ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------
|
Số:
4896/QĐ-UBND
|
TP Hồ Chí Minh,
ngày 21 tháng 09 năm 2012
|
QUYẾT ĐỊNH
PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN PHÁT
TRIỂN SINH VẬT CẢNH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020 VÀ ĐỊNH HƯỚNG
ĐẾN NĂM 2025
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Chỉ thị số 04-CT/TU ngày 28 tháng 5 năm
2012 của Thành ủy về đẩy mạnh hoạt động và phát triển tổ chức Hội Sinh vật cảnh;
Căn cứ Quyết định số 10/2009/QĐ-UBND ngày 22
tháng 01 năm 2009 của Ủy ban nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh về ban hành Kế hoạch của Ủy
ban nhân dân thành phố thực hiện Chương trình hành động của Thành ủy về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn theo Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 8
năm 2008 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X;
Xét Tờ trình Liên cơ quan số 1466/TTr-SNN-HSVC
ngày 04 tháng 9 năm 2012 của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Hội Sinh
vật cảnh thành phố về phê duyệt Đề án
phát triển sinh vật cảnh trên địa bàn thành phố từ nay đến năm 2020 và định
hướng đến năm 2025,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Nay phê duyệt Đề án phát triển sinh
vật cảnh trên địa bàn thành phố từ nay đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025
theo nội dung đính kèm.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành
kể từ ngày ký.
Điều 3. Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân thành phố, Giám đốc Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư, Giám đốc Sở Tài
chính, Giám đốc Sở Quy hoạch - Kiến trúc, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường,
Chủ tịch Hội Sinh vật cảnh thành phố, Chủ tịch Hội Nông dân thành phố, Ban Quản
lý Khu Nông nghiệp Công nghệ cao, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân các quận - huyện có sản xuất nông nghiệp và các cơ quan
liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
|
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Lê Minh Trí
|
ĐỀ ÁN
PHÁT TRIỂN SINH VẬT
CẢNH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2025
(Ban hành kèm theo Quyết định số 4896/QĐ-UBND ngày 21 tháng 9 năm 2012 của Ủy
ban nhân dân thành phố)
I. SỰ CẦN THIẾT VÀ CƠ SỞ PHÁP LỶ CỦA ĐỀ ÁN:
1. Sự cần thiết:
Thành phố Hồ Chí Minh là một đô thị đặc biệt của cả
nước, có vị trí trung tâm của các tỉnh vùng Đông Nam Bộ, đồng bằng Sông Cửu
Long, là trung tâm về kinh tế, thương mại, khoa học - công nghệ và giao lưu
quốc tế của cả nước.
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn thành phố đã đạt
được nhiều thành tựu trong phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, đời sống vật
chất và tinh thần của người dân nông thôn được cải thiện đáng kể. Tuy vậy, nông
nghiệp thành phố đã và đang đối mặt với những khó khăn thách thức như: đất canh
tác giảm dần, áp lực cạnh tranh do hội nhập kinh tế quốc tế, biến động giá cả thị trường, thiên tai, dịch bệnh,.. Vì
vậy, phải tập trung chuyển đổi cơ cấu cây trong, vật nuôi theo hướng sản xuất
cây, con có giá trị kinh tế cao nhằm đảm bảo tốc độ tăng trưởng. Phát triển
sinh vật cảnh (hoa, cây kiểng, cá cảnh, giống sinh vật cảnh, nông nghiệp sinh
thái) là một hướng đi đúng, phù hợp với nền nông nghiệp đô thị của thành phố.
Trong thời gian qua, chương
trình hoa, cây kiểng, cá cảnh trên địa bàn thành phố đã được Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với
các Sở, ngành liên quan và các quận, huyện thực hiện có hiệu quả. Đến cuối năm
2011, diện tích hoa, cây kiểng đạt 2.010 ha, tăng hơn 100 ha so với năm 2010;
sản lượng cá cảnh đạt 65 triệu con, tăng 5 triệu con so với năm 2010, sản lượng
cá cảnh xuất khẩu đạt 8,8 triệu con, tăng 1,3 triệu con so với năm 2010.
Tuy nhiên, hiện trạng sản xuất sinh vật cảnh của
thành phố vẫn còn nhỏ lẻ do điều kiện đất đai manh mún nên khó áp dụng những
tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến, chưa tạo sản phẩm có tính cạnh tranh cao,
khó đáp ứng các đơn đặt hàng xuất khẩu
với số lượng lớn. Do đó, việc xây dựng Đề án phát triển sinh vật cảnh trên địa
bàn thành phố từ nay đến năm 2020 và định hướng năm 2025 là cần thiết.
