|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Thông tư 23/2000/TT-BTC xử lý, thanh toán nợ giai đoạn II do Bộ Tài chính ban hành, để hướng dẫn Quyết định 05/2000/QĐ-TTg
Số hiệu:
|
23/2000/TT-BTC
|
|
Loại văn bản:
|
Thông tư
|
Nơi ban hành:
|
Bộ Tài chính
|
|
Người ký:
|
Trần Văn Tá
|
Ngày ban hành:
|
27/03/2000
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đã biết
|
|
Số công báo:
|
Đã biết
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
BỘ
TÀI CHÍNH
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
23/2000/TT-BTC
|
Hà
Nội, ngày 27 tháng 3 năm 2000
|
THÔNG TƯ
BỘ TÀI CHÍNH SỐ 23/2000/TT- BTC NGÀY 27 THÁNG 3 NĂM 2000 HƯỚNG
DẪN THỰC HIỆN QUYẾT ĐỊNH SỐ 05 /2000/QĐ-TTG NGÀY 05 THÁNG 01 NĂM 2000 CỦA THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG QUYẾT ĐỊNH SỐ 95/1998/QĐ-TTG NGÀY18 THÁNG 5
NĂM 1998 CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ XỬ LÝ, THANH TOÁN NỢ GIAI ĐOẠN II.
Thi hành Quyết định số 05
/2000/QĐ-TTg ngày 05 tháng 01 năm 2000 của Thủ tướng Chính phủ về sửa đổi, bổ
sung Quyết định số 95/1998/QĐ-TTg ngày 18 tháng 5 năm 1998 của Thủ tướng Chính
phủ về xử lý thanh toán nợ giai đoạn II. Sau khi có ý kiến tham gia của Ngân
hàng Nhà nước tại công văn số 41/CV-TD.3 ngày 27 tháng 01 năm 2000;
Bộ Tài chính hướng dẫn những điểm sửa đổi, bổ sung về xử lý, thanh toán và hạch
toán kế toán công nợ giai đoạn II như sau:
I. NHỮNG QUY
ĐỊNH CHUNG:
- Các bên có nợ phải thu, phải
trả đã kê khai xác nhận nợ, hoặc chưa kê khai nhưng đã được đối chiếu, xác nhận
của chủ nợ và con nợ theo Quyết định số 277/CT ngày 29/7/1992 của Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) và đề án thanh toán công nợ giai đoạn
II là đối tượng thi hành Thông tư này .
- Xử lý, thanh toán nợ giai đoạn
II căn cứ vào quy định của đề án Tổng thanh toán nợ giai đoạn II, Quyết định số
95/1998/QĐ-TTg ngày 18 tháng 5 năm 1998, Thông tư Liên tịch của Bộ Tài chính -
Ngân hàng Nhà nước số 102/1998/TTLT-BTC-NHNN ngày18 tháng 7 năm 1998 và Quyết định
số 05 /2000/QĐ-TTg ngày 05 tháng 01 năm 2000 của Thủ tướng Chính phủ về sửa đổi,
bổ sung xử lý, thanh toán nợ giai đoạn II, Pháp luật tại thời điểm phát sinh nợ
và Thông tư này .
- Các bên chủ nợ, con nợ là người
chịu trách nhiệm trong việc xử lý, thanh toán những khoản nợ thuộc đối tượng nợ
giai đoạn II của đơn vị mình.
- Ban thanh toán nợ các cấp có
trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra giám sát tình hình thực hiện xử lý, thanh toán nợ
và kiến nghị với cấp có thẩm quyền xử lý hành chính, hoặc pháp luật đối với các
đơn vị có nợ, mà không thực hiện trách nhiệm xử lý, thanh toán nợ.
- Các tổ chức, cá nhân bảo lãnh,
hoặc cho phép các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức Kinh tế- Chính trị - Xã hội
vay vốn, mua bán trả chậm vật tư, hàng hoá phải chịu trách nhiệm trả nợ thay, nếu
đối tượng mà mình bảo lãnh hoặc cho phép không trả được nợ. Đối tượng được trả
nợ thay phải hoàn trả nợ cho tổ chức, cá nhân bảo lãnh, hoặc cho phép.
II. QUY ĐỊNH
CỤ THỂ
1. Căn cứ xử lý nợ.
Trường hợp hồ sơ để xử lý nợ
không đủ theo quy định tại Thông tư Liên tịch số 102/1998/TTLT-BTC-NHNN ngày 18
tháng 7 năm 1998 của Bộ Tài chính - Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện Quyết
định số 95/1998/QĐ-TTg ngày 18 tháng 5 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ về xử
lý, thanh toán nợ giai đoạn II, thì tối thiểu phải có những căn cứ sau:
- Thẻ xác nhận nợ ( đã được xác
nhận của con nợ), hoặc biên bản đối chiếu nợ được chủ nợ và con nợ xác nhận.
- Biên bản phân tích nguyên nhân
phát sinh nợ của Ban thanh toán nợ cấp tỉnh đối với các doanh nghiệp thuộc địa
phương, của Ban thanh toán nợ Bộ, ngành đối với các doanh nghiệp thuộc Trung
ương.
Đối với những trường hợp con nợ
đã giải thể, phá sản, ngừng hoạt động không còn đầy đủ hồ sơ theo quy định, thì
cơ quan quyết định thành lập, Ban thanh toán nợ cùng cấp lập biên bản xác nhận
không còn đủ hồ sơ như quy định để làm cơ sở xử lý, đồng thời phải có trách nhiệm
thông báo cho chủ nợ về quyết định giải thể, hoặc có văn bản xác nhận về việc
đơn vị đã giải thể, phá sản, ngừng hoạt động (thời điểm giải thể, phá sản, ngừng
hoạt động và thực trạng tài chính của doanh nghiệp).
- Khoản nợ được phán quyết bằng
văn bản của Trọng tài kinh tế Nhà nước, bản án dân sự của Toà án mà chưa lập thẻ
xác nhận nợ thì bản phán quyết đó được coi là căn cứ để thanh toán và xử lý nợ.
2. Về tỷ giá ngoại tệ.
- Các đơn vị lập thẻ đòi nợ quyền
sử dụng ngoại tệ đã được con nợ xác nhận; nếu trước kia con nợ đã trả đủ tiền đối
giá theo tỷ giá quyết toán nội bộ do Nhà nước quy định thì được coi là đã thanh
toán cho chủ nợ .
- Tỷ giá các loại ngoại tệ để
thanh toán được quy định tại thời điểm kê khai nợ 30/ 4 /1991 như sau:
+ Đô la Mỹ: 7.900 đồng/ USD.
+ Vàng: 373.000 đồng / chỉ.
+ Yên : 76 đồng/ Yên.
+ Frăng: 1.420 đồng/.Fr.
+ Nhân dân tệ: 886 đồng/ NDT.
+ Rúp : 4000 đ/Rúp.
Các loại ngoại tệ khác được quy
đổi ra USD ( đô la Mỹ) theo tỷ giá tại thời điểm kê khai nợ ( 30/4/1991).
3. Thẩm quyền quyết định xử lý nợ.
a. Đối với khoản nợ của doanh
nghiệp nhà nước do Hội đồng quản trị hoặc Tổng giám đốc, Giám đốc (đối với
doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị) có trách nhiệm xử lý nợ theo các
nguyên tắc sau:
Đối với nợ phải thu của doanh
nghiệp mà con nợ đã giải thể, phá sản, ngừng hoạt động hoặc con nợ còn tồn tại
nhưng không có khả năng chi trả... được hạch toán vào quỹ dự phòng tài chính, nếu
thiếu thì hạch toán vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với các khoản nợ phải trả
nhưng không còn đối tượng để trả thì doanh nghiệp được hạch toán vào thu nhập bất
thường.
