CÔNG ƯỚC
VỀ
TRỢ GIÚP TRONG TRƯỜNG HỢP CÓ TAI NẠN HẠT NHÂN HAY SỰ CỐ PHÓNG XẠ KHẨN CẤP NĂM
1986
Các quốc gia tham gia công ước
này, sau khi
NHẬN THỨC rằng những hoạt động có
liên quan đến hạt nhân đang được tiến hành ở nhiều Quốc gia, đồng thời
NHẬN BIẾT rằng những biện pháp
mang tính toàn diện đã và đang được áp dụng để đảm bảo sự an toàn ở mức cao cho
các hoạt động cề hạt nhân nhằm ngăn ngừa những tai nạn về hạt nhân và làm giảm
đến mức tối thiểu những hậu quả của những tai hoạ này nếu chứng có thể xảy ra,
với
MONG MUỐN củng cố hơn nữa sự hợp
tác quốc tế trong việc phát triển và sử dụng năng lượng hạt nhân một cách an
toàn,
TIN CHẮC vào sự cần thiết của
một cơ cấu tổ chức ở cấp quốc tế nhằm trợ giúp nhanh chóng những trường hợp có
tai nạn hạt nhân hay các sự cố khẩn cấp về phóng xạ nhằm giảm nhạn những hậu
quả của nó, với
Ý THỨC về sự lợi ích của các dàn
xếp song phương và đa phương về giúp đỡ lẫn nhau trong lĩnh vực này, và
Ý THỨC được về các hoạt động của
Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế trong việc xây dựng những nguyên tắc chỉ
đạo cho việc tổ chức giúp đỡ lẫn nhau trong trường hợp khẩn cấp có liên quan
đến tai nạn hạt nhân hay sự cố khẩn cấp về phóng xạ,
ĐÃ ĐỒNG Ý như sau:
Điều 1. Những điều khoản chung
1. Các Quốc gia tham gia hợp tác
với nhau và với Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (từ nay gọi tắt là Cơ
quan) theo các điều khoản của Công ước này để tạo thuận lợi cho việc trợ giúp
nhanh chóng trong trường hợp có tai nạn hạt nhân hay sự cố phógn xạ khẩn cấp
nhằm làm giảm đến mức tối thiểu những hậu quả của nó và để bảo vệ cuộc sống,
tài sản và môi trường do tác động của các chất phóng xạ thoát ra.
2. Để tạo điều kiện thuận lợi
cho sự hợp tác này, các Quốc gia tham gia có thể thoả thuận dựa trên cơ sở
những dàn xếp song phương và đa phương hoặc trong điều kiện thuận lợi, trên sự
tổ hợp của những dàn xếp này, để ngăn ngừa hay làm giảm đến mức thấp nhất những
thương vong và thiệt hại có thể xảy ra trong trường có tai nạn hạt nhân hay sự
cố phóng xạ khẩn cấp .
3. Các Quốc gia tham gia yêu cầu
Cơ quan, khi hoạt động trong khuôn khổ những đạo luật của mình, sử dụng những
nỗ lực tốt nhất của mình theo những điều khoản của Công ước này để thúc đẩy,
tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ cho sự hợp tác giữa các Quốc gia tham gia
Công ước này.
Điều 2. Điều khoản về trợ giúp
1. Nếu một Quốc gia tham gia cần
sự trợ giúp trong trường hợp có tai nạn hạt nhân hoặc sự cố phóng xạ khẩn cấp,
bất kể tai nạn hay sự cố này bắt nguồn từ trong lãnh thổ, đất thuộc quyền hạn
quản lý của Quốc gia đó hay không, Quốc gia đó có thể kêu gọi sự giúp đỡ từ bất
kỳ Quốc gia tham gia nào khác, trực tiếp hay thông qua Cơ quan, hoặc khi có
thể, từ các cơ quan quốc tế liên chính phủ khác (từ nay được gọi là “các cơ
quan quốc tế”).