2. Cơ sở pháp lý của Đề án:
- Căn cứ Chỉ thị số 04-CT/TU ngày 28 tháng 5 năm
2012 của Thành ủy về đẩy mạnh hoạt động và phát triển tổ chức Hội Sinh vật cảnh;
- Quyết định 5930/QĐ-UBND
ngày 28 tháng 12 năm 2009 của Ủy ban nhân dân thành phố về phê duyệt “Quy
hoạch sản xuất nông nghiệp phát triển nông thôn thành phố Hồ Chí Minh đến năm
2020 và tầm nhìn đến năm 2025”;
- Quyết định số 2011/QĐ-UBND ngày 07 tháng 5 năm 2010 của Ủy
ban nhân dân thành phố về phê duyệt “Đề án phát triển nông nghiệp đô thị
trên địa bàn thành phố Ho Chí Minh đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025”;
- Quyết định 446/QĐ-UBND ngày 27 tháng 01 năm 2011
của Ủy ban nhân dân thành phố phê duyệt
“Chương trình ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ Nông nghiệp nông thôn trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025”;
- Quyết định số 13/2011/QĐ-UBND ngày 09 tháng 3 năm
2011 của Ủy ban nhân dân thành phố về phê
duyệt “Chương trình Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô
thị trên địa bàn thành phố giai đoạn 2011 - 2015”.
- Quyết định số 15/2011/QĐ-UBND ngày 18 tháng 3 năm 2011 của Ủy
ban nhân dân thành phố về ban hành Chương trình mục tiêu về xây dựng
nông thôn mới trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh giai đoạn 2010 - 2020.
- Quyết định số 3330/QĐ-UBND ngày 04 tháng 7 năm
2011 của Ủy ban nhân dân thành phố về phê
duyệt Chương trình phát triển hoa, cây kiểng trên địa bàn thành phố giai đoạn 2011-2015;
- Quyết định số 3463/QĐ-UBND ngày 12 tháng 7 năm
2011 của Ủy ban nhân dân thành phố về phê
duyệt Chương trình phát triển cá cảnh trên địa bàn thành phố giai đoạn
2011-2015.
II. THỰC TRẠNG SẢN XUẤT - KINH DOANH SINH VẬT
CẢNH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỔ CHÍ MINH:
1. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
1.1. Sản xuất, kinh doanh sinh
vật cảnh tiếp tục phát triển toàn diện với tốc độ khá, mang lại giá trị sản
xuất cao:
a) Trong lĩnh vực hoa, cây
kiểng:
Trong 10 năm gần đây, sản xuất
hoa, cây kiểng (bao gồm kiểng cổ, bonsai, cây cảnh nghệ thuật, tiểu cảnh, hoa
lan, hoa nền...) phát triển khá mạnh cả về diện tích, chủng loại, hình thành
các vùng sản xuất chuyên canh ở các quận, huyện như: Củ Chi, Bình Chánh, Hóc
Môn, Bình Tân, Thủ Đức, Gò vấp, quận 12, 9.
Diện tích trồng hoa, cây kiểng
không chỉ tập trung ở các quận, huyện có truyền thống mà đã và đang mở rộng ở
nhiều vùng sinh thái khác nhau, thậm chí ngay cả một số địa phương có nhiều khó
khăn như huyện Nhà Bè, Cần Giờ.
Đến cuối năm 2011, tổng diện tích
hoa, cây kiểng trên địa bàn thành phố là 2.010 ha. Tuy chỉ chiếm 3,5% diện tích
đất sản xuất, nhưng giá trị tạo ra chiếm trên 25% giá trị sản xuất ngành trồng
trọt (3.370 tỷ đồng). Tính riêng Tết Nhâm Thìn 2012, sản lượng tiêu thụ hoa,
cây kiểng đạt 1.307 tỷ đồng (tăng 29,6% so cùng kỳ).
Hiện nay kỹ thuật nhân giống, lai
tạo giống trong lĩnh vực hoa, cây kiểng của thành phố đã có nhiều bước phát
triển, đặc biệt kỹ thuật nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô đã được áp
dụng khá rộng rãi. Bên cạnh đó, kỹ thuật trồng hoa trong nhà lưới với hệ thống
tưới tự động, bán tự động đang dần dần phổ biến; đã xuất hiện nhiều mô hình sản
xuất, kinh doanh tiên tiến đạt giá trị và hiệu quả cao.
Ngoài các loại hoa, cây kiểng
truyền thống, ở thành phố đã xuất hiện các hình thức sản xuất, kinh doanh các
loại thực vật thủy sinh có nguồn gốc trong nước, nước ngoài và nhiều loại cây
công trình rất được ưa chuộng.
Thành phố Hồ Chí Minh với khoảng
1.000 cửa hàng kinh doanh hoa, cây kiểng vừa là đầu mối cung cấp hoa kiểng cho
cả nước và xuất khẩu, vừa là thị trường tiêu thụ hoa kiểng lớn nhất nước với
nhiều chủng loại phong phú, doanh số ước đạt 600 - 700 tỉ đồng/năm, đã hình
thành các địa điểm tiêu thụ tập trung như chợ Hồ Thị Kỷ, chợ Bà Chiểu, Đầm
Sen,...Ngoài ra còn hình thành các khu vực tiêu thụ hoa kiểng đặc trưng, đáp
ứng nhu cầu thị trường.
b) Trong lĩnh vực cá cảnh và
động vật cảnh:
Nghề sản xuất, kinh doanh cá cảnh
thành phố Hồ Chí Minh đã phát triển từ hơn 50 năm nay và được xem là một bộ
phận trong ngành thủy sản thành phố. Nuôi cá cảnh không chỉ là thú vui tao nhã,
mà còn mang lại hiệu quả kinh tế cao, mang lại kim ngạch xuất khẩu đáng kể.