Đối với các khoản nợ phải thu nhỏ
mà chi phí đi đòi nợ ( theo dự toán ) lớn hơn giá trị khoản nợ phải thu, thì hạch
toán vào quỹ dự phòng tài chính, nếu thiếu thì hạch toán vào kết quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp và tự chịu trách nhiệm không phải trình các cơ quan
quản lý Nhà nước. Khi xử lý các khoản nợ trên, doanh nghiệp vẫn phải theo dõi
ngoại bảng và tiếp tục thu nợ , khi thu được nợ hạch toán vào thu nhập bất thường
của doanh nghiệp.
b. Đối với khoản nợ (phải thu) của
Ngân hàng Thương mại quốc doanh đã lên lưới thanh toán, có xác nhận của Ban
thanh toán nợ địa phương( số nợ đã xác nhận, tình trạng tài chính, khả năng
thanh toán), các Ngân hàng Thương mại quốc doanh được quyết định xử lý như đối
với các khoản nợ của doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại điểm a nêu trên và
báo cáo Ngân hàng Nhà nước. Những khoản nợ được chuyển từ vốn vay của Ngân hàng
thành vốn cấp của Ngân sách Nhà nước thì Ngân hàng Thương mại phải báo cáo Ngân
hàng Nhà nước để báo cáo với Bộ Tài chính xem xét ra quyết định giảm vốn cấp
cho các Ngân hàng Thương mại và tăng vốn cho các doanh nghiệp được chuyển từ vốn
vay thành vốn cấp.
Hàng tháng các Ngân hàng Thương
mại quốc doanh phải báo cáo tiến độ xử lý nợ về Ban chỉ đạo tổng thanh toán nợ
Trung ương, Bộ Tài chính để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
c) Đối với các khoản doanh nghiệp
nợ Ngân sách do cơ quan Tài chính cùng cấp chủ trì xử lý theo quy định tại
Thông tư liên tịch số 102/1998/TTLT-BTC-NHNN ngày 18 tháng 7 năm 1998 của Bộ
Tài chính - Ngân hàng Nhà nước (Bộ Tài chính xử lý đối với các doanh nghiệp nợ
Ngân sách Trung ương và Sở Tài chính xử lý đối với các doanh nghiệp nợ Ngân
sách địa phương), hoặc trình cấp có thẩm quyền quyết định.
d) Đối với khoản doanh nghiệp nợ
Dự trữ Quốc gia do Cục Dự trữ Quốc gia chủ trì xử lý. Trước khi xử lý phải có sự
tham gia của Ban thanh toán nợ địa phương trên cơ sở chế độ đã quy định về
thanh toán nợ, xử lý nợ. Cục Dự trữ Quốc gia tổng hợp số nợ đã xử lý, báo cáo
Ban chỉ đạo tổng thanh toán nợ Trung ương, Bộ Tài chính để Bộ Tài chính ra quyết
định giảm vốn cho Cục Dự trữ Quốc gia. Hàng tháng Cục Dự trữ Quốc gia báo cáo
tiến độ xử lý với Ban chỉ đạo tổng thanh toán nợ Trung ương, Bộ Tài chính.
đ) Đối với khoản nợ do các Bộ,
ngành, địa phương đứng ra bảo lãnh, hoặc cho phép doanh nghiệp kinh doanh vay,
mua vật tư, hàng hoá theo phương thức trả chậm nước ngoài được thực hiện theo
quy định tại khoản 4 Điều 1 Quyết định số 05/2000/QĐ-TTg ngày 5 tháng 01 năm
2000 của Thủ tướng Chính phủ về sửa đổi, bổ sung Quyết định số 95/1998/QĐ-TTg
ngày 18 tháng 5 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ về xử lý, thanh toán nợ giai
đoạn II.
4. Đối với những khoản nợ phải
thu do nguyên nhân chủ quan, sau khi đã xác định người phải bồi thường vật chất
thì phải có quyết định cụ thể mức bồi thường vật chất, phần chênh lệch giữa số
nợ phải thu với số tiền đã bồi thường cũng được hạch toán vào quỹ dự phòng tài
chính, nếu thiếu được hạch toán vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
5. Đối với các khoản nợ có dấu
hiệu vi phạm pháp luật, nếu chủ nợ được xác nhận không đòi được, thì chủ nợ
chuyển hồ sơ sang cơ quan Công an để điều tra, trong thời gian không quá 6
tháng, cơ quan điều tra phải có kết luận và chuyển hồ sơ cho Toà án kinh tế để
xét xử. Sau khi xét xử Toà án thông báo cho chủ nợ và các cơ quan có liên quan
biết số nợ mà chủ nợ được thu, những khoản không có khả năng thu. Khoản nợ
không thu hồi này, được lấy quỹ dự phòng tài chính bù đắp, nếu thiếu hạch toán
vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (nếu là khoản nợ của doanh
nghiệp) hoặc xử lý giảm vốn của Dự trữ Quốc gia, xoá nợ phải trả cho Ngân sách
(nếu là nợ Dự trữ Quốc gia và nợ Ngân sách). Sau khi xử lý có thu được nợ bằng
tài sản thì doanh nghiệp tính ra giá trị và hạch toán vào thu nhập bất thường của
doanh nghiệp (nếu là khoản nợ của doanh nghiệp) hoặc nộp vào Ngân sách Nhà nước
địa phương (nếu là nợ Dự trữ Quốc gia và nợ Ngân sách Nhà nước).
6. Đối với những khoản nợ đã có
quyết định của Toà án, phán quyết của Trọng tài kinh tế Nhà nước, thì chủ nợ phải
đòi nợ ; nếu con nợ còn khả năng thanh toán thì chủ nợ đề nghị cơ quan Thi hành
án thực hiện cưỡng chế để thu hồi nợ theo Thông tư Liên ngành số 05/TTLN ngày
21/8/1992 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ,
Bộ Tư pháp, Trọng tài kinh tế Nhà nước hướng dẫn giải quyết một số vấn đề liên
quan đến thực hiện tổng thanh toán nợ. Số chênh lệch giữa số phải thu và số tiền
thực thu hạch toán vào quỹ dự phòng tài chính, nếu thiếu thì hạch toán vào kết
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
7. Các doanh nghiệp nhà nước được
xử lý một lần, hoặc nhiều lần các khoản nợ không đòi được vào quỹ dự phòng tài
chính, nếu thiếu thì hạch toán vào kết quả sản xuất kinh doanh hàng năm của
doanh nghiệp, nhưng tối đa không quá 5 năm. Nếu việc xử lý vào kết quả sản xuất
kinh doanh hàng năm mà doanh nghiệp bị giảm lãi, hoặc tăng lỗ tương ứng với số
nợ không đòi được của doanh nghiệp, thì doanh nghiệp vẫn được hưởng các quyền lợi
sau:
- Được tiếp tục vay vốn Ngân
hàng để sản xuất kinh doanh nếu đủ các điều kiện khác theo quy định của các
Ngân hàng Thương mại quốc doanh.
- Được hưởng quỹ tiền lương như
trước khi hạch toán khoản nợ khó đòi vào kết quả sản xuất kinh doanh.
- Được giữ nguyên hạng của doanh
nghiệp đã xếp hạng.
- Được trích các quỹ khen thưởng
và quỹ phúc lợi như trước khi xử lý nợ theo quy định của chế độ hiện hành.
