CHỦ
TỊCH HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
109-CT
|
Hà
Nội, ngày 29 tháng 3 năm 1985
|
QUYẾT ĐỊNH
CỦA CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 109-CT NGÀY 29 THÁNG 3
NĂM 1985 VỀ MỘT SỐ CHÍNH SÁCH KINH TẾ TÀI CHÍNH TRƯỚC MẮT VỚI 6 TỈNH BIÊN GIỚI
PHÍA BẮC
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
Căn cứ Nghị quyết số 133-HĐBT
ngày 15-10-1984 của Hội đồng Bộ trưởng về những nhiệm vụ trước mắt để củng cố 6
tỉnh biên giới phía Bắc và tăng cường sức chiến đấu bảo vệ Tổ quốc;
Để hỗ trợ thiết thực cho 6 tỉnh biên giới phía Bắc phát huy cácthế mạnh và
tiềm lực kinh tế của địa phương, tạo cơ sở ổn định và cải thiện từng bước đời sống
của nhân dân phục vụ chiến đấu tốt hơn, giải quyết hậu cần tại chỗ cho các lực
lượng vũ trang tới mức cố gắng cao nhất, giảm dần khối lượng hàng hoá đưa từ xa
tới;
Theo đề nghị của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, các Bộ và Uỷ ban nhân dân các tỉnh
có liên quan,
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1.-
Phải vận dụng tốt các chính sách đầu tư vốn, vật tư, lao
động vào các ngành kinh tế ở 6 tỉnh biên giới nhằm thực hiện có kết quả những
nhiệm vụ, mục tiêu và phương hướng phát triển kinh tế xã hội đã được nêu rõ
trong Nghị quyết số 133-HĐBT, và thể hiện cụ thể trong kế hoạch Nhà nước năm
1985 và 5 năm 1986-1990 của từng tỉnh. Đi đôi với việc tăng cường đầu tư vào
các ngành sản xuất, phải hết sức chú trọng phát triển giao thông vận tải và
thương nghiệp ở miền núi. Trước mắt, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước có trách nhiệm
cùng các Bộ có liên quan phối hợp với Uỷ ban nhân dân các tỉnh biên giới rà
soát lại và hoàn chỉnh quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 1985
của từng tỉnh và trên địa bàn từng huyện trình Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng
thông qua và chính thức công bố chậm nhất vào đầu quý II năm 1985.
Điều 2.-
Về chính sách thuế.
a) Về thuế nông nghiệp, thu theo
đúng Pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước, có tính đến điều kiện thực tế của các tỉnh
biên giới phía Bắc hiện nay.
- Đối với những xã giáp biên thường
xảy ra chiến sự, sản xuất và đời sống của nhân dân hết sức khó khăn (bao gồm cả
những người được di chuyển về sống và tham gia sản xuất ở các xã phía sau) Uỷ
ban nhân dân tỉnh xét, miễn hẳn thuế nông nghiệp.
- Đối với nhân dân các xã khác,
cần theo khảo sát thực tế từng nơi trong từng vụ, để thực hiện đúng đẵn chính
sách miễn, giảm thuế nông nghiệp ở những vùng bị thiệt hại do thiên tai, địch
hoạ.
- Đối với những đơn vị sản xuất
mà do điều kiện khách quan không thuận lợi, sản xuất lương thực thường xuyên
không đủ ăn, thì cho nộp thuế nông nghiệp bằng tiền hoặc bằng các nông sản, lâm
sản khác.
- Các đơn vị lực lượng vũ trang
được cấp đất để sản xuất lương thực, thực phẩm nhằm cải thiện đời sống thì được
miễn thuế nông nghiệp.
b) Về thuế công thương nghiệp,
nói chung vẫn thu theo đúng pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước. Nhưng để khuyến
khích việc liên kết kinh tế giữa các tỉnh, huyện miền núi với các tỉnh, thành
phố ở miền xuối thì miễn thuế buôn chuyến đối với hàng hoá do mậu dịch quốc
doanh hoặc hợp tác xã mua bán tổ chức lưu thông có kế hoạch giữa các địa
phương.