Trước năm 2004, việc sản xuất cá
cảnh mang tính tự phát, nhỏ lẻ theo hình thức “'Cha truyền con nối”, chủng loại
cá cảnh đa dạng nhưng không tập trung. Những năm gần đây sản xuất, kinh doanh
cá cảnh phát triển khá nhanh, khẳng định được vị trí chủ lực trong kinh tế sinh
vật cảnh thành phố. Giá trị sản xuất năm 2010 là 220 tỷ đồng, tốc độ tăng
trưởng 43,11%/ năm (2003-2005) và 51%/năm (2006-2008).
Năm 2003 có 150 cơ sở sản xuất cá
cảnh, đến năm 2010 đã tăng lên 287 cơ sở. Tổng diện tích nuôi cá cảnh 90 ha;
trong đó, mặt nước sản xuất (ao hồ) 75,11 ha bể kiếng, bể xi măng 8.700 m3;
năng lực sản xuất 60 triệu con/năm. Có 3,16% cơ sở chuyên sản xuất giống;
10,68% cơ sở vừa sản xuất giống vừa thuần dưỡng, ương nuôi; 86,16% cơ sở sản
xuất ương nuôi.
Đối tượng cá cảnh đưa vào sản xuất
kinh doanh với hơn 80 loài, trong đó có 14 loài khai thác từ tự nhiên.
Sản lượng cá cảnh xuất khẩu năm
2003 là 3,2 triệu con, năm 2010 tăng lên 7,5 triệu con, giá trị kim ngạch xuất
khẩu từ 3,5 triệu tăng lên 10 triệu USD. Thị trường chính bao gồm Châu Âu 65 -
70%, Mỹ 17 - 20%.
Hàng năm, thành phố nhập khẩu cá
cảnh biển lẫn cá nước ngọt từ 100.000 - 150.000 con từ các nước Singapore, Đài
Loan, Hồng Kông, Malaysia, Thái Lan.
Ngoài cá cảnh, các loại động vật
khác như Gà kiểng, Chim cảnh, Chó cảnh... đang trong quá trình khôi phục và
phát triển.
c) Các loại vật cảnh, dịch vụ:
Các loại vật cảnh làm từ gốm, sứ,
kim loại, thủy sinh, xi măng, nhựa... liên tục tăng trưởng với tốc độ 12%/năm,
đáp ứng nhu cầu của thành phố và các tỉnh bởi đa dạng chủng loại, mẫu mã, chất
lượng và giá cả đủ sức cạnh tranh.
Ngoài ra, thành phố còn có hệ
thống công nghiệp dịch vụ phục vụ sản xuất, kinh doanh sinh vật cảnh với hàng
trăm cơ sở chuyên sản xuất máy móc, thiết bị chuyên dùng, bao bì, cung cấp các
loại phân bón, thuốc thú y, thuốc thủy sản, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn chăn
nuôi các loại vật cảnh. Thành phố đang phát triển nhanh các loại hình dịch vụ
chuyên làm tư vấn, trang trí ngoại thất, nội thất, chăm sóc, bảo dưỡng cây
cảnh. Thiết kế sân vườn theo phong thủy...
1.2. Sinh vật
cảnh phát triển góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho lao động
nông thôn:
- Kinh tế phát triển kéo theo hoạt
động sản xuất - kinh doanh sinh vật cảnh phát triển, thu nhập của các tổ chức
và cá nhân sản xuất, kinh doanh sinh vật cảnh không ngừng được cải thiện. Thu
nhập bình quân của người làm sinh vật cảnh tăng lên gấp 5 lần so với năm 2000;
nhiều mô hình trong hoa lan đạt giá trị sản xuất rất cao: 500 triệu - 1 tỷ
đồng/ha/năm, mang lại hiệu quả gấp 15-20 lần so với trồng lúa (30-40 triệu
đồng/ha/năm), có thể tạo được giá trị sản xuất cao ngay trên một diện tích sản
xuất nhỏ.
- Sản xuất, kinh doanh sinh vật
cảnh đã góp phần tích cực và có hiệu quả vào việc giải quyết việc làm cho 10.000 lao động, xóa đói giảm nghèo cho 4.000
hội viên và nhiêu người lao động khác.
- Quy mô sản xuất ngày càng mở
rộng, tỷ suất hàng hóa và xuất khẩu tăng nhanh. Đã hình thành một số vùng
chuyên sản xuất, kinh doanh sinh vật cảnh ở Củ Chi, Thủ Đức, Bình Chánh, Hóc
Môn, quận 9, quận 12, quận Gò vấp, quận 10...
- Hàng năm, thành phố và các quận,
huyện đều có tổ chức các Lễ hội - Hội chợ nhằm trưng bày giới thiệu, quảng bá,
giao lưu về sinh vật cảnh với các tỉnh và các nước.