2. Một Quốc gia tham gia yêu cầu
trợ giúp sẽ phải nêu rõ quy mô và thể loại trợ giúp những thông tin về điều đó
có thể là cần thiết để bên trợ giúp xác định được mức độ mà họ có thể làm được
để đáp ứng yêu cầu. Trong trường hợp Quốc gia yêu cầu không thể định rõ được
quy mô và thể loại trợ giúp được yêu cầu thì Quốc gia yêu cầu và bên trợ giúp
sẽ dựa trên việc trao đổi ý kiến để quyết định về quy mô và hình thức trợ giúp
cần thiết.
3. Môi Quốc gia tham gia khi nhận
được lời yêu cầu trợ giúp cần phải nhanh chóng xác định và thông báo lại cho
Quốc gia yêu cầu trợ giúp, trực tiếp hoặc thông qua Cơ quan, rằng Quốc gia đó
đã sẵn sàng cung cấp các trợ giúp được yêu cầu chưa, và quy mô cũng như những
điều kiện của trợ giúp có thể được cung cấp.
4. Các Quốc gia tham gia, trong
giới hạn về khả năng của mình, sẽ phải định rõ và thông báo cho Cơ quan về số
lượng chuyên gia, thiết bị và các vật liệu có thể sử dụng được để giúp đỡ các
Quốc gia khác trong trường hợp có tai nạn hạt nhân hoặc sự cố phóng xạ khẩn cấp
cũng như các điều kiện, đặc biệt là về tài chính, theo đó những sự trợ giúp này
có thể được thực hiện.
5. Mọi Quốc gia tham gia đều có
thể yêu cầu trợ giúp về chữa trị thuốc men hay sơ tán tạm thời sang lãnh thổ
một Quốc gia tham gia khác những người bị ảnh hưởng bởi tai nạn hạt nhân hoặc
sự cố phóng xạ khẩn cấp.
6. Cơ qua Năng lương Nguyên tử
Quốc tế sẽ đáp ứng lại yêu cầu trợ giúp của một Quốc gia tham hay một Quốc gia
thành viên khi có tai nạn hạt nhân hay sự cố phóng xạ khẩn cấp, theo đạo luật
của mình và như đã được đưa ra trong công ươc này, bằng cách:
a) Tạo điều kiện thuận lợi cho
việc cung cấp các nguồn ngân quỹ thích hợp đã được để giành cho mục đích này.
b) Nhanh chóng thông báo yêu cầu
trợ giúp cho các Quốc gia khác và các Tổ chức Quốc tế mà theo Cơ quan, có thể
đang nắm giữ những nguồn lực và ngân quỹ cần thiết, và
c) Nếu Quốc gia cần được trợ
giúp có yêu cầu, sẽ phối hợp việc trợ giúp ở quy mô quốc tế đến mức có thể.
Điều 3. Chỉ đạo và điều hành
trợ giúp
Trừ khi có thoả thuận khác:
a) Việc chỉ đạo, điều hành, phối
hợp và giám sát sự giúp đỡ ở quy mô toàn diện thuộc về trách nhiệm ở bên trong
lãnh thổ Quốc gia có yêu cầu trợ giúp. Khi sự trợ giúp có bao gồm cả nhân lực,
phía trợ giúp nên bổ nhiệm, sau khi đã trao đổi ý kiến với phía có yêu cầu trợ
giúp, người chịu trác nhiệm điều hành và duy trì việc giám sát trực tiếp các
hoạt động về nhân lực và thiết bị cung cấp. Người được bổ nhiệm nên thực hiện
việc giám sát có sự hợp tác với chức trách của Quốc gia yêu cầu trợ giúp.
b) Quốc gia có yêu cầu trợ giúp
cần phải cung cấp, tuỳ theo khả năng của mình, các phương tiện và dịch vụ tạo
chỗ để giúp cho việc trợ giúp được thuận lợi và có hiệu quả. Điều này cũng sẽ
đảm bảo cho việc bảo vệ người, thiết bị các các nguyên vật liệ của phía giúp đỡ
được đưa vào lãnh thổ của phía được giúp đỡ với mục đích trợ giúp.
c) Quyền sở hữu của các thiết
bị, nguyên liệu được đưa ra của bất kỳ phía nào trong quá trình trợ giúp đều
không bị thay đổi, việc hoàn trả các thiết bị và nguyên liệu được đảm bảo.
d) Mỗi Quốc gia khi cung cấp sự
trợ giúp để đáp ứng lại nhu cầu trợ giúp theo điểm 5 của Điều 2 sẽ phối hợp sự
giúp đỡ trên lãnh thổ nước mình.