8. Đối với 2 doanh nghiệp nhà nước
đang hoạt động có nợ lẫn nhau (đã xác nhận), nếu không trực tiếp thanh toán được
nợ, thì doanh nghiệp báo cáo cơ quan tài chính cùng cấp để xử lý ghi tăng vốn
Nhà nước cho doanh nghiệp là con nợ và giảm vốn cho doanh nghiệp là chủ nợ ( số
vốn giảm của chủ nợ tối đa chỉ bằng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp). Sở Tài
chính Vật giá báo cáo Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định tăng, giảm vốn đối
với doanh nghiệp do địa phương quản lý, Bộ Tài chính ra quyết định tăng, giảm vốn
đối với doanh nghiệp do Trung ương quản lý.
III. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN.
1. Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương có trách nhiệm chỉ đạo các chủ nợ, con nợ thuộc phạm vi quản
lý của mình, khẩn trương phân tích, phân loại và giải quyết dứt điểm việc xử lý
thanh toán nợ giai đoạn II theo quy định trên đây. Các trường hợp không quy định
trong Thông tư này được xử lý theo chế độ hiện hành.
2. Ban thanh toán nợ các cấp
(Thường trực là cơ quan Tài chính) đôn đốc, kiểm tra việc xử lý nợ của các
doanh nghiệp có nợ đã kê khai nợ giai đoạn II và kiến nghị với cấp có thẩm quyền
xử lý kỷ luật những giám đốc doanh nghiệp không thực hiện xử lý, thanh toán nợ
đối với doanh nghiệp.
Đối với những khoản nợ vượt thẩm
quyền xử lý của doanh nghiệp, thì Ban thanh toán nợ có trách nhiệm thẩm định
phương án xử lý nợ khi doanh nghiệp trình cấp có thẩm quyền xử lý.
Mọi tổ chức và cá nhân giả mạo
chứng từ, lợi dụng việc xử lý, thanh toán nợ làm thất thoát tài sản Nhà nước,
mưu lợi cá nhân đều bị xử lý theo Pháp luật hiện hành .
Hàng tháng Ban thanh toán nợ các
cấp báo cáo kết quả thanh toán , xử lý nợ giai đoạn II cho Ban chỉ đạo tổng
thanh toán nợ Trung ương chậm nhất vào ngày mồng 5 của tháng sau để tổng hợp
báo Thủ tướng Chính phủ.
3. Ngoài những điểm quy định
trong Thông tư này việc xử lý thanh toán nợ giai đoạn II vẫn thực hiện theo
Thông tư Liên tịch số 102/1998/TTLT-BTC-NHNN ngày 18 tháng 7 năm 1998 của Bộ
Tài chính - Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện Quyết định số 95/1998/QĐ-TTg
ngày 18 tháng 5 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ .
Thông tư này có hiệu lực từ ngày
có hiệu lực thi hành Quyết định số 05/2000/QĐ-TTg ngày 5 tháng 01 năm 2000 của
Thủ tướng Chính phủ về sửa đổi, bổ sung Quyết định số 95/1998/QĐ-TTg ngày 18
tháng 5 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ về xử lý, thanh toán nợ giai đoạn II.
Trong quá trình thực hiện có những
vấn đề vướng mắc các Bộ, ngành và địa phương phản ảnh kịp thời về Bộ Tài chính,
Ngân hàng Nhà nước, Ban chỉ đạo tổng thanh toán nợ Trung ương để nghiên cứu, giải
quyết.
Thông tư 23/2000/TT-BTC hướng dẫn Quyết định 05/2000/QĐ-TTg sửa đổi Quyết định 95/1998/QĐ-TTg về xử lý, thanh toán nợ giai đoạn II do Bộ Tài chính ban hành
THE
MINISTRY OF FINANCE
---------
|
SOCIALIST
REPUBLIC OF VIET NAM
Independence - Freedom Happiness
--------------
|
No.