- Ngày nay sinh vật cảnh đã được
các tổ chức xã hội và nhân dân dành cho sự quan tâm nhiều hơn, đã có đến 80% hộ
gia đình trồng hoa, cây cảnh, làm bể cá. Trong những ngày Lễ Tết nhà nhà đều
mua sắm, chăm chút cho bình hoa, cây cảnh điểm tô cho cuộc sống thêm phong phú
hài hòa; nhiều vườn hoa, vườn cảnh làm cho diện mạo vùng ven và nông thôn thành
phố trở nên đô thị tươi đẹp hơn.
1.3. Tổ chức
Hội Sinh vật cảnh ngày càng lớn mạnh:
20 năm trước đây, tổ chức Hội Sinh
vật cảnh chủ yếu là những cán bộ, nghệ nhân, nhà vườn. Ngày nay, sinh vật cảnh
đang dần dần phát triển thành ngành kinh tế sinh thái, lãnh đạo thành phố đã
quan tâm chỉ đạo, ban hành Chỉ thị số 04-CT/TU ngày 28 tháng 5 năm 2012, tạo
điều kiện đẩy mạnh hoạt động và phát triển tổ chức Hội Sinh vật cảnh. Đến nay,
đã có 19/24 quận, huyện có tổ chức hội, có 9 Chi hội chuyên ngành, tập hợp
4.000 hội viên. Hoạt động của Hội không chỉ là tuyên truyền vận động mà còn
tham gia làm tư vấn cho Đảng và chính quyền; tổ chức đào tạo, huấn luyện cho
thành phố và các tỉnh; đã tổ chức thành công 4 kỳ Lễ hội cấp thành phố, hàng
chục Lễ hội cấp quận, huyện; tham gia Lễ hội với các tỉnh thành như: Đồng Tháp,
Lâm Đồng, Bình Định, Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Nghệ An, Thanh Hóa... và một
số nước trên thế giới.
Để tôn vinh những người hoạt động
lâu năm và có nhiều đóng góp tích cực cho sự phát triển sinh vật cảnh, thành
phố đã phong tặng danh hiệu nghệ nhân sinh vật cảnh cho hơn 100 cá nhân.
2. HẠN CHẾ:
a) Sinh vật cảnh thành phố phát
triển còn kém bền vững, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy đúng mức các khả
năng, tiềm năng và các nguồn lực sẵn có:
- Việc ứng dụng tiến độ khoa học
kỹ thuật và công nghệ mới chưa nhiều, chủ yếu vẫn dựa vào kinh nghiệm và phương
pháp cổ truyền, chậm được cải thiện về chất lượng nên khó cạnh tranh với các sản phẩm
cùng loại của các nước. Số lượng và chất lượng các đơn vị sản xuất, kinh doanh
giống hoa, cây kiểng vẫn chưa đáp ứng thị trường, hầu hết các giống hoa mới,
giống hoa có chất lượng tốt đều phải nhập từ nước ngoài.
- Chi phí đầu tư sản xuất, đặc
biệt là chi phí đầu tư hoa lan (Dendrobium khoảng 2 tỉ đồng/ha; Mokara
khoảng 3,7 tỉ đồng/ha) rất cao, thời gian thu hồi vốn dài (khoảng 4-5 năm đối
với lan Mokara và 2 - 3 năm đối với Dendrobium) đã ảnh hưởng lớn
đến việc mở rộng quy mô sản xuất của nông hộ.
- Tổ chức sản xuất chưa có sự liên
kết chặt chẽ, đặc biệt là vai trò của các tổ hợp tác, hợp tác xã trong việc
liên kết, định hướng và tổ chức sản xuất chưa thật sự là nòng cốt để tập hợp
các tổ viên, xã viên tham gia sản xuất.
b) Phát triển sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ sinh vật cảnh trong thời gian qua còn mang tính tự phát, thiếu
quy hoạch nên quy mô còn nhỏ lẻ, chưa thúc đẩy chuyển dịch rõ nét cơ cấu kinh
tế và lao động ở cả nông thôn và thành thị:
- Tỷ trọng sinh vật cảnh trong cơ
cấu kinh tế chung của ngành nông nghiệp thành phố còn thấp, diện tích sản xuất
hoa, cây kiểng chỉ chiếm khoảng 3,5% diện tích trồng trọt của thành phố (2.010
ha/56.566 ha). Do sản xuất không tập trung, quy mô sản xuất nhỏ lẻ nên việc áp
dụng các công nghệ tiên tiến còn gặp rất nhiều khó khăn trở ngại, chưa đáp ứng
được những hợp đồng tiêu thụ với số lượng lớn.
- Công tác quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội và kết cấu hạ tầng để phát triển sinh vật cảnh còn nhiều bất
cập. Nhiều nơi, các tổ chức và người sản xuất vẫn còn lúng túng trong việc chọn
lựa cây trồng, vật nuôi, ngành nghề. Việc hình thành các vùng sản xuất hàng hóa
tập trung, chuyên canh gắn với xuất khẩu còn nhiều hạn chế.
c) Đầu tư vào phát triển sinh vật
cảnh còn rất thấp:
Các nguồn vốn đầu tư mới của các
thành phần kinh tế trong nước vào sinh vật cảnh hàng năm có tăng lên nhưng còn
rất thấp, nguồn đầu tư từ nước ngoài không đáng kể.
