BỘ
NÔNG TRƯỜNG
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
68-TT/KV
|
Hà
Nội, ngày 03 tháng 11 năm 1966
|
THÔNG TƯ
VỀ CÁCH CHUYỂN CHI PHÍ CÂY TRỒNG TỪ NĂM TRƯỚC SANG NĂM SAU
BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG TRƯỜNG
Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
nhiệt đới là sản xuất quanh năm, thu hoạch bốn mùa. Vụ đông – xuân là một vụ sản
xuất lớn, kéo dài từ cuối năm trước sang đầu năm sau. Có những loại cây, gieo
trồng năm trước, năm sau mới thu hoạch như lúa chiêm, thuốc lá, khoai xuân, ngô
xuân; có những loại cây, chăm sóc năm trước, phục vụ cho đợt hoa và quả của năm
sau của cà-phê, hồ tiêu.
Ngành nông trường quốc doanh là
một ngành kinh tế của Nhà nước, phải tính giá thành và kết quả kinh doanh cuối
năm dương lịch như các ngành kinh tế quốc dân khác.
Việc kết thúc năm kế hoạch không
ăn khớp với việc kết thúc mùa vụ của một số cây trồng đặt ra vấn đề phải chuyển
một số chi phí cây trồng từ năm trước sang năm sau. Từ trước đến nay, việc chuyển
chi phí này chưa được quy định thống nhất, dẫn đến việc chuyển chi phí còn tùy
tiện, làm cho việc tính giá thành sản phẩm thiếu chính xác, việc đánh giá kết
quả kinh doanh của từng năm chưa được đúng đắn.
Thông tư này quy định thống nhất
cách chuyển chi phí cây trồng từ năm trước sang năm sau và áp dụng cho toàn
ngành từ cuối năm 1966.
I. NGUYÊN TẮC CHUYỂN CHI PHÍ
1. Nguyên tắc chung là chi phí cho vụ thu
hoạch nào, chuyển cho sản phẩm của vụ đó. Tuy nhiên, đối với cây lâu năm, thời
gian chăm sóc và thu hoạch có thể xê dịch, lên xuống; trong thu hoạch lại có thời
kỳ thu đầu, thu rộ và thu vét, thời gian thu hoạch kéo dài, trong khi đó vẫn tiếp
tục chăm sóc. Vì vậy, việc chuyển chi phí sang năm sau, chủ yếu là căn cứ vào lịch
chăm sóc và thu hoạch, đồng thời có tính đến yêu cầu hạch toán cho phù hợp với
nền sản xuất đại nông.
2. Chi phí chuyển sang năm sau, phải chuyển
theo từng khoản mục giá thành để có điều kiện phân tích giá thành của năm sau.
3. Chi phí chuyển sang năm sau, phải chuyển
hết vào giá thành sản phẩm thu hoạch trong năm sau (trừ sắn lưu niên), mặc dù sản
lượng thu hoạch thực tế trong năm sau cao hơn hoặc thấp hơn sản lượng giám định.
4. Trong hạch toán giá thành, phải phân
biệt giá thành sản phẩm của từng năm, chứ không nhập chung sản phẩm của năm trước
vào sản phẩm của năm sau, để có cơ sở so sánh với giá thành kế hoạch của từng
năm.
5. Thiệt hại về thiên tai, địch họa, đã
được cấp trên cấp bù, trừ được bớt chi phí, trước lúc tính chi phí chuyển sang
năm sau.
II. CÁCH CHUYỂN CỤ THỂ CHI
PHÍ TỪ NĂM TRƯỜNG SANG NĂM SAU
1. Đối với những cây ngắn
ngày gieo tròng cuối năm trước, thu hoạch đầu năm sau như lúa chiêm, thuốc lá,
khoai xuân, v.v…
Toàn bộ chi phí gieo trồng thực
tế đều chuyển qua năm sau.
2. Đối với những cây gieo trồng,
chăm sóc trong năm trước, tiếp tục chăm sóc và thu hoạch một phần trong năm sau
như sắn.
- Căn cứ vào sản lượng thu hoạch
thực tế cuối năm và tình hình cây cối trên các diện tích chưa thu hoạch mà giám
định sản lượng còn lại.
- Chia toàn bộ chi phí gieo trồng
và chăm sóc cho toàn bộ sản lượng (sản lượng thực thu + sản lượng dự thu) thành
ra chi phí gieo trồng và chăm sóc cho một đơn vị sản phẩm.
- Nhân chi phí đó cho sản lượng
dự thu để tính ra số chi phí phải chuyển sang năm sau.
Ví dụ: Nông trường A, đầu
năm 1966, gieo trồng 100 hécta sắn, cuối năm thu hoạch 60 hécta được 720 tấn. Sản
lượng dự thu qua năm 1967 là 400 tấn. Chi phí gieo trồng và chăm sóc là
54.000đ.
Chi phí chuyển sang năm sau là:
Nếu đầu năm 1967, chỉ thu
hoạch 150 tấn, còn tiếp tục chăm sóc đến cuối năm (chi phí chăm sóc thêm là
200đ) và cuối năm lại chỉ thu hoạch 100 tấn, còn 150 tấn chuyển sang đầu năm
1968 thì chi phí chuyển sang năm 1968 sẽ là:
3. Đối với cà phê.
a) Cà phê chè: Thu hoạch
từ tháng 10 năm trước đến cuối tháng 1 và có thể tận thu đến cuối tháng 2 năm
sau, toàn bộ chi phí chăm sóc từ tháng 10 năm trước đều chuyển sang năm sau.