Điều 4. Các nhà chức trách có
thẩm quyền và các điểm tiếp xúc
1. Mỗi Quốc gia tham gia sẽ
thông báo cho Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế các cho các Quốc gia tham
gia, trực tiếp hoặc thông qua Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế, các nhà
chức trách có thẩm quyền của mình và các điểm tiếp xúc được uỷ nhiệm để đề bạt
và thu các đề nghị và để chấp nhận các lời đề nghị giúp đỡ. Những điểm tiếp xúc
này và các điểm tiếp xúc trung tâp tại Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế cần
phải được hoạt động liên tục.
2. Mỗi Quốc gia cần phải thông
báo ngay lập tức cho Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế mọi thay đổi có thể
xảy ra về các thông tin đề cập đến ở mục 1.
3. Cơ quan Năng lượng Nguyên tử
Quốc tế sẽ cung cấp một cách đều đặn và nhanh chóng cho các Quốc gia tham gia,
các Quốc gia thành viên và các tổ chức Quốc tế có liên quan các thông tin được
đề cập đến ở mục 1 và 2.
Điều 5. Những chức năng của
Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế
Các Quốc gia tham gia yêu cầu Cơ
quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế, theo điểm 3 của Điều 1 và không mâu thuẫn
với điều khoản khác của Công ước này:
a) Thu thập và phổ biến cho các
Quốc gia tham gia và các Quốc gia thành viên các thông tin có liên quan tới:
(i) Các chuyên gia, thiết bị và
nguyên vật liệu có thể sử dụng được trong trường hợp có tai nạn hạt nhân hoặc
sự cố phóng xạ khẩn cấp,
(ii) Các phương pháp, kỹ thuật
và các kết quả nghiên cứu có được liên quan đến cách xử lý các tai nạn hạt nhân
hoặc sự cố phóng xạ khẩn cấp.
b) Giúp đỡ một Quốc gia tham gia
hay một Quốc gia thành viên khi được yêu cầu về bất vấn đề nào trong số các vấn
đề dưới đây hoặc các vấn đề tương tự khác:
(i) Chuẩn bị các kế hoặch khẩn
cấp trong trường hợp có tai nạn hạt nhân hoặc sự cố phóng xạ khẩn cấp và ban
hành các luật định thích hợp;
(ii) Xây dựng các chương trình
huấn luyện thích hợp cho những người phụ trách vấn đề tai nạn hạt nhân và sự cố
phóng xạ khẩn cấp;
(iii) Loan báo các yêu cầu trợ
giúp và các thông tin có liên quan trong trường hợp có tai nạn hạt nhân hoặc sự
cố phóng xạ khẩn cấp;
(iv) Xây dựng các tiêu chuẩn,
quy trình và chương trình theo dõi phóng xạ thích hợp;
(v) Tiến hành nghiên cứu tính
khả thi về việc thiết lập các hệ thống theo dõi phóng xạ thích hợp.
c) Tạo điều kiện cho một Quốc
gia tham gia hay một Quốc gia thành viên khi yêu cầu giúp đỡ trong trường hợp
có tai nạn hạt nhân hoặc sự cố phóng xạ khẩn cấp có được những nguồn trợ giúp
thích hợp giành mục đích tiến hành đánh giá bước đầu về tai nạn hay sự cố.
d) Đề xuất những giúp đỡ của
mình đối với một Quốc gia tham gia hay một Quốc gia thành viên trong trường hợp
tai naj hạt nhân hoặc sự cố phóng xạ khẩn cấp.
e) Thiết lập và duy trì mối liên
lạc với những tổ chức Quốc tế thích hợp nhằm mục đích thu nhận và trao đổi
thông tin và số liệu cần thiết, và lập danh sách những Tổ chức này cho các Quốc
gia tham gia, các Quốc gia thành viên và cho chính những Tổ chức đó.