Việc đầu tư vào các cơ sở sản xuất
giống, cung cấp dịch vụ đầu vào, đầu ra; đầu tư
nghiên cứu, thử nghiệm và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật; đầu tư phát triển các trung tâm tiêu thụ sản phẩm còn rất khiêm tốn, nhiều lĩnh vực còn tự
phát; thành phố vẫn chưa có vùng sản xuất hàng hóa sinh vật cảnh tập trung,
chưa có cơ sở chuyên doanh, phân phối sản phẩm.
d) Nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu
cầu phát triển sản xuất, kinh doanh sinh vật cảnh:
Trong những năm qua, thực hiện chủ
trương chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị, ngành nông
nghiệp thành phố đã phối hợp với các sở ngành, các quận, huyện có liên quan đã
tổ chức nhiều lớp tập huấn, đào tạo nghề cho nông dân, tập trung các cây, con
trọng điểm như hoa, cây kiểng, cá cảnh,., góp phần nâng cao trình độ chuyên
môn, tay nghề cho nông dân. Tuy nhiên, do lao động ở nông thôn đa số lớn tuổi,
trình độ văn hóa thấp nên khả năng tiếp thu còn hạn chế. Mặt khác, sản xuất trong lĩnh vực sinh vật cảnh đòi hỏi
người nông dân phải có tay nghề cao, được đào tạo chuyên sâu.
Ngoài ra, nghệ nhân, nhà vườn sản
xuất, kinh doanh sinh vật cảnh còn chịu nhiều rủi ro do thiên tai, dịch bệnh,
biến động thị trường thường xuyên, trong khi đó việc tiếp cận các chính sách về
đất đai, nguồn vốn, khuyến nông, thị trường, thủ tục xuất nhập khẩu.. .còn hạn
chế.
3. NGUYÊN
NHÂN:
3.1. Nguyên
nhân khách quan:
- Sinh vật cảnh thành phố tuy có
truyền thống lâu đời, nhưng cơ bản chỉ mới đáp ứng nhu cầu vui chơi, thưởng
ngoạn, sản xuất hàng hóa chiếm tỷ trọng không đáng kể. Để trở thành một ngành
kinh tế sinh thái thì điểm xuất phát còn thấp, trình độ còn khá lạc hậu so với
nhiều nước trong khu vực.
- Sản xuất, kinh doanh sinh vật
cảnh nhiều mặt vẫn còn mang tính sản xuất hàng hóa nhỏ; công nghệ, cơ sở hạ
tầng chưa được đầu tư, nhân lực ít được đào tạo, kỹ năng tay nghề thấp.
3.2. Nguyên
nhân chủ quan:
- Nhận thức về vị trí vai trò của
sinh vật cảnh trong đời sống kinh tế - xã hội của một bộ phận cán bộ lãnh đạo ở
các ngành, các cấp còn chưa đầy đủ. Do chưa coi sinh vật cảnh là một ngành kinh
tế sinh thái nên việc chọn lựa bố trí cán bộ, công tác quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất, đầu tư hạ tầng kỹ thuật, áp dụng các chính sách chưa tương xứng.
- Các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, trong đó có Hội Sinh vật cảnh chưa làm tốt vai trò tham mưu, tư vấn,
phản biện với các cơ quan nhà nước về những vấn đề có liên quan đến cơ chế,
chính sách và các biện pháp lớn nhằm bảo vệ và phát triển sinh vật cảnh thành
ngành kinh tế sinh thái tương xứng với khả năng, tiềm năng của đất nước.
III. ĐỊNH HƯỚNG, MỤC TIÊU,
NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN SINH VẬT CẢNH TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020 VÀ ĐỊNH
HƯỚNG ĐẾN NĂM 2025:
1. Một số dự
báo:
- Tình hình sản xuất, kinh doanh
sinh vật cảnh trên thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ, thị trường xuất khẩu
ngày càng mở rộng, mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt.
- Đến năm 2020, nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp, thu nhập các tầng lớp dân cư tăng, nhu cầu về sinh vật
cảnh rất lớn.
- Tình hình dịch bệnh diễn biến
phức tạp, rào cản kỹ thuật là trở ngại không nhỏ trong việc xuất khẩu.
- Dân số tăng khá nhanh, đất sản
xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, ô nhiễm môi trường gia tăng.
2. Quan
điểm:
- Qua thực tiễn cho thấy khi đời
sống và thu nhập của người dân đã được cải thiện thì nhu cầu về hưởng thụ các
sản phẩm sinh vật cảnh cũng tăng theo. Ở
các thành phố công nghiệp phát triển thì sinh vật cảnh không chỉ giải quyết về
kinh tế - văn hóa mà còn có vai trò cân bằng sinh thái, cải thiện môi trường
sống.
- Đối với thành phố Hồ Chí Minh,
định hướng phát triển sinh vật cảnh đến
năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025 phải là ngành kinh tế sinh thái mang lại hiệu
quả kinh tế - xã hội cao, lâu dài và bền
vững trong quá trình Công nghiệp hóa - hiện đại hóa thành phố. Bên cạnh đó,
sinh vật cảnh còn giữ gìn văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, cải thiện môi trường
sống, tô thắm diện mạo, vun đắp tình yêu quê hương đất nước của các thế hệ con
người Việt Nam ở một thành phố lớn.