Chi phí đó, cộng với chi phí chăm sóc từ tháng 1 đến cuối tháng 9 năm sau thành
ra toàn bộ chi phí chăm sóc. Lấy toàn bộ chi phí chăm sóc chia ra toàn bộ sản
lượng, gồm sản lượng thực thu cuồi năm + sản lượng ước thu đầu năm để tìm ra
chi phí chăm sóc cho một đơn vị sản phẩm. Nhân chi phí chăm sóc cho một đơn vị
sản phẩm với sản lượng dự thu đầu năm sau thành ra chi phí chuyển sang năm sau.
Ví dụ: Nông trường B có
50 hécta cà-phê chè. Từ tháng 10 đến cuối tháng 12 năm 1965 đã chỉ vào công tác
chăm sóc 12.500đ. Từ tháng 1 năm 1966 đến cuối tháng 9 năm 1966, chi thêm vào
công tác chăm sóc là 42.000đ. Toàn bộ chi phí chăm sóc cho vụ thu hoạch năm
1966-1967 là: 12.500đ + 42.000đ = 54.500đ.
Đến cuối năm, thực thu được 180
tấn, giám định sản lượng còn có thể thu đầu năm 1967 là 40 tấn.
Chi phí chuyển sang năm 1967 cho
vụ thu hoạch 1967-1967 là:
Từ đầu tháng 10 đến cuối tháng
12 năm 1966, còn chi cho công tác chăm sóc 13.200đ. Chi phí này cũng chuyển
sang năm 1967, nhưng là chuyển cho vụ thu hoạch 1967-1968 vì vậy, trong sổ
sách, cần phải phân biệt cho rõ ràng để khỏi nhầm lẫn.
b) Cà phê vối: Thu hoạch
rộ trong các tháng 1, 2, 3 toàn bộ chi phí chăm sóc trong năm trước đều chuyển
sang năm sau để tính cho vụ thu hoạch đầu năm.
Trường hợp cà-phê vối chín sớm,
thu hoạch một phần cuối năm trước và một phần đầu năm sau thì lấy toàn bộ chi
phí chăm sóc trong năm kế hoạch chia cho toàn bộ sản lượng (sản lượng thực thu
+ sản lượng giám định còn lại sẽ thu đầu năm sau), rồi nhân với sản lượng dự
thu thành ra chi phí chuyển năm sau.
c) Cà phê mít: Thu hoạch
rộ trong các tháng 6, 7, 8 chi phí chăm sóc từ đầu tháng 7 năm trước đều chuyển
sang năm sau. Chi phí đó, cộng với chi phí chăm sóc phát sinh từ đầu năm sau đến
cuối tháng 6 thành ra toàn bộ chi phí chăm sóc của vụ thu hoạch năm sau.
4. Đối với chè, việc đốn
phớt có thể tiến hành vào cuối năm trước hoặc đầu năm sau. Trong đốn phớt có
thu hoạch chè lá già. Chi phí đốn phớt phát sinh trong năm nào tính vào giá
thành năm đó, không đặt vấn đề chuyển sang năm sau.
Chi phí tủ đất, tủ đất có tác dụng
rõ rệt trong hai năm, nên chi phí tủ đất được phân bổ trong hai năm. Nếu tủ đất
đầu năm thì chi phí tủ đất được phân bổ trong năm kế hoạch 50% và chuyển sang
năm sau 50%. Nếu tủ đất từ quý III trở đi thì chi phí tủ đất chuyển sang năm
sau và phân bổ cho năm sau 50% năm tiếp theo 50%.
5. Đối với hồ tiêu: cũng
chuyển chi phí như đối với cà-phê mít.
6. Đối với cam kinh doanh,
nếu có tủ đất thì cách phân bổ chi phí tủ đất cũng như đối với chè.
7. Đối với gai, cói, sả,
năm đầu chưa tính giá thành. Thu hoạch năm đầu xem mhư thu bói. Tất cả chi phí
năm đầu, sau khi trừ giá trị sản phẩm thu được, đều chuyển sang năm sau và phân
bổ đều cho thời gian thu hoạch, tạm quy định như sau:
Gai:
10 năm,
Cói:
7 năm,
Sả:
3 năm.
Nếu chưa đến thời gian quy định
trên mà cây đã phải hủy, không sản xuất được nữa, thì tất cả chi phí còn lại
chưa phân bổ đều phải phân bổ vào năm thu hoạch cuối cùng.
Nếu đã phân bổ xong rồi mà cây
còn tiếp tục sản xuất thì không phải phân bổ gì nữa. (Chỉ thị số 47-CT/KV ngày
06 tháng 11 năm 1965).
Để đảm bảo cho chi phí chuyển
sang năm sau được chính xác, cuối năm công trường cần phải tổ chức hội đồng
giám định sản lượng chuyển sang năm sau, thành phần gồm đại diện giám đốc, cán
bộ kỹ thuật trồng trọt, thống kê, kế toán. Biên bản của Hội đồng giám định là
căn cứ để kế toán xác định chi phí chuyển từ năm trước sang năm sau.
Thông tư này phải được phổ biến
cho các ngành trồng trọt, kế hoạch, thống kê, kế toán tài vụ biết để thi hành.
|
K.T. BỘ TRƯỞNG
BỘ NÔNG TRƯỜNG
THỨ TRƯỞNG
Lê Duy Trinh
|