tiền đề của ngành chăn nuôi quy mô lớn.
Tuy thế với trình độ quản lý của các hợp tác xã hiện nay, hai hình thức tổ chức
hợp tác xã chuyên sản xuất thức ăn và xây dựng vùng chuyên canh chỉ nên làm thí
điểm ở một số huyện có điều kiện để rút kinh nghiệm mở rộng vào các năm sau.
4. Trích sản lượng lương thực để
chăn nuôi.
Trong vụ sản xuất đầu, khi chưa tổ
chức được đội chuyên có thể tạm thời trích sản lượng lương thực làm thức ăn cho
chăn nuôi. Sau khi đã trừ diện tích trồng rau, hợp tác xã căn cứ vào sản lượng
lương thực thu được trích theo tỷ lệ diện tích còn lại, giao cho đội chăn nuôi
quản lý. Đội chăn nuôi có tổ chức kho riêng để quản lý sử dụng
5. Đối với các tỉnh phía Nam.
Ở các tỉnh phía Nam nơi nào có hợp
tác xã và các tổ chức làm ăn tập thể, cần dành đất, lao động để tổ chức sản xuất
thức ăn theo những hình thức trên. Trong điều kiện chưa có hợp tác xã, khi tiến
hành quy hoạch sản xuất nông nghiệp, tỉnh và huyện cần chú ý hình thành những
vùng chuyên canh sản xuất thức ăn để cung cấp nguyên liệu cho các xí nghiệp chế
biến thức ăn gia súc, tạo tiền đề cho những vùng chăn nuôi lớn sau này.
III. SỬ DỤNG ĐẤT
DÀNH CHO CHĂN NUÔI
Đất dành để chăn nuôi phải được sử
dụng tốt, phấn đấu đạt yêu cầu: khối lượng thức ăn nhiều, chất lượng thức ăn tốt,
phù hợp với chăn nuôi, có tác dụng bồi dưỡng và cải tạo đất. Để đạt được yêu cầu
trên, đất dành trồng thức ăn nên tập trung thành vùng, có điều kiện tưới tiêu
nước, đất trồng màu có điều kiện thâm canh tăng vụ. Đối với các tỉnh miền núi
và trung du ruộng ít, có thể sử dụng một nửa là đất đồi để sản xuất thức ăn, bảo
đảm lương thực cho người và thức ăn gia súc. Vùng đồng bằng sản xuất thức ăn chủ
yếu là để chăn nuôi lợn và gia cầm, nhưng ở những nơi trâu bò cày thiếu thức
ăn, cũng cần dành một ít diện tích trồng cỏ thâm canh nuôi trâu bò. Tùy theo điều
kiện bãi chăn thả và khả năng tận dụng cỏ tự nhiên, mà huyện quy định mức cụ thể
diện tích cho một trâu bò; nói chung một trâu bò không quá 360m2 .
Các huyện miền núi và bán sơn địa chăn nuôi trâu bò đàn thì chủ yếu trồng thức
ăn cho trâu bò, nhưng những vùng thấp vẫn phải trồng thức ăn để chăn nuôi lợn
và gia cầm tập thể. Trên diện tích dành cho chăn nuôi phải phấn đấu đạt mục
tiêu: trên 1 hécta canh tác trong một năm sản xuất thức ăn tinh phải đạt từ 6 đến
10 tấn (quy ra bột khô),. Trồng rau xanh 1 hécta phải đạt từ 100 đến 200 tấn.
Trồng đậu đỏ 1 hécta đạt từ 2,5 đến 3 tấn. Nếu trồng cỏ phải đạt từ 80 đến 100
tấn/hécta. Để bảo đảm mục tiêu trên, từng vùng phải lựa chọn một tập đoàn cây
thức ăn thích hợp và bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý. Trong việc bố trí cơ cấu
cây trồng trên đất chăn nuôi cần chú ý:
- Hiện nay nhiều nơi còn sử dụng thức
ăn tinh chủ yếu là thóc mà thóc là lương thực quý. Ở những vùng có điều kiện trồng
màu cần phát triển hoa màu thay cho thóc làm thức ăn gia súc, như ngô, cao
lương, các loại khoai sắn. Phát triển màu thành những vùng chuyên canh lớn
gắn liền với các xí nghiệp chế biến thức ăn gia súc. Những vùng chuyên canh lúa
có năng suất cao thì tiếp tục sản xuất lúa để đổi cho ngành lương thực lấy màu
chăn nuôi.