- Vừa chú trọng phát huy những
kiến thức, kinh nghiệm truyền thống của các thế hệ đi trước; vừa tiếp thu, chắt
lọc, ứng dụng những thành tựu, tiến bộ khoa học công nghệ mới trong việc chọn
tạo, nhân giống, sản xuất hàng hóa mang uy tín thương hiệu thành phố Hồ Chí
Minh.
- Hạn chế tối đa, tiến tới ngăn
chặn và đẩy lùi việc khai thác các loại động vật, thực vật có tính chất hủy
hoại thiên nhiên, môi trường, làm tuyệt chủng các nguồn gen quý hiếm. Bảo vệ
cảnh quan, môi trường, các loại sản phẩm đặc hữu tiêu biểu ở các vùng sinh thái
khác nhau của cả nước.
3. Mục tiêu:
3.1. Mục
tiêu chung:
Phấn đấu đến năm 2020 - 2025 đưa
sinh vật cảnh thành phố trở thành một ngành kinh tế sinh thái đa dạng, bền
vững, có khối lượng hàng hóa lớn, đủ sức cạnh tranh. Sinh vật cảnh góp phần
tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở cả nông thôn, ven đô
và nội thành; góp phần giải quyết việc làm, cải thiện thu nhập, xóa đói giảm
nghèo một cách có hiệu quả trong tiến trình Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
thành phố.
3.2. Mục
tiêu cụ thể:
- Đến năm 2020 diện tích Sinh vật
cảnh (hoa, lan, cây kiểng, cá kiểng, giống sinh vật cảnh, nông nghiệp sinh
thái) của thành phố lên 6.000ha - 7.000ha, chiếm 14% - 17% và năm 2025 lên
9.000ha, chiếm 21% diện tích đất trồng trọt của thành phố.
- Giải quyết việc làm cho 30.000 -
50.000 lao động
- Giá trị sản xuất bình quân đạt
500 triệu đồng/ha/năm trở lên; những mô
hình tiên tiến đạt 1 tỷ đồng/ha/năm trở lên.
- Đạt giá trị tổng sản phẩm vào
năm 2020 là 3.000 tỷ đồng, giá trị xuất khẩu 100 triệu USD/năm trở lên; tốc độ
tăng trưởng 15-20%/năm.
- Phấn đấu đến năm 2025, sinh vật
cảnh thành phố trở thành một ngành kinh tế sinh thái, phát triển toàn diện và
có trình độ tương đương các nước khu vực Đông Nam Á.
4. CÁC GIẢI PHÁP:
a) Giải pháp về quy hoạch:
- Thực hiện việc rà soát quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo lợi thế từng địa phương, gắn với rà soát các
nguồn lực tại chỗ, gắn với đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế-kỹ thuật và xây dựng nông thôn mới; tập trung những nơi có
lợi thế, tiềm năng phát triển sinh vật cảnh như Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh,
Thủ Đức, Gò Vấp...
- Tận dụng quỹ đất được quy hoạch
xây dựng các khu dân cư, đô thị nhưng chưa triển khai đầu tư thực hiện dự án để
khai thác, sử dụng phát triển sinh vật cảnh, tạo việc làm và thu nhập cho người
dân.
b) Giải pháp phát triển hệ
thống thương mại dịch vụ:
- Xây dựng, phát triển hệ thống
thương mại - dịch vụ sinh vật cảnh với các quy mô lớn vừa và nhỏ, nhằm đảm bảo
cung ứng thuận tiện mọi yêu cầu bán buôn bán lẻ cho hàng chục triệu cư dân
thành phố và các tỉnh bạn trong việc sản xuất và thưởng ngoạn sinh vật cảnh.
- Tổ chức một số loại hình kinh
doanh chuyên ngành cá kiểng, cây kiểng, hoa lan,... huy động các nguồn lực thúc
đẩy sinh vật cảnh phát triển, hội nhập với khu vực và thế giới; trước mắt, sớm
xây dựng, hoàn thiện trung tâm trưng bày, mua bán, giao dịch, hội chợ sinh vật
cảnh tại Công viên Làng hoa Gò vấp, từ nay đến năm 2020, xây dựng cho được ít
nhất 3 trung tâm dịch vụ, mỗi trung tâm có diện tích tối thiểu 2 ha, thuận tiện
về giao thông. Ở các quận, huyện có ít nhất 2-3 khu tập trung bán lẻ; cần có
thêm những cửa hàng bán lẻ thường xuyên các loại sinh vật cảnh, phục vụ cho nhu
cầu người dân. Với những khu phố, tuyến đường có những cửa hàng kinh doanh sinh
vật cảnh tự phát hiện hữu, do chưa quy hoạch nên việc buôn bán còn tạm bợ,
không ổn định, kém mỹ quan, cần xem xét cho mua bán lâu dài để họ yên tâm đầu
tư làm đẹp cảnh quan, giữ gìn vệ sinh môi trường.