23/2000/TT-BTC
|
Hanoi,
March 27, 2000
|
CIRCULAR GUIDING
THE IMPLEMENTATION OF DECISION No.05/2000/QD-TTg OF JANUARY 5, 2000 OF THE
PRIME MINISTER ON AMENDMENTS AND SUPPLEMENTS TO HIS DECISION No.95/1998/QD-TTg
OF MAY 18, 1998 ON THE SECOND-PHASE DEBT HANDLING AND SETTLEMENT In furtherance of Decision
No.05/2000/QD-TTg of January 5, 2000 of the Prime Minister amending and
supplementing his Decision No.95/1998/QD-TTg of May 18, 1998 on the
second-phase debt handling and settlement; After obtaining the State Bank’s
comments in Official Dispatch No.41/CV-TD.3 of January 27, 2000; The Finance
Ministry hereby guides the amendments and supplements on the second-phase debt
handling, settlement and accounting as follows: I. GENERAL PROVISIONS - Creditors and debtors, whose
debts have been declared and acknowledged or have not been declared but already
compared and acknowledged by themselves according to Decision No.277/CT of July
29, 1992 of the Chairman of the Council of Ministers (now the Prime Minister)
and the second-phase debt settlement plan shall be subject to this Circular. - The second-phase debt handling
and settlement shall be based on the provisions of the second-phase general
debt settlement plan, the Prime Minister’s Decision No.95/1998/QD-TTg of May
18, 1998, Joint Circular No.102/1998/TTLT-BTC-NHNN of July 18, 1998 of the
Finance Ministry and the State Bank as well as the Prime Minister’s Decision
No.05/2000/QD-TTg of January 5, 2000 on amendments and supplements to the
second-phase debt handling and settlement, the legislation at the debt-arising
time and this Circular. - Creditors and debtors shall be
accountable for handling and settlement of the second-phase debts of their
respective units. - The debt settlement boards of
all levels shall have to urge, inspect and supervise the debt handling and
settlement and propose the competent level to handle administratively or by
means of law units that are in debts but fail to handle or settle them. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. II. SPECIFIC PROVISIONS 1. Debt-handling bases Where the debt-handling dossier
is incomplete as defined in Joint Circular No.102/1998/TTLT-BTC-NHNN of July
18, 1998 of the Finance Ministry and the State Bank guiding the implementation
of the Prime Minister’s Decision No.95/1998/QD-TTg of May 18, 1998 on the
second-phase debt handling and settlement, there must be at least the following
grounds: - The IOU card (already
acknowledged by the debtor), or the debt comparison minutes already
acknowledged by the creditor and the debtor. - The minutes analyzing causes
of arising debts made by the provincial debt-settlement board, for locally-run
enterprises, or by the ministerial/branch debt settlement board, for
centrally-run enterprises. For debtors which haven been
dissolved, gone bankrupt, ceased operation or fails to submit complete dossiers
as prescribed, the agency which has decided the establishment thereof and the
debt-settlement boards of the same level shall make a minutes certifying the
incompleteness of dossiers prescribed as basis for handling, and at the same
time notify the creditors of the dissolution decision or make a written
certification of such units’ dissolution, bankruptcy or cessation of operations
(the time of dissolution, bankruptcy or cessation of operation and the
financial situation of the enterprises). - For a debt which has been
decided by a written award of the State Economic Arbitration or a civil court
judgement but for which the IOU card has not been made, the award or judgement
shall be considered as basis for the debt settlement and handling. 2. On the exchange rates: - The units shall make
debt-claiming cards for the right to use foreign currency(ies) already
acknowledged by the debtors; if the debtors have fully paid the term currency
amount at the internal accounting exchange rates set by the State, they shall
be considered as having fully paid debts to the creditors. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. + US dollar: 7,900 VND/USD + Gold: 373,000 VND/one tenth of
a tael + Yen: 76 VND/JPY + Franc: 1,420 VND/Fr. + Chinese yuan: 886 VND/Yuan + Russian rouble: 4,000
VND/Rouble The other foreign currencies
shall be converted into USD (US dollar) at the exchange rates at the debt
declaration time (April 30, 1991). 3. Competence to decide debt