Điều 3.-
Về chính sách thu mua, giá cả, quản lý thị trường.
a) Về lương thực. Ngoài các khoản
thu thuế nông nghiệp, công dịch vụ, phí thuỷ lợi (nếu có), Nhà nước mua lương
thực ở các tỉnh biên giới vẫn bằng hai cách là thông qua hợp đồng hai chiều và
mua theo giá thoả thuận, nhưng với chính sách ưu đãi cụ thể như sau:
- Đối với các xã giáp biên. Nhà
nước ưu tiên cung ứng phân hoá học, thuốc trừ sâu, giống tốt (nếu cần) theo giá
chỉ đạo ổn định, người sản xuất không phải bán lại lương thực cho Nhà nước. Nơi
nào có khả năng bán lại lương thực thì theo tỷ lệ mua 1 kilôgam u-rê bán lại 1
kilôgam thóc (hoặc 1 ngô, 1 sắn lát khô). Trường hợp cá biệt ở những nơi vì điều
kiện chiến sự, sản xuất và đời sống quá khó khăn, Uỷ ban nhân dân huyện xét, đề
nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định dành một số vật tư giúp nhân dân sản xuất
không lấy tiền.
Đối với các xã khác. Để khuyến
khích đẩy mạnh thâm canh tăng vụ ở các vùng miền núi phía Bắc, tăng thêm sản lượng
lương thực để đáp ứng nhu cầu tại chỗ, tỷ lệ trao đổi trong hợp đồng hai chiều
quy định như sau: ở các xã vùng thấp hoặc trung du, điều kiện sản xuất tương đối
thuận lợi, mua 1 kilôgam u-rê thì bán lại 2 kilôgam thóc (hoặc ngô, sắn lát
khô); ở các xã vùng giữa và vùng cao, điều kiện sản xuất khó khăn hơn, mua 1
kilôgam u-rê thì bán lại 1,5 kilôgam thóc (hoặc ngô, sẵn lát khô).
Mức giá mua thoả thuận cũng được
định cao hơn các tỉnh đồng bằng sông Hồng, tối đa có thể bằng giá mua ở đồng bằng
cộng với phí vận chuyển lên miền núi và một tỷ lệ hao hụt hợp lý, nhưng nói
chung không được vượt quá mức giá đã hình thành thực tế ở thị trường địa
phương. Dựa vào nguyên tắc trên đây, Uỷ ban Vật giá Nhà nước cùng các Bộ có
liên quan (lương thực, nông nghiệp, tài chính) công bố khung giá mua thoả thuận
ở từng vùng miền núi biên giới và chỉ đạo hướng dẫn các điạ phương thực hiện.
b) Đối với sản phẩm chăn nuôi.
Nhà nước hết sức khuyến khích
các đơn vị kinh tế quốc doanh, các hợp tác xã nông nghiệp, các gia đình, các
đơn vị lực lượng vũ trang phát triển chăn nuôi lợn, trâu, bò, ngựa, dê, thỏ, cá
và các loại gia cầm để đáp ứng nhu cầu thực phẩm của nhân dân và các lực lượng
vũ trang.
- Giúp đỡ các cơ sở sản xuất về
vốn, vật tư để phát triển sản xuất các đàn con giống, cung ứng thuốc thú y và
tinh động viên giống tốt theo giá rẻ (do Bộ Nông nghiệp phối hợp với Uỷ ban Vật
giá Nhà nước quyết định).
- Những đơn vị sản xuất có quan
hệ hợp đồng hai chiều với Nhà nước được cung ứng giống, vật liệu xây dựng, một
phần thức ăn, thuốc thú y theo giá chỉ đạo ổn định, đồng thời có nghĩa vụ bán lại
sản phẩm cho Nhà nước cũng theo giá chỉ đạo ổn định.