- Vận động và tạo điều kiện hỗ trợ
các tổ chức và cá nhân sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ sinh vật cảnh hiệu quả
thiết thực, góp phần giảm nghèo, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người
lao động; liên kết các địa phương có thế mạnh sinh vật cảnh, nhằm hình thành
các cơ sở sản xuất giống, sản xuất hàng hóa, cung cấp dịch vụ, kinh doanh, tiêu
thụ sản phẩm sinh vật cảnh, tạo nguồn sản phẩm hàng hóa phục vụ trong nước và
xuất khẩu. Những địa phương có điều kiện thích hợp thì tổ chức thành các trung
tâm chuyên canh, trung tâm thương mại - dịch vụ sinh vật cảnh, các khu du lịch
sinh thái. Hàng năm tổ chức các hội chợ, hội thi, giao dịch, trưng bày, triển
lãm, thông tin quảng bá, giới thiệu các sản phẩm, các mô hình tiên tiến về sinh
vật cảnh.
c) Giải pháp phát triển nghiên
cứu, chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ:
- Chú trọng nghiên cứu, ứng dụng
công nghệ sinh học và sinh học hiện đại vào việc chọn tạo giống cây con với
trình độ tương đương các nước trong khu vực. Phát triển các quy trình nuôi
trồng tiên tiến, bảo quản sản phẩm đạt tiêu chuẩn.
- Ưu tiên thu hút các nguồn đầu tư
nước ngoài với công nghệ hiện đại; đẩy mạnh hợp tác với các cơ quan nghiên cứu quốc tế, mời gọi các chuyên gia nước ngoài,
Việt Kiều về làm việc hoặc đầu tư tại thành phố.
- Liên kết với tổ chức sinh vật cảnh các tỉnh bằng hình thức liên doanh,
liên kết tổ chức sản xuất dựa vào ưu thế từng địa phương để tạo ra các sản phẩm
sinh vật cảnh có hàm lượng công nghệ cao, tính nghệ thuật cao phục vụ cho xuất
khẩu; tổ chức hội chợ, hội thi sinh vật cảnh để tạo đầu ra và nâng cao tay nghề.
- Phát huy hệ thống khuyến nông
trong việc nâng cao kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng thực hành cho người lao
động.
- Tăng cường đào tạo, tập huấn tay
nghề kết hợp ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới trong sản
xuất, chăm sóc, thu hoạch, bảo quản, vận chuyển, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu
cho sản phẩm sinh vật cảnh, khuyến khích phát triển các loại sinh vật cảnh độc
đáo, đặc sắc và có tính cạnh tranh cao trong khu vực và thế giới.
- Nâng tỷ lệ lao động được đào tạo
nghề sinh vật cảnh hiện nay khoảng 30% lên 70% vào năm 2020, và 90% vào năm
2025.
- Phát triển các hình thức dạy
nghề kết hợp bồi dưỡng kiến thức và khả năng thực hành ngắn hạn tại những địa
phương có truyền, thống, tiềm năng phát triển sinh vật cảnh cần có tổ chức dạy
nghề sinh vật cảnh phù hợp; tổ chức các hội nghị khoa học và hội thảo, tọa đàm
trao đổi kinh nghiệm thực tiễn về sản xuất, kinh doanh sinh vật cảnh.
d) Giải pháp về kiện toàn và mở
rộng tổ chức Hội Sinh vật cảnh các cấp:
- Tiến hành kiện toàn các tổ chức
hiện có, phát triển mới các Hội sinh vật cảnh ở các quận, huyện, phường, xã;
đồng thời hình thành các câu lạc bộ chuyên sâu theo ngành, nghề. Hội sinh vật
cảnh các cấp phát huy vai trò tư vấn, tham gia công tác quy hoạch, kế hoạch,
chính sách, chọn lựa sản phẩm sinh vật cảnh và đề xuất các biện pháp, bước đi
phù hợp với thế mạnh về lao động, tay nghề, thổ nhưỡng, thời tiết, thị
trường,...Từ đó xây dựng thành chương trình cụ thể của từng địa phương, vận
động hội viên, nông dân và nhân dân thực hiện.
e) Giải pháp về cơ chế chính
sách ưu tiên phát triển sinh vật cảnh:
- Tăng cường tuyên truyền, phổ
biến Quy định về chính sách khuyến khích chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo
hướng nông nghiệp đô thị trên địa bàn thành phố giai đoạn 2011 - 2015 theo
Quyết định số 36/2011/QĐ-UBND ngày 10 tháng 6 năm 2011 của Ủy ban nhân dân thành phố. Tổ chức hướng dẫn
nông dân, các doanh nghiệp sản xuất sinh vật cảnh thủ tục vay vốn phát triển
sản xuất trên địa bàn thành phố. Đồng thời, nghiên cứu bổ sung chính sách phát
triển sinh vật cảnh theo Quyết định số 36/2011/QĐ-UBND ngày 10 tháng 6 năm 2011
của Ủy ban nhân dân thành phố, kịp thời bổ sung những nội dung cần thiết để có
chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh sinh vật cảnh.
- Ngân sách nhà nước tăng cường
đầu tư cho nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Sau năm 2020, căn cứ
vào kim ngạch xuất khẩu sinh vật cảnh mà dành một tỷ lệ đầu tư thích hợp nhằm
kích thích sản xuất và xuất khẩu sinh vật cảnh.
