NHA
KHÍ TƯỢNG
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
01-VLĐC
|
Hà
Nội, ngày 19 tháng 08 năm 1967
|
THÔNG TƯ
GIẢI THÍCH VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH SỐ 121-CP NGÀY
08-08-1967 CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC TÍNH LỊCH VÀ QUẢN LÝ LỊCH CỦA NHÀ NƯỚC
Ngày 08-08-1967 Hội đồng Chính
phủ đã ra quyết định về việc tính lịch và quản lý lịch của Nhà nước. Để thấu
triệt ý nghĩa và thống nhất việc thi hành, Nha Khí tượng giải thích một số điểm
sau đây:
I. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA VIỆC
BAN HÀNH QUYẾT ĐỊNH.
Đồng hồ và cuốn lịch là những
phương tiện cần thiết cho hoạt động của xã hội. Việc định giờ chính thức và lịch
chính thức là quyền hạn của Nhà nước. Ngày nay, với sự phát triển của các giao
dịch quốc tế và của khoa học kỹ thuật, các nước đã đi đến áp dụng một phương
pháp xác định thời gian thống nhất như sau:
1. Dùng hệ thống múi giờ quốc tế để tính
giờ trong một ngày.
2. Dùng dương lịch để tính ngày, tháng,
năm trong từng năm và trong những khoảng thời gian dài.
Nhà nước ta, từ Cách mạng tháng
tám đến nay, đã định giờ chính thức cho cả nước và vẫn dùng dương lịch như lịch
chính thức. Nhưng có một vấn đề tồn tại chưa được giải quyết dứt khoát về mặt
pháp lý theo đúng quan điểm khoa học:
1. Chưa có văn bản chính thức của Nhà nước
xác nhận giờ chính thức của nước ta theo hệ thống múi giờ quốc tế;
2. Chưa có văn bản công nhận dương lịch
(lịch Grê-goa) là lịch chính thức và quy định vị trí của âm lịch, nói đúng hơn
là lịch cổ truyền, do đó việc dùng lịch còn tùy tiện, có thể dùng dương lịch
hay âm lịch hay cả hai, gây ra nhiều khó khăn trong việc chỉ đạo sản xuất nhất
là đối với nông nghiệp;
3. Hiện nay Nhà nước còn quy định một số
ngày nghỉ chính thức theo âm lịch (Tết Nguyên đán, Phật đản) và trong nhân dân
còn lưu hành một số ngày kỷ niệm lịch sử và lễ cổ truyền theo âm lịch. Âm lịch
có nhiều căn cứ tính và cách tính khác nhau. Vì không có quy định chặt chẽ về mặt
này cho nên đã xảy ra tình trạng âm lịch xuất bản không thống nhất gây ra những
xáo động không cần thiết;
4. Việc làm lịch chưa được Nhà nước quản
lý, cho đến nay chưa chính thức giao cho một cơ quan khoa học đảm nhiệm việc
tính lịch.
Việc dùng tuỳ tiện dương lịch và
âm lịch với những tồn tại trên đây là không hợp lý và bất lợi. Nó không phù hợp
với yêu cầu tiêu chuẩn hóa việc tính toán và ghi chép thời gian theo hệ thống
tiêu chuẩn của Nhà nước. Nó bất lợi cho việc kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân
để phục vụ công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt trong nông nghiệp nó bất
lợi cho việc đẩy mạnh phong trào thâm canh phát triển sản xuất nông nghiệp theo
hướng toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc. Tình trạng đó đã trở ngại cho việc xây dựng
một nếp sống và làm việc theo khoa học. Công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa càng ngày càng đòi hỏi phải thống nhất việc tính thời gian theo dương lịch.
Hiện nay chưa đến lúc bỏ hẳn âm
lịch. Nhưng cần xác định vị trí của âm lịch và thống nhất cách tính âm lịch.
Quyết định của Hội đồng Chính phủ, căn cứ vào mối quan hệ giữa giờ và lịch, đề
ra việc tính âm lịch theo giờ chính thức của nước ta, làm cho âm lịch dùng ở nước
ta từ nay phù hợp với vị trí địa lý của nước ta, do đó nó sẽ chính xác hơn trước.