- Rau xanh hiện nay sử dụng để chăn
nuôi chủ yếu là rau trồng ruộng nước. Phải chú ý phát triển rau trên cạn, các
loại cỏ hòa thảo, cây họ đậu ở vùng núi và trung du để có thể nâng cao năng suất
và chất lượng thức ăn.
- Thức ăn giàu đạm cần với số lượng
ít, nhưng rất quyết định trong thâm canh chăn nuôi nhất là trong điều kiện nuôi
dưỡng các giống gia súc cao sản. Ngoài việc trồng các cây họ đậu thu hạt, có thể
trồng các cây họ đậu thu hoạch thân, lá như Stylo, đậu hồng đáo. Thân, lá cho
gia súc ăn ở dạng xanh tươi hoặc bột khô, Mặt khác phải chú ý nuôi thả cá, tận
dụng các nguồn hải sản chế biến thành thức ăn bổ sung đạm cho gia súc.
IV. TỔ CHỨC CHẾ
BIẾN, QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG THỨC ĂN
1.Tổ chức chế biến
Thức ăn sản xuất trên đất dành cho
chăn nuôi cần được chế biến để nâng cao giá trị dinh dưỡng. Ngành nông nghiệp ở
các cấp phối hợp với ngành lương thực tổ chức trao đổi thức ăn giữa các hợp tác
xã, các vùng để thức ăn thêm phong phú. Nên khuyến khích, giúp đỡ việc trao đổi
thức ăn giữa vùng lúa và vùng màu, giữa vùng đồng bằng, trung du và miền núi,
giữa vùng có khả năng sản xuất thức ăn tinh và vùng có khả năng sản xuất
thức ăn giàu đạm, trong phạm vi tỉnh, huyện và các tỉnh với nhau. Những nơi trồng
lúa trên đất dành cho chăn nuôi, ngành nông nghiệp và lương thực sẽ hướng dẫn đổi
hoa màu lấy thóc để sử dụng lương thực cho người và thức ăn gia súc một cách hợp
lý. Tỷ lệ đổi như sau: một kilôgam thóc tương đương với một kilôgam ngô, một
kilôgam cao lương, một kilôgam mì nghiền, giá cả trao đổi theo giá chỉ đạo. Cước
phí vận chuyển, chi phí nghiền hạt, ngành lương thực chịu (sẽ có thông tư liên
Bộ Nông nghiệp – Lương thực thực phẩm hướng dẫn cụ thể việc đổi thóc, màu, mì).
Việc đổi thóc lấy mì, hoa màu đã chế
biến để chăn nuôi cần được chỉ đạo chặt chẽ. Ủy ban nhân dân các cấp giao cho
ngành nông nghiệp và lương thực tổ chức đổi, toàn bộ thóc dùng để chăn nuôi có
thể chuyển ngay cho Nhà nước, nhưng đồng thời cũng phải chuyển ngay mì, hoa màu
đã chế biến về cho hợp tác xã để chủ động có thức ăn cho gia súc. Để nâng cao
chất lượng thức ăn và để đảm bảo việc quản lý thức ăn cho chăn nuôi được chặt
chẽ, các địa phương phải chú trọng tăng cường việc chế biến thức ăn theo lối
công nghiệp. Có thể tổ chức các hình thức chế biến sau đây:
- Thành lập các cơ sở nghiền trộn
thức ăn ở từng cụm hợp tác xã theo hình thức nghiền trộn gia công. Liên doanh
giữa các hợp tác xã trong cụm hoặc trạm chế biến thức ăn của huyện. Nguyên liệu
chủ yếu là thức ăn tinh, thức ăn giàu đạm sản xuất trên đất chăn nuôi của các hợp
tác xã, ngoài ra có một số thức ăn đạm khoáng sinh cô do tỉnh và công ty thức
ăn chăn nuôi trung ương cung cấp.
- Trên địa bàn huyện, tỉnh nếu có
các xí nghiệp chế biến thức ăn do trung ương và tỉnh quản lý, có thể chế biến
thức ăn cho các hợp tác xã xung quanh trên nguyên tắc hợp đồng hai chiều: mua
nguyên liệu và bán sản phẩm.
Với hai hình thức trên đây trong
vài năm tới cũng chưa bảo đảm chế biến hết các loại thức ăn cho hợp tác xã, do
đó, từng hợp tác xã vẫn có thể trang bị các loại máy nghiền như NĐ-500, NB-60 để
nghiền thức ăn cho chăn nuôi tập thể và chăn nuôi gia đình.
2. Quản lý và sử dụng thức ăn.
Thức ăn dành cho chăn nuôi cần được
quản lý chặt chẽ và sử dụng đúng hướng để tạo điều kiện cho chăn nuôi phát triển.
Thức ăn dành cho chăn nuôi tập thể
hợp tác xã tự quản lý và chỉ được phép dùng cho chăn nuôi. Nghiêm cấm sử dụng
vào các việc khác. Huyện cần giám sát và kiểm tra chặt chẽ việc quản lý và sử dụng
số thức ăn này, phát hiện và xử lý kịp thời những trường hợp sử dụng thức ăn
không đúng hướng.
Trong điều kiện hiện nay, chăn nuôi
gia đình cần được hỗ trợ và khuyến khích nhất là những gia đình nuôi lợn nái và
đực giống. Do đó có thể trích một phần thức ăn tinh (nhưng không quá 20% sản lượng
thức ăn tinh sản xuất trên đất 10 – 15%) để bán hỗ trợ cho chăn nuôi gia đình.
Đối tượng hỗ trợ là những gia đình nuôi lợn nái, lợn đực giống, lợn hậu bị theo
kế hoạch hợp tác xã giao, tùy theo số lượng thức ăn mà huyện, tỉnh quy định cụ
thể mức bán thức ăn cho lợn con và lợn hậu bị, nói chung một kilôgam lợn con giống
bán hỗ trợ không quá 1,5 kilôgam thức ăn, một kilôgam lợn hậu bị không quá 2
kilôgam, một lợn đực giống đủ tiêu chuẩn được hỗ trợ không quá 60 kilôgam thức
ăn trong một năm.
Thức ăn sản xuất trên 10 – 15% đất
ngoài phần trích hỗ trợ cho chăn nuôi gia đình còn lại sử dụng cho chăn nuôi tập
thể, chủ yếu là chăn nuôi lợn. Những hợp tác xã được phân công chuyên nuôi trâu
bò sữa, trâu bò thịt, gà công nghiệp, vịt đàn thì có thể sử dụng một phần thức
ăn cho những con đó.
Hiện nay trình độ quản lý chăn nuôi
tập thể của các hợp tác xã còn yếu, một số hợp tác xã quy mô chăn nuôi còn nhỏ,
chuồng trại còn thiếu. Vì vậy, trong một hai năm trước mắt chưa sử dụng hết thức
ăn, hợp tác xã có thể thí điểm hợp đồng với xã viên để sản xuất thịt bán cho
Nhà nước và phân bón cho hợp tác xã. Thực hiện thí điểm chăn nuôi hợp đồng cần
chỉ đạo chặt chẽ. Chỉ những gia đình nào hoàn thành kế hoạch chăn nuôi của hợp
tác xã đã giao và bán đủ kế hoạch thực phẩm cho Nhà nước mới được nhận hợp đồng
thêm. Huyện có trách nhiệm quản lý, điều hành chung số thức ăn dành để thí điểm
chăn nuôi hợp đồng và thức ăn hỗ trợ cho chăn nuôi gia đình. Số lượng thức ăn
dùng để thí điểm chăn nuôi hợp đồng không được quá 30% tổng số thức ăn tinh sản
xuất trên 10 – 15% đất ở những nơi có điều kiện chế biến thức ăn hỗ trợ chăn
nuôi gia đình và thức ăn dùng để thí điểm hợp đồng chăn nuôi nên chế biến tập
trung để vừa nâng cao chất lượng vừa quản lý chặt chẽ thức ăn. Tùy theo chất lượng
thức ăn có thể giao mức thức ăn cao thấp khác nhau, nói chung một kilôgam thịt
lợn hơi không giao vượt quá 4 kilôgam thức ăn tinh. Việc tổ chức và chỉ đạo thí
điểm chăn nuôi hợp đồng cho gia đình xã viên cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa
ngành nông nghiệp và hội phụ nữ các cấp, thông qua các tổ kinh tế phụ gia đình.