Điều 6. Tin tức bí mật và các
công bố công khai
1. Quốc gia yêu cầu giúp đỡ và
phía giúp đỡ sẽ phải bảo vệ tính bí mật của mọi thông tin mật được sử dụng bởi
bất kỳ bên nào cho công cuộc trợ giúp trong trường hợp có tai nạn hạt nhân hoặc
sự cố phóng xạ khẩn cấp. Những thong tin này sẽ chỉ được sử dụng riêng cho mục
đích trợ giúp đã được thoả thuận.
2. Phía trợ giúp sẽ nỗ lực tối
đa để phối hợp với Quốc gia có yêu cầu trợ giúp trước khi đưa ra công khai
thông tin về các trợ giúp đã được cung cấp có liên quan đến tại nạn hạt nhân
hay sự cố phóng xạ khẩn cấp.
Điều 7. Đề bù lại các chi phí
1. Bên trợ giúp có thể đề xuất
những giúp đỡ cho không đối với Quốc gia có yêu cầu trợ giúp. Khi xem xét liệu
có nên đưa ra lời đề nghị giúp đỡ theo kiểu này, phía trợ giúp cần tính đến:
a) Bản chất của tai nạn hạt nhân
hay sự cố phóng xạ khẩn cấp.
b) Địa điểm ban đầu của tai nạn
hạt nhân hay sự cố phóng xạ khẩn cấp.
c) Các nhu cầu của các nước đang
phát triển.
d) Các nhu cầu riêng của các
nước không có các phương tiện hạt nhân.
e) Các yếu tố liên quan khác.
2. Khi sự trợ giúp được đưa ra
trên cơ sở có hoàn lại một phần hay hoàn toàn, Quốc gia có yêu cầu trợ giúp sẽ
hoàn lại cho phía giúp đỡ những chi phí cho các dịch vụ của các cá nhân hay tổ
chức làm việc cho phía giúp đỡ và mọi chi phí có liên quan đến trợ giúp mà chưa
được thanh toán trực tiếp bởi Quốc gia có liên quan đến trợ giúp mà chưa được
thanh toán trực tiếp bởi Quốc gia có nhu cầu trợ giúp. Trừ khi có những thoả
thuận khác, sự hoàn lại sẽ được thực hiện ngay sau khi phía giúp đỡ đưa ra yêu
cầu hoàn lại cho Quốc gia có yêu cầu trợ giúp và đối với các chi phí không phải
ở tại địa phương thì cũng sẽ được chuyển đi tự do.
3. Mặc dù có điểm 2 trên, phía
giúp đỡ vẫn có thể vào mọi thời điển khước từ hoặc đồng ý cho hoãn sự hoàn lại
toàn bộ hay một phần. Khi xem xét vấn đề xoá nợ, các bên giúp đỡ sẽ đưa ra
những nhận xét thích đáng đối với các nhu cầu của các nước phát triển.
Điều 8. Các đặc quyền, quyền
được miễn trừ và các điều kiện thuận lợi
1. Quốc gia có yêu cầu giúp sẽ
cung cấp những đặc quyền, quyền được miễn trừ và các điều kiện thuận lợi cần
thiết cho những bên trợ giúp và những hoạt động thay mặt để thực hiện các chức
năng trợ giúp của họ.
2. Quốc gia có yêu cầu trợ giúp
sẽ cung cấp những đặc quyền và quyền được miễn trừ sau cho những người của bên
trợ giúp hoặc những thay mặt mà đã được thông báo chính thức và được Quốc gia
có yêu cầu chấp nhận:
a) Quyền không bị bắt giữ, giam
cầm và xử lý pháp luật của Quốc gia có yêu cầu trợ giúp, trong phạm vi về hành
chính, dân sự và hình sự, do các hành động hoặc thiếu sót trong việc thực thi
nhiệm vụ của họ, và
b) Quyền được miễn thuế, thuế
hải quan và các loại đóng góp khác, trừ những thứ thường đã được gộp vào giá
của hàng hoá hoặc được trả cho các dịch vụ, do thực hiện các chức năng trợ giúp
của họ.