handling: a/ Debts of State enterprises
shall be handled by the Managing Boards or general directors, directors (for
enterprises without Managing Boards) on the following principles: ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. Debts to be paid to creditors
that have no longer exited may be accounted into enterprises’ irregular
incomes. Debts to be recovered with their
value being smaller than the debt-claiming expenses (as estimated) shall be
accounted into the financial reserve fund. If this fund is not enough, the
deficit shall be accounted into the enterprises’ business results, which shall
take self-responsibility therefor and do not have to report such to the State
management agencies. When handling the above-mentioned debts, enterprises shall
still have to conduct the off-balance-sheet supervision and continue the debt
recovery. The recovered debt amounts shall be accounted into the enterprises’
irregular incomes. b/ For debts (to be recovered)
by the State-owned commercial banks, which have been put them the debt payment
networks with certification of the local debt settlement boards (on the
acknowledged debt amounts, the financial situation and payment capability), the
State-owned commercial banks may handle them as for the debts of State
enterprises stipulated at Point a above and report such to the State Bank. For
debts being the banks’ loan capital converted into the State budget’s allocated
capital, the commercial banks shall have to report them to the State Bank for
further reporting to the Finance Ministry for consideration and decision on
reduction of capital to be allocated to the commercial banks and increase of
capital for enterprises that have their loan capital converted into the
allocated capital. Monthly, the State-owned
commercial banks shall have to report the debt handling progress to the Central
Steering Board for General Debt Settlement and the Finance Ministry for
synthesizing and reporting the situation to the Prime Minister. c/ For debts owed to the State
budget by enterprises, the finance agency of the same level shall assume the
prime responsibility in handling them according to the provisions of Joint
Circular No.102/1998/TTLT-BTC-NHNN of July 18, 1998 of the Finance Ministry and
the State Bank (the Finance Ministry shall handle debts owed to the central
budget by enterprises while the provincial/municipal Finance Services shall
handle debts owed to the local budgets by enterprises), or report them to the
competent level for decision. d/ For debts owed to the
National Reserves by enterprises, the National Reserves shall assume the prime
responsibility in handling them. Before the handling, the local debt settlement
board’s participation is required on the basis of the prescribed debt
settlement and handling regime. The National Reserves shall sum up the already
handled debt amounts and report them to the Central Steering Board for General
Debt Settlement and the Finance Ministry so that the Finance Ministry may issue
decision on capital reduction for the National Reserves. Monthly, the National
Reserves shall report the handling progress to the Central Steering Board for
General Debt Settlement and the Finance Ministry. e/ Where the debts are
guaranteed by the ministries, branches and localities or the ministries,
branches and localities permit trading enterprises to borrow capital, procure supplies
and goods by the mode of deferred payment to foreign parties, the provisions of
Clause 4, Article 1 of the Prime Minister’s Decision No.05/2000/QD-TTg of
January 5, 2000 on amendments and supplements to his Decision No.95/1998/QD-TTg
of May 18, 1998 on the second-phase debt handling and settlement, shall apply. 4. For debts to be
recovered due to subjective causes, after the persons who have to pay
material compensation are identified, there must be specific decisions on the
levels of material compensation; the difference between the to-be-recovered
debt amount and the compensation amount shall also be accounted into the
financial reserve fund; any deficit shall be accounted into the enterprise’s
production and business results. 5. For debts having signs
of law violation, if it is certified that the creditors cannot claim the debts,
such creditor shall transfer the dossier to the Police for investigation.
Within 6 months, the investigating agency shall have to make conclusions and
transfer the dossier to the Economic Court for trial. After trying, the Court
shall notify the creditor and concerned agencies of the debt amounts to be
recovered by the creditor as well as the unrecoverable amounts. These
unrecoverable amounts shall be offset by the financial reserve fund. If the
fund is not enough, the deficit shall be accounted into the enterprise’s
business results (for enterprises’ debts) or the National Reserves’ capital
shall be reduced or the debts payable to the State budget shall be cancelled
(for debts owed to the National Reserves and the State budget). If the debts
are recovered in assets after the handling, enterprises shall have to evaluate
and account them into their irregular incomes (for enterprises’ debts) or remit
them into the local State budget (for debts owed to the National Reserves and
the State budget). ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. 7. State enterprises may
account once or many times bad debts into the financial reserve fund; if the fund
is not enough, the deficit shall be accounted into the enterprises’ annual
production and business results for not more than 5 years. If due to the
accounting of debts into their annual production and business results,
enterprises suffer from profit reduction or loss increase corresponding to the
amounts of their bad debts, such enterprises shall still enjoy the following
interests: - To continue borrowing capital
from the banks for production and business if meeting other conditions defined
by the State-owned commercial banks. - To enjoy the wage fund as
before the accounting of bad debts into the production and business results. - To maintain their grades. - To deduct the reward and
welfare funds as before the handling of debts according to current regulations. 8. If 2 operating State
enterprises owing debts to each other (already acknowledged) cannot
themselves settle the debts, they must report such to the finance agency of the
same level for the increase of the State capital for the debtor enterprise and
reduction of the State capital for the creditor enterprise (the creditor’s
reduced capital amount shall at most be equal to the State’s capital at the
enterprise). The provincial/municipal Finance and Pricing Department shall
report debts to the provincial People’s Committee for issuance of decision on
capital increase or reduction for the locally-run enterprises, while the
Finance Ministry shall issue decisions on capital increase or reduction for the
centrally-run enterprises. III. ORGANIZATION OF IMPLEMENTATION 1. The ministers, the heads of
the ministerial-level agencies and agencies attached to the Government, the
presidents of the People’s Committees of the provinces and centrally-run cities
shall have to direct creditors and debtors under their management to quickly
analyze, classify and definitely deal with the second-phase debt settlement
according to the above stipulations. Cases not provided for in this Circular
shall be handled according to current regulations. 2. The debt-settlement boards of
all levels (with the finance agencies as their standing bodies) shall urge and
inspect the handling of debts by enterprises that have declared the
second-phase debts, and propose the competent authorities to discipline
enterprise directors who fail to handle and settle the enterprises’ debts. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. Any organizations or individuals
that counterfeit vouchers, abuse the debt handling and settlement to cause loss
to the State’s assets for personal interests shall be handled according to
current law provisions. Monthly, the debt-settlement
boards of all levels shall report the second-phase debt settlement and handling
results to the Central Steering Board for General Debt Settlement on the fifth
of the following month at the latest so that the latter may sum up and report
them to the Prime Minister. 3. Apart from the provisions of
this Circular, the second-phase debt settlement and handling shall still comply
with Joint Circular No.102/1998/TTLT-BTC-NHNN of July 18, 1998 of the Finance
Ministry and the State Bank guiding the implementation of the Prime Minister’s
Decision No.95/1998/QD-TTg of May 18, 1998. This Circular takes effect from
the effective date of the Prime Minister’s Decision No.05/2000/QD-TTg of
January 5, 2000 which amends and supplements his Decision No.95/1998/QD-TTg of
May 18, 1998 on the second-phase debt handling and settlement. In the implementation course, if
problems arise, the ministries, branches and localities should promptly report
them to the Finance Ministry, the State Bank and the Central Steering Board for
General Debt Settlement for study and solution. FOR THE FINANCE
MINISTER
VICE MINISTER
Tran Van Ta
Thông tư 23/2000/TT-BTC ngày 27/03/2000 hướng dẫn Quyết định 05/2000/QĐ-TTg sửa đổi Quyết định 95/1998/QĐ-TTg về xử lý, thanh toán nợ giai đoạn II do Bộ Tài chính ban hành
4.484
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
inf[email protected]
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|