Những nơi không có điều kiện ký
kết hợp đồng thì Nhà nước mua sản phẩm chăn nuôi theo giá thoả thuận. Giá mua lợn
ở 6 tỉnh biên giới có thể định cao hơn giá mua ở các tỉnh khác, tối đa có thể bằng
giá mua ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng cộng với phí vận chuyển lên miền núi và
một tỷ lệ hao hụt hợp lý, nhưng không được vượt quá mức giá đã hình thành thực
tế ở thị trường địa phương. Giá mua trâu, bò được quy định trên tinh thần khuyến
khích sản xuất và tiêu thụ thịt trâu, bò hay thịt lợn, khuyến khích tăng đàn
trâu, bò cày đáp ứng nhu cầu tại chỗ và của các tỉnh miền xuôi. Giá mua ngựa phải
có tác dụng khuyến khích đẩy mạnh chăn nuôi để có thêm sức vận tải ở miền núi.
Uỷ ban Vật giá Nhà nước dựa vào tinh thần trên đây bàn thống nhất với các Bộ có
liên quan để quy định và công bố khung giá mua thoả thuận về các sản phẩm chăn
nuôi chủ yếu và hướng dẫn các địa phương thi hành.
c) Đối với các vùng trồng cây
công nghiệp tập trung, trồng và khai thác lâm sản theo quy hoạch và kế hoạch
Nhà nước.
- Nhà nước ưu tiên đầu tư vốn, cấp
tín dụng, cung ứng tư liệu sản xuất, hướng dẫn giúp đỡ về kỹ thuật, tạo điều kiện
cho các đơn vị sản xuất hoàn thành tốt kế hoạch sản xuất hàng năm và từng vụ. Mặt
khác, bảo đảm cung ứng đủ lương thực cho các hợp tác xã nông nghiệp thiếu hoặc
không có lương thực theo phương thức cung ứng lương thực theo đầu tấn sản phẩm
bán cho Nhà nước.
Dưới sự chỉ đạo của các Bộ chủ
quản và Uỷ ban nhân dân các tỉnh biên giới, các liên hiệp xí nghiệp và công ty
(của Trung ương và địa phương) được phân công thu mua các loại nông sản, lâm sản
trên địa bàn huyện nào phải chịu sự quản lý thống nhất của Uỷ ban nhân dân huyện
đó; phải xúc tiến việc ký kết hợp đồng hai chiều với các đơn vị sản xuất cho kịp
các thời vụ sản xuất trong năm 1985 và phải phối hợp với các ngành cung ứng vật
tư, hành hoá, giao thông vận tải, ngân hàng bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh các
hợp đồng đó.
- Về giá cả, trong khi chờ đợi Hội
đồng Bộ trưởng giải quyết vấn đề này một cách đồng bộ, Uỷ ban Vật giá Nhà nước
cần cùng các Bộ có liên quan và Uỷ ban nhân dân các tỉnh biên giới rà soát lại
giá mua các loại cây công nghiệp và lâm sản; nếu xét thấy giá nào chưa hợp lý
thì kịp thời đề nghị Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng điều chỉnh.
Để khuyến khích các đơn vị sản
xuất làm ra nhiều nguyên liệu cho công nghiệp, tuỳ theo mức độ quan trọng và điều
kiện sản xuất thực tế của từng loại sản phẩm, các Bộ chủ quản (Nông nghiệp, Lâm
nghiệp, Công nghiệp thực phẩm, Công nghiệp nhẹ...) phối hợp với Bộ Tài chính và
Uỷ ban Vật giá Nhà nước thông qua việc quy định giá mua sản phẩm, định mức thu
quốc doanh và mức lợi nhuận để lại cho xí nghiệp mà giải quyết một cách thoả
đáng 3 mặt lợi ích là lợi ích của các đơn vị sản xuất ra nguyên liệu, lợi ích của
các đơn vị công nghiệp chế biến nguyên liệu đó ra sản phẩm, và lợi ích của Nhà
nước (bao gồm cả phần tập trung vào ngân sách Trung ương và phần để lại cho
ngân sách địa phương).