3. Quốc gia có yêu cầu trợ giúp
sẽ:
a) Cung cấp các quyền được miễn
trừ về đóng thuế, thuế hải quan và các loại đóng góp khác đối với các thiết bị
và tài sản được mang vào lãnh thổ của Quốc gia có yêu cầu trợ giúp bởi phía
giúp đỡ cho mục đích trợ giúp, và
b) Cung cấp quyền không bị tịch
thu, chiếm giữ hoặc trưng dụng các thiết bị và tài sản này.
4. Quốc gia có yêu cầu trợ giúp
sẽ đảm bảo sự hoàn trả các thiết bị và tài sản này. Nếu bên trợ giúp yêu cầu,
Quốc gia xin trợ giúp bố trí tuỳ theo khả năng của mình để làm vệ sinh lại các
thiết bị được thu hồi lại sau khi đã tham gia vào quá trình trợ giúp trước khi
trao trả.
5. Quốc gia có yêu cầu trợ giúp
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi vào, ở lại và rời khỏi lãnh thổ Quốc gia
của mình những người được coi là thuộc vào điểm 2 và các thiết bị, tài sản tham
gia vào trợ giúp.
6. Không có điểm nào trong điều
luật này yêu cầu Quốc gia xin trợ giúp phải cung cấp những kiều dân của mình
hoặc những địa điểm cố định có các đặc quyền và quyền được miễn trừ như đã nói
ở các phần trên.
7. Tất cả những người được hưởng
các đặc quyền và quyền được miễn trừ này có nghĩa vụ tôn trọng luật pháp và các
quy định của Quốc gia xin trợ giúp mà không gây tổn hại cho các đặc quyền và
quyền miễn trừ này. Những người này cũng có nghĩa vụ không can thiệp vào công
việc nội bộ của Quốc gia xin trợ giúp.
8. Không có điểm nào trong điều
luật này gây tổn hại đến các quyền lợi và nghĩa vụ đối với các đặc quyền và
quyền được miễn trừ được đưa ra thie các thoả thuận Quốc tế khác cũng như các
quy tắc Quốc tế thông thường.
9. Khi ký, phê chuẩn, chấp nhận,
thông qua hay tán thành Công ước này, mỗi Quốc gia có thể công bố rằng họ không
đồng ý với những rằng buộc trong toàn bộ hay từng phần của các mục 2 và 3.
10. Một Quốc gia sau khi thông
báo theo như mục 9 có thể huỷ bỏ những điều đó vào bất cứ lúc nào bằng cách
thông báo lại cho bộ phận lưu trữ.
Điều 9. Di chuyển người,
thiết bị và tài sản
Mỗi Quốc gia tham gia, theo yêu
cầu của Quốc gia xin trợ giúp hoặc bên giúp đỡ sẽ tìm cách tạo điều kiện thuận
lợi cho việc di chuyển qua lãnh thổ của mình những người, thiết bị và tài sản
đã được thông báo đầy đủ tham gia vào việc trợ giúp tới và đi khỏi Quốc gia xin
trợ giúp.
Điều 10. Các đòi hỏi và đền bù
1. Các Quốc gia tham sẽ hợp tác chặt
chẽ với nhau để tạo điều kiện thuận lợi giải quyết các tố tụng pháp luật và các
đòi hỏi trong điều này.