Các hợp tác xã cần phấn đấu phát triển chăn nuôi tập thể để sử dụng hết thức
ăn. Trong khi áp dụng hình thức thí điểm chăn nuôi hợp đồng, nghiêm cấm giao ruộng
đất cho gia đình xã viên.
V. GIAO KẾ HOẠCH
CHĂN NUÔI VÀ HỢP ĐỒNG THU MUA THỰC PHẨM
Dành 10 – 15% đất sản xuất thức ăn
để phát triển chăn nuôi nhằm giải quyết thực phẩm cho người, hàng hóa cho xuất
khẩu và phân bón cho thâm canh cây trồng. Với ý nghĩa đó, hợp tác xã phải xây dựng
kế hoạch chăn nuôi dựa trên cơ sở nguồn thức ăn sản xuất trên đất dành cho chăn
nuôi và các nguồn thức ăn tận dụng khác. Huyện cần xem xét cụ thể trình độ chăn
nuôi, năng suất cây trồng, tập quán chăn nuôi của từng hợp tác xã mà phân công
nuôi loại gia súc nào, quy mô bao nhiêu cho hợp lý. Trên diện tích 10 -15% đất
sản xuất thức ăn, Nhà nước không giao kế hoạch bán lương thực mà chỉ giao kế hoạch
bán thực phẩm. Nhưng sau một năm dành thêm đất để phát triển chăn nuôi, có thêm
phân bón, các hợp tác xã phải thâm canh tăng năng suất cây trồng, tăng tổng sản
lượng, lương thực cao hơn trước. Khi giao kế hoạch chăn nuôi, huyện giao cả chỉ
tiêu thu mua thực phẩm. Mức thu mua theo nghị quyết số 86-CP của Hội đồng Chính
phủ, cụ thể như sau:
- Mỗi hecta ruộng năng suất dưới 4
tấn thóc, bán 460 kilôgam thịt lợn hơi;
- Từ 4 đến 5 tấn thóc/hécta bán từ
461 đến 560 kilôgam thịt lợn hơi;
- Từ 5 đến 6 tấn thóc/hécta bán từ
561 đến 700 kilôgam thịt lợn hơi;
- Từ 6 tấn thóc/hécta trở lên bán từ
701 đến 800 kilôgam thịt lợn hơi.
Nếu chăn nuôi gia cầm, trâu bò sữa,
trâu bò thịt thì thu mua 90% sản phẩm kế hoạch đã giao. Ngoài ra hợp tác xã có
thể bán số sản phẩm vượt kế hoạch cho Nhà nước theo giá thưởng.
Dành từ 10 đến 15% đất để sản xuất
thức ăn cho chăn nuôi là một chủ trương hết sức quan trọng, nhằm tạo ra nguồn
thức ăn gia súc dồi dào làm cơ sở vững chắc cho chăn nuôi phát triển, tạo thế
cân đối mới giữa chăn nuôi và trồng trọt.
Do đó Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố, các huyện và cơ quan nông nghiệp các cấp cần có kế hoạch chỉ đạo, hướng dẫn
các hợp tác xã thực hiện tốt chủ trương này.
Trong quá trình thực hiện ở cơ sở
có những khó khăn vướng mắc cần báo cáo ngay về Bộ để kịp thời giải quyết.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG NGHIỆP
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Ngọc Trìu
|