Hội đồng Chính phủ ra quyết định
cải tiến một bước việc tính lịch và dùng lịch trong lúc cuộc chiến tranh của
nhân dân ta chống đế quốc Mỹ xâm lược đang ở giai đoạn quyết liệt là tỏ rõ quyết
tâm đẩy mạnh cuộc cách mạng kỹ thuật song song với cuộc cách mạng văn hoá và tư
tưởng nhằm củng cố quan hệ sản xuất mới, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, ngay trong điều kiện chiến tranh để tránh để đánh thắng giặc
Mỹ.
II. NỘI DUNG CỤ THỂ CỦA QUYẾT
ĐỊNH
1. Điều 1 xác định rõ
chính thức của nước ta là giờ của múi giờ 7 mà kinh tuyến trung tâm (1050
đông) đi qua gần thủ đô của nước ta. Giờ đó đã được dùng như giờ chính thức từ
Cách mạng tháng tám. Quyết định này nhằm bổ sung căn cứ khoa học cho nghị định
của Bộ Nội vụ ban hành ngày 01/9/1945 về giờ chính thức, chứ không ảnh hưởng gì
đến giờ giấc hiện dùng trong cơ quan Nhà nước và trong sinh hoạt của nhân dân.
Việc xác nhận chính thức còn được
dùng tính lịch.
Trong công tác nghiên cứu khoa học
và thông tin liên lạc với nước ngoài, có thể giờ khác (giờ quốc tế, giờ lịch,
giờ địa phương…) nhưng phải xác định mối quan hệ với giờ chính thức.
2. Điều 2 khẳng định
dương lịch (lịch Grê-goa) là công lịch tức là lịch duy nhất được dùng trong các
cơ quan Nhà nước, trong các tổ chức chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nước
ta, trong giao dịch giữa Nhà nước với nhân dân và giao dịch với nước ngoài.
Hiện nay các cơ quan Nhà nước (hành
chính, tư pháp, chuyên môn) và đoàn thể các cấp, đã dùng dương lịch một cách phổ
biến nhưng vẫn còn một số ngành trong một số công việc chưa tôn trọng triệt
để công lịch, còn ghi ngày tháng theo âm lịch hay theo cả dương lịch và âm lịch.
Bất lợi nhất nói chung là việc đặt kế hoạch sản xuất, nói riêng là việc định thời
vụ nông nghiệp theo âm lịch. Tình trạng đó cần phải chấm dứt. Trong việc chỉ đạo
nông nghiệp cần bỏ hẳn việc lấy ngày, tháng âm lịch để định thời vụ.
Quyết định này bắt buộc phải
dùng dương lịch trong các giấy tờ văn bản của các cơ quan Nhà nước giữa các cơ
quan Nhà nước với nhân dân (thí dụ các đơn từ, các hợp đồng giữa nhân dân và
Nhà nước …).
Về phần âm lịch, thì quyết định
xác nhận là căn cứ để tính ngày Tết dân tộc, một số ngày kỷ niệm lịch sử và lễ
cổ truyền. Như vậy là vẫn giữ nguyên những ngày lễ hiện hành còn tính theo âm lịch.
Trong số đó, có những ngày thuần túy là ngày mặt trăng, có âm lịch mới tính được,
như ngày Tết đầu năm âm lịch,ngày trung thu, rằm tháng tám v.v… nhưng cũng có
những ngày lịch sử như ngày giỗ Tổ Hùng Vương, ngày kỷ niệm Hai Bà Trưng… sau
này có thể chuyển sang dương lịch để thống nhất với cách tính các ngày lễ chính
thức.
Như vậy là âm lịch chỉ cần dùng
trong việc định một số ngày lễ cổ truyền, ngoài ra thì các sinh hoạt tập thể và
công cộng hoàn toàn có thể tính theo dương lịch.
3. Điều 3 đề ra việc sửa
đổi cách tính âm lịch cho phù hợp với vị trí của nước ta. Âm lịch từ nay phải
căn cứ vào giờ chính thức của nước ta trong khi tính các tuần trăng, có như vậy
mới đúng với ngày giờ xuất hiện mặt trăng trên đất nước ta. Theo cách tính cũ
thì các ngày mồng một không có trăng có thể chậm hơn một ngày, do đó tháng đủ,
tháng thiếu, năm nhuận, tháng nhuận có thể xê xích đi. Nay tính theo giờ chính
thức của nước ta để cho chính xác hơn thì nhất định sẽ có những ngày Tết, những
tháng nhuận, những năm nhuận khác với các lịch cũ.