2. Trừ khi có những thoả thuận
khác, Quốc gia có yêu cầu sẽ dựa trên những sự chất chóc, bị thương về người,
những hư hỏng hay thiệt hại về tài sản, hay sự tổn hại đối với môi trường ở
trên lãnh thổ mình hay trên những khu vực thuộc quyền quản lý hay điều khiển
của mình trong quá trình có trợ giúp mà yêu cầu:
a) Không tiến hành bất cứ kiện
tụng pháp luật nào chống lại phía giúp đỡ hoặc những người, đơn vị hợp pháp đại
diện.
c) Giữ cho phía giúp đỡ hay
người, đơn vị hợp pháp đại diện không bị tổn hại do tố tụng pháp luật hay đòi
hỏi khác tương ứng với điểm (b) ở trên, và
d) Đền bù cho phía người giúp đỡ
hoặc những người, đơn vị hợp pháp đại diện cho các:
(i) Chết chóc hoặc bị thương đối
với người của phía giúp đỡ hay những người thay mặt;
(ii) Mất mát hay thiệt hại đối
với các thiết bị và nguyên liệu không bị hao mòn có liên quan đến việc trợ
giúp; ngoại trừ trường hợp do các cá nhân cố tình làm sai để dẫn đến các chất
chóc, thương tật, mất mát hay hư hỏng.
3. Điều khoản này không ngăn cản
sự đền bù hay bồi thường có được do áp dụng các thoả thuận quốc tế hay luật
Quốc gia của bất kỳ Quốc gia nào.
4. Không có điểm nào trong điều
luật này yêu cầu Quốc gia xin trợ giúp áp dụng Mục 2 toàn bộ hay từng phần đối
với những người định cư vĩnh viễn hay cư dân của mình.
5. Sau khi đã ký, phê chuẩn,
chấp nhận, thông qua hay tán thành Công ước này, mỗi Quốc gia còn có thể công
bố rằng:
a) Họ không công nhận những rằng
buộc trong toàn bộ hay từng phần của Mục 2;
b) Họ sẽ không áp dụng toàn bộ
hay từng phần của Mục 2 trong những trường hợp do sự cẩu thả lớn của các cá
nhân dẫn đến chết chóc, bị thương, mất mát hay hư hỏng.
6. Một Quốc gia sau khi công bố
theo Mục 5 có thể tuyên bố rút lại vào bất kỳ thời điểm nào bằng cách thông báo
cho bộ phận lưu trữ.
Điều 11. Kết thúc trợ giúp
Quốc gia xin trợ giúp hoặc phía
trợ giúp có thể vào mọi thời điểm sau khi đã tham khảo ý kiến nhau và công bố
bằng văn bản yêu cầu chấm dứt sự trợ giúp nhận được hoặc đang cùng cấp theo
Công ước này. Một khi đề nghị như vật được đưa ra, các bên tham gia sẽ thảo
luận với nhau để dàn xếp cho việc kết thúc trợ giúp một cách thuận lợi.
Điều 12. Quan hệ với các thoả
thuận Quốc tế khác
Công ước nàu sẽ không ảnh hưởng
đến các quyền lợi và nghĩa vụ đối với nhau giữa các Quốc gia tham gia theo các
thoả thuận quốc tế tồn tại mà có liên quan đến những vấn đề nằm trong Công ước
này, hoặc theo các thoả thuận Quốc tế trong tương lai được ký kết tương ứng với
đối tượng và mục đích của Công ước này.
Điều 13. Giải quyết các tranh
chấp
1. Trường hợp có tranh chấp giữa
các Quốc gia tham gia hay giữa một Quốc gia tham gia và Cơ quan Năng lượng
Nguyên tử Quốc tế, liên quan đến việc dịch thuật hoặc áp dụng Công ước này, các
phia tham gia tranh chấp bằng đàm phán hoặc bằng mọi biện pháp hoà bình khác để
giải quyết các tranh chấp.
2. Nếu có một tranh chấp kiểu
này giữa các Quốc gia tham gia không thể giải quyể được trong vòn một năm kể từ
khi có yêu cầu thảo luận theo Mục 1 thì theo yêu cầu của bất kỳ bên nào trong
vụ này, nó sẽ được đưa ra phán xử hay chuyển lên Toà án Quốc tế để quyết định.