5. Tổ chức thực hiện:
5.1. Cơ quan thường trực: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hội Sinh vật cảnh thành phố.
5.2. Cơ
quan, đơn vị thực hiện:
- Ủy ban nhân dân các quận, huyện, xã, phường, thị trấn có sản xuất sinh vật
cảnh.
- Các doanh nghiệp, hộ nông dân,
hợp tác xã, liên tổ, tổ hợp tác.
- Các phòng ban, đơn vị trực thuộc
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
5.3. Các cơ
quan phối hợp:
- Các Sở, ngành liên quan: Ban
Quản lý khu Nông nghiệp Công nghệ cao, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở
Tài nguyên và Môi trường, Sở Quy hoạch - Kiến trúc.
- Các Đoàn thể: Hội Nông dân thành
phố, Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh thành
phố.
- Các Trường Đại học, Viện nghiên
cứu trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, Công ty sản xuất, kinh doanh giống,
vật tư nông nghiệp.
5.4. Nhiệm
vụ cụ thể các Sở, ngành, quận, huyện:
- Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn:
+ Chủ trì, phối hợp với các Sở Quy
hoạch - Kiến trúc, Sở Tài nguyên và Môi trường, Hội Sinh vật cảnh thành phố và Ủy ban nhân dân quận, huyện xây dựng đề án bố
trí cây trồng, vật nuôi chủ lực trên địa bàn thành phố gắn với mục tiêu và định
hướng phát triển sinh vật cảnh tại chỉ thị số 04-CT/TU ngày 28 tháng 5 năm 2012
của Thành ủy về đẩy mạnh hoạt động và phát triển tổ chức Hội Sinh vật cảnh.
+ Chủ trì, phối hợp với Hội Sinh vật cảnh tăng cường đào tạo, tập huấn kết
hợp ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới trong sản xuất, chăm sóc,
thu hoạch, bảo quản, vận chuyển, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm
sinh vật cảnh.
+ Chủ trì, phối hợp với các Sở,
ngành liên quan, các quận, huyện có sản xuất sinh vật cảnh nghiên cứu, đề xuất Ủy ban nhân dân thành phố ban hành hoặc điều
chỉnh cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển sinh vật cảnh.
+ Xây dựng kế hoạch triển khai
thực hiện đề án trên địa bàn thành phố và theo dõi, kiểm tra, tổng hợp tình
hình, báo cáo Thành ủy, Ủy ban nhân dân
thành phố.
- Hội Sinh vật cảnh thành phố:
+ Chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân các quận, huyện tiến hành kiện
toàn các tổ chức hiện có, phát triển mới các Hội sinh vật cảnh ở các huyện,
quận, xã, phường; đồng thời hình thành các câu lạc bộ chuyên sâu theo ngành,
nghề.
+ Tham gia tư vấn, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách, chọn lựa sản phẩm sinh vật cảnh, nhất là chủng loại sinh vật
cảnh có giá trị kinh tế cao và đề xuất các biện pháp, bước đi phù hợp với thế
mạnh về lao động, tay nghề, thổ nhưỡng, thời tiết, thị trường,...
+ Chủ trì, phối hợp với Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn và các ngành liên quan tổ chức một số loại hình kinh doanh chuyên ngành cá kiểng, cây
kiểng, hoa lan,...
- Ủy
ban nhân dân quận, huyện:
+ Phối hợp với Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Sở Quy hoạch - Kiến trúc, Sở Tài nguyên và Môi trường,
Hội Sinh vật cảnh thành phố xây dựng đề án bố trí cây trồng, vật nuôi chủ lực
trên địa bàn thành phố gắn với mục tiêu và định hướng phát triển sinh vật cảnh
tại chỉ thị số 04-CT/TU ngày 28 tháng 5 năm 2012 của Thành ủy về đẩy mạnh hoạt
động và phát triển tổ chức Hội Sinh vật cảnh.
+ Xây dựng kế hoạch triển khai
thực hiện đề án trên địa bàn quận, huyện và tổng hợp tình hình, báo cáo cho Ủy ban nhân dân thành phố và Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
- Hội Nông dân thành phố: Chỉ
đạo các cấp Hội cơ sở tích cực phối hợp với ngành nông nghiệp và địa phương
tuyên truyền, phổ biến, vận động nông dân, hộ sản xuất kinh doanh trong lĩnh
vực sinh vật cảnh quán triệt đề án phát triển sinh vật cảnh trên địa bàn thành
phố từ nay đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025.
- Hội Làm vườn và Trang trại
thành phố: Phối hợp tổ chức tập huấn kỹ thuật nuôi trồng sinh vật cảnh cho
các hội viên; hỗ trợ, hướng dẫn, tạo điều kiện cho các nhà vườn, nghệ nhân tham
gia các hội thi, các buổi tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm sản xuất - thị trường
tiêu thụ; tích cực đẩy mạnh phong trào nuôi trong sinh vật cảnh phục vụ nhu cầu
cải tạo môi trường, cảnh quan thành phố, kết hợp du lịch và các dịch vụ liên
quan./.