Theo quyết định của Hội đồng
Chính phủ tất cả các loại âm lịch còn tồn tại ở nước ta đều không thể dùng để
tính ngày tháng âm lịch được kể từ ngày 01/01/1968. Bảng ngày tháng âm lịch
dùng làm căn cứ để Bộ Nội vụ định các ngày lễ lớn hàng năm sẽ do Nha khí tượng
tính theo điều 3 này.
Việc sửa đổi này mở đường cho
công tác tính âm lịchở nước ta thành một công tác khoa học gắn liền với các tiến
bộ về thiên văn học trong nước và trên thế giới. 4. Điều 4
nêu rõ trách nhiệm quản lý công tác làm lịch thuộc về Nhà nước. Nha khí tượng
là cơ quan chuyên trách về các lịch thiên văn, được giao nhiệm vụ biên soạn bảng ngày
tháng âm lịch hàng năm, lập các bảng đối chiếu ngày tháng âm và dương lịch và
quản lý một số việc về lịch mà Chính phủ sẽ quy định cụ thể như sau.
Việc xuất bản và phát hành lịch
phổ thông lưu hành trong nhân dân vẫn do Tổng cục thông tin đảm nhiệm. Các loại
lịch xuất bản: lịch tường, lịch túi, lịch bàn,… đều phải ghi ngày tháng dương lịch
là chính, ngoài ra có thể ghi thêm 24 tiết và ngày, tháng âm lịch theo tài liệu
do Nha khí tượng cung cấp.
Các lịch xuất bản có thể ghi tên
các năm theo số Can, Chi cổ truyền, nhưng không được tuyên truyền những điều có
tính chất mê tín dị đoan về âm lịch.
Để phục vụ cho công tác sưu tầm
lịch sử và việc đổi ngày, tháng trong nhân dân, Tổng cục Thông tin sẽ xuất bản
cuốn "Lịch thế kỷ thứ 20" là một bảng đối chiếu âm và dương lịch từ
năm 1901 đến năm 2001 do Nha Khí tượng biên soạn.
III. NHIỆM VỤ TUYÊN TRUYỀN GIẢI
THÍCH QUYẾT ĐỊNH
Quyết định của Hội đồng Chính phủ
là một cải cách về lịch nhằm xóa bỏ tập quán cũ làm ăn theo âm lịch, xây dựng nếp
sống và làm việc theo khoa học. Nó có ý nghĩa sâu sắc về mặt cách mạng văn hóa
và tư tưởng. Nó sẽ ảnh hưởng đến tư tưởng và tình cảm của nhiều người. Trước mắt
là ngày Tết Mậu Thân (1968) và năm Kỷ Dậu (1969) tính theo lịch mới sẽ sớm hơn
một ngày. Cho nên cần được tuyên truyền giải thích một cách kiên trì và sâu rộng.
Việc tuyên truyền giải thích đòi
hỏi sự phối hợp của các ngành tuyên huấn, thông tin, đài phát thanh, báo chí,
văn hóa, khoa học, giáo dục, nông nghiệp, khí tượng, hội phổ biến khoa học và kỹ
thuật và các đoàn thể.
Đề nghị các ngành, các cấp
nghiên cứu kỹ quyết định của Hội đồng Chính phủ và Thông tư này để đặt kế hoạch
tuyên truyền phổ biến trước tiên trong cơ quan, trong ngành, rồi lan rộng trong
nhân dân.
Trên đây là một số điểm chính mà
Nha Khí tượng thấy cần phải thấu triệt trong việc thi hành quyết định này.
Trong quá trình thực hiện, nếu còn gặp khó khăn gì, đề nghị các cơ quan và các
đoàn thể phản ảnh về Nha Khí tượng nghiên cứu trình Chính phủ giải quyết.
|
GIÁM ĐỐC NHA
KHÍ TƯỢNG
Nguyễn Xiển
|