Khi một tranh chấp được đưa ra phán xử, nếu trong 6 tháng kể từ ngày đề nghị, các
bên tham gia tranh chấp không đồng ý được với nhau về việc tổ chức phán xử thì một
bên có yêu cầu Chủ tịch Toà án Quốc tế hoặc Tổng thư ký Liên Hiệp quốc chỉ định
một hay vài trọng tài. Trong những trường hợp có các đề nghị mâu thuẫn nhau bởi
các phía tham gia tranh chấp với đề nghị đối với Tổng thư ký Liên Hiệp quốc sẽ
được ưu tiên.
3. Khi ký, phê chuẩn, chấp nhận,
thông qua hay tán thành Công ước này, mỗi Quốc gia có thể công bố rằng họ không
công nhận những rằng buộc của mỗi hay cả hai thủ tục dàn xếp tranh chấp được
đưa ra trong Mục 2. Các Quốc gia tham gia khác sẽ không bị ràng buộc bởi thủ
tục dàn xếp tranh chấp được đưa ra ở Mục 2 đối với Quốc gia tham gia đã công bố
như vậy.
4. Mỗi Quốc gia tham gia sau khi
đã công bố như ở Mục 3 có thể tuyên bố rút lại bất kỳ thời điểm nào bằng cách
thống báo cho bộ phận lưu trữ.
Điều 14. Bắt đầu có hiệu lực
1. Công ước này sẽ được đưa ra
để ký với mọi Quốc gia và Nambia mà người đại diện là Hội đồng Dân tộc Thống
nhất Nambia tại trụ sở Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế ở Viên và trụ sở
Liên Hiệp quốc tại New York từ 26-9-1986 và 6-10-1986 tương ứng, cho tới khi nó
bắt đầu có hiệu lực hoặc sau 12 tháng tuỳ theo thời gia nào dài hơn.
2. Mỗi Quốc gia và Nambia, đại
diện bởi Hội đồng Dân tộc Thống nhất Nambia, có thể bày tỏ sự đồng ý tham gia
vào Công ước này bằng cách hoặc là ký vào hoặc là gửi đến một văn kiện phê
chuẩn, chấp nhận hay thông qua sau khi đã ký phê chuẩn chấp nhận hay thông qua,
hoặc là gửi đến một văn kiện đồng ý. Các văn kiện phê chuẩn, chấp nhận, thông
qua hay đồng ý sẽ được đặt vào lưu trữ.
3. Công ước này sẽ bắt đầu có
hiệu lực sau 30 ngày sau khi có ba Quốc gia tham gia đồng ý tham gia.
4. Đối với mỗi Quốc gia đồng ý
tham gia vào Công ước này sau khi nó bắt đầu có hiệu lực, Công ước này sẽ bắt đầu
có hiệu lực đối với Quốc gia đó từ sau 30 ngày kể từ khi Quốc gia đó ký chấp
nhận.
5. a) Công ước này sẽ được đưa
ra để chấp thuận, như đã noi trong điều luật này, bởi các Tổ chức quốc tế và
các Tổ chức thông nhất khi vực được thiết lập bởi các Quốc gia có chủ quyền, có
hiệu lực trong đàm phán, ký kết và thực thi các thoả thuận Quốc tế trong những
lĩnh vực được nói đến trong Công ước này.
b) Theo nghĩa về quyền lực của
họ, những Tổ chức Quốc tế này cần phải tự bản thân mình thực thi được các quyền
và thực hiện được các nghĩa vụ mà Công ước này đề ra cho các Quốc gia tham gia.
c) Khi đưa ra văn kiện chấp nhận
của mình, mỗi tổ chức này cần phải thông báo cho bộ phận lưu trữ một công bố
chỉ rõ mức độ quyền lực của mình đối với các vấn đề được đưa ra trong Công ước
này.
d) Mỗi tổ chức như vậy sẽ không
giữ thêm bất kỳ một lá phiếu nào đối với các Quốc gia thành viên.
Điều 15. Việc áp dụng tạm thời
Một Quốc gia có thể tuyên bố
rằng họ sẽ chỉ áp dụng Công ước tạm thời trong khi ký hoặc vào một thời điểm
bất kỳ nào trước khi Công ước này bắt đầu có hiệu lực đối với họ.
Điều 16. Các sửa đổi, bổ sung
1. Mỗi Quốc gia đều có thể đề
xuất những sửa đổi đối với Công ước này. Những sửa đổi được đề xuất sẽ được
trình cho Ban Lưu trữ và họ sẽ thông tin tức thời cho mọi Quốc gia tham gia
khác.
2. Nếu đa số các Quốc gia tham
gia yêu cầu Ban Lưu trữ triệu tập một Hội nghị để xem xét những dự thảo sửa
đổi, Ban Lưu trữ sẽ mời mọi Quốc gia tham gia dự một Hội nghị như vậy, bắt đầu
không sớm hơn 30 ngày tính từ khi lời mời được đưa ra. Bất kỳ một sửa đổi nào
được thông qua tại Hội nghị bởi hai phần ban đa số của mọi Quốc gia tham gia sẽ
được đưa vào Nghị định thư và sẽ được đưa ra để ký tại Viên và New York cho mọi
Quốc gia tham gia.
3. Nghị định thư bắt đầu có hiệu
lực sau 30 ngày kể từ khi được sự chấp thuận của ba Quốc gia. Đối với mỗi Quốc
gia khi sự bày tỏ sự chấp thuận đối với Nghị định thư này sau khi nó đã bắt đầu
có hiệu lực, Nghị định thư này sẽ bắt đầu có hiệu lực đối với Quốc gia đó sau
30 ngày kể từ ngày ký chấp thuận.
Điều 17. Tuyên bố bãi ước
1. Một quốc gia tham gia có thể
tuyên bố bãi ước đối với Công ước này bằng cách gửi thông báo bằng văn bản cho
bộ phân lưu trữ.
2. Sự bãi ước sẽ bắt đầu có hiệu
lực sau 1 năm kể từ ngày Ban Lưu trữ nhận được thông báo.
Điều 18. Người lưu trữ
1. Tổng Giám đốc của Cơ quan
Năng lượng Nguyên tử Quốc tế sẽ là Người lưu trữ của Công ước này.
2. Tổng Giám đốc của Cơ quan sẽ
thông báo lập tức cho các Quốc gia tham gia và mọi Quốc gia khác về:
a) Mỗi thành viên ký vào Công
ước này hoặc bất kỳ một Nghị định thư sửa đổi nào;
b) Việc gửi đến các văn kiện phê
chuẩn, chấp nhận, thông qua hay tán thành có liên quan đến Công ước này hay bất
kỳ một Nghị định thư sửa đổi nào;
c) Các tuyên bố hoặc rút lui từ đó
theo các Điều 8, 10 và Điều 13;
d) Các tuyên bố về áp dụng tạm
thời Công ước này theo Điều 15;
e) Sự bắt đầu có hiệu lực của
Công ước này và mọi sửa đổi bổ sung theo đó; và
f) Bất kỳ sự bãi ước nào theo
Điều 17.
Điều 19. Các văn bản tin cậy
và các bản copy được xác minh
Bản gốc của Công ước này, mà các
bản bằng các thứ tiếng Ả rập, Trung Quốc, Anh, Pháp, Nga, Tây Ban Nha đều có
giá trị xác thực như nhau, sẽ được để lại Tổng giám đốc Cơ quan Năng lượng
Nguyên tử Quốc tế, người sẽ gửi các bản Copy được xác nhận cho các Quốc gia
tham gia và mọi Quốc gia khác.
ĐỂ CHỨNG THỰC ĐIỀU NÀY, những
người tham gia ký, sau khi đã được uỷ quyền đầy đủ, đã ký vào Công ước này mà
đã được đưa ra để ký như đã nói trong Mục 1, Điều 14,
ĐƯỢC THÔNG QUA bởi Đại Hội đồng
của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế nhóm họp trong phiên họp đặc biệt tại
Viên ngày 26 tháng 9 năm 1986.