- Để khuyến khích các đơn vị sản
xuất và các địa phương ra sức đẩy mạnh sản xuất và cung cấp nhiều hàng xuất khẩu
có chất lượng tốt, có giá trị kinh tế cao cho Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng giao
cho Bộ Ngoại thương cùng Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước và Uỷ ban Vật giá Nhà
nước quy định cụ thể chính sách ưu đãi về lãi suất và ưu đãi về quyền sử dụng
ngoại tệ để tạo điều kiện cho các địa phương và cơ sở tăng thêm khả năng cung ứng
cho mình vật tư, thiết bị, năng lượng, thậm chí cả lương thực cần thiết cho việc
phát triển kinh tế, trước nhất là mở rộng nguồn hàng xuất khẩu.
d) Về thương nghiệp. Cần phát
triển mạnh mạng lưới thu mua, bán buôn, bán lẻ và dịch vụ của thương nghiệp quốc
doanh và hợp tác xã mua bán trên các địa phương miền núi, bảo đảm việc mua bán
của dân được thuận tiện hơn. Bộ Nội thương cần phối hợp chặt chẽ với các tỉnh
điều tra nắm sát nhu cầu thực tế của các tầng lớp dân cư trên các tỉnh biên giới,
trên cơ sở đó, bố trí hàng hoá cần thiết cho các tỉnh và huyện, nhất là về những
mặt hàng thiết yếu (muối, vải, dầu, pin đèn, chỉ thêu, v.v...) phù hợp với tập
quán và nhu cầu tiêu dùng của đồng bào các dân tộc, và có chính sách ưu tiên
phân phối hàng cho các xã giáp biên giới.
đ) Để phục vụ tốt cho sản xuất
và lưu thông hàng hoá ở các tỉnh biên giới, Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường
công tác tín dụng phục vụ cho sản xuất và xây dựng kinh tế, thu mua, vận chuyển
hàng hoá; nghiên cứu ban hành chính sách ưu đãi về sản xuất đối với miền núi. Mặt
khác, cần mau chóng cải tiến công tác quản lý tiền mặt cho thích hợp với điều
kiện thực tế của miền núi, giao thông đi lại khó khăn.
Điều 4.-
Về sản xuất công nghiệp (bao gồm cả tiểu công nghiệp và
thủ công nghiệp): căn cứ vào những mục tiêu và phương hướng phát triển công
nghiệp ở các tỉnh biên giới như Nghị quyết số 133-HĐBT đã đề ra.
Trong bố trí kế hoạch, bố trí
ngân sách và tín dụng hàng năm cho các tỉnh, các huyện, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước,
Bộ Tài chính và Nhân hàng Nhà nước cần chú trọng dành số vốn cần thiết để xây dựng
và phát triển các cơ sở công nghiệp địa phương chế biến nông sản, lâm sản (như
chế biến đường mía, ép dầu, chế biến thực phẩm, rau quả, dược phẩm) với quy mô
vừa và nhỏ thích hợp trên địa bàn từng huỵện và dùng thiết bị chế tạo trong nước
là chủ yếu; xây dựng các cơ sở thuỷ điện nhỏ kết hợp với thuỷ lợi, các cơ sở
khai thác than, khí mê - tan, sản xuất vật liệu xây dựng, các mặt hàng tiêu
dùng bằng nguyên liệu tại chỗ như gốm, sứ, đồ mộc, v.v...
Các Bộ Cơ khí và luyện kim, Công
nghiệp thực phẩm, Công nghiệp nhẹ, Lâm nghiệp, Nông nghiệp, Y tế cần chỉ đạo các
xí nghiệp trực thuộc Bộ sản xuất ra những thiết bị phụ tùng thích hợp cungcấp
cho các cơ sở công nghiệp địa phương nói trên, hướng dẫn giúp đỡ các địa phương
về mặt tổ chức sắp xếp sản xuất theo ngành kinh tế - kỹ thuật, về mặt kỹ thuật
và công nghệ sản xuất, và về cơ chế quản lý xí nghiệp đế sản xuất có năng suất,
chất lượng và hiệu quả.
Để tạo thêm điều kiện thuận lợi
cho việc phát triển công nghiệp địa phương, các tỉnh biên giới phải chủ động
thông qua các hình thức liên kết kinh tế. liên doanh, hợp tác trong sản xuất và
trong xuất nhập khẩu, để tận dụng năng lực của các xí nghiệp công nghiệp Trung
ương đóng trên địa bàn lãnh thổ, các xí nghiệp quan trọng của các thành phố và
khu công nghiệp lớn hỗ trợ cho xí nghiệp công nghiệp địa phương (tỉnh và huyện)
phát triển sản xuất.
Điều 5.-
Về giao thông vận tải. Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước cùng Bộ
Tài chính và Bộ Giao thông vận tải cần bàn kỹ với các tỉnh biên giới, có kế hoạch
tăng cường đầu tư của Nhà nước về vốn, phương tiện, vật tư, và lao động để thực
hiện tốt kế hoạch năm 1985 và những năm sau về làm cầu và đường bộ trên các địa
bàn quan trọng; tăng cường năng lực vận tải đường sắt và vận tải thuỷ trên sông
Hồng, sông Lô để phục vụ tốt hơn các yêu cầu vận chuyển cho quốc phòng và kinh
tế. Mặt khác, hết sức coi trọng việc đầu tư vốn và phương tiện cho các ngành vận
tải cơ giới của tỉnh; khuyến khích phát triển mạnh lực lượng vận tải của huyện
chủ yếu bằng phương tiện thô sơ (xe thồ, ngựa thồ, xe trâu bò,xe ngựa, xe ba
gác, v.v...) để đáp ứng kịp yêu cầu mở rộng giao lưu vật tư, hàng hoá phục vụ sản
xuất, chiến đấu và đời sống của nhân dân, đặc biệt của các xã vùng cao và các
xã giáp biên giới.
Điều 6.-
Chính sách đối với bộ đội làm kinh tế.
a) Đối với đơn vị được chuyển hẳn
sang làm kinh tế, quyền lợi và nghĩa vụ được giải quyết theo các chính sách, chế
độ riêng do Hội đồng Bộ trưởng ban hành.
b) Đối với các đơn vị lực lượng
vũ trang vừa chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, vừa sản xuất và tham gia xây dựng
kinh tế ở biên giới.
- Về sản xuất, nếu được Nhà nước
giao đất, giao rừng và đầu tư vốn, vật tư, giống và thức ăn gia súc thì sản phẩm
làm ra phải giao nộp cho Nhà nước được Nhà nước trả theo giá mua trong hợp đồng
hai chiều với nông dân địa phương; nếu giữ lại tiêu dùng thì trừ vào kế hoạch
cung ứng theo tiêu chuẩn định lượng. Nếu không được Nhà nước đầu tư thì sản phẩm
làm ra, nếu đưa vào cung cấp theo tiêu chuẩn định lượng thì được Nhà nước trả bằng
80% giá mua thoả thuận ở địa phương.
- Đơn vị nào nhận làm khoán gọn
từng công trình cho cơ quan, xí nghiệp Nhà nước (ví dụ làm một đoạn đường, xây
dựng một xí nghiệp, một công trình thủy lợi, v.v...) thì ngoài phần lương, phụ
cấp hay hay sinh hoạt phí của cán bộ, chiến sĩ vẫn đang hưởng theo đúng chế độ,
đơn vị còn được trả công bằng khoảng từ 30 đến 40% mức khoán đã đạt được (tuỳ
theo tính chất từng loại công việc) để sử dụng một phần vào việc đầu tư phát
triển sản xuất của đơn vị, một phần đưa vào quỹ phúc lợi chung, còn phần lớn
dành để bồi dưỡng cho những người trực tiếp tham gia lao động.
c) Đối với bộ đội xuất ngũ ở các
địa phương biên giới, Nhà nước khuyến khích các cán bộ, chiến sĩ khi xuất ngũ
tình nguyện ở lại các tỉnh biên giới bằng những chính sách ưu đãi sau đây:
- Được ưu tiên tiếp nhận vào làm
ở các nông trường, lâm trường, xí nghiệp, cơ quan Nhà nước ở địa phương. Trong
trường hợp này, được hưởng từ 60% đến 70% mức phí tuyển dụng chi cho một công
nhân đưa từ miền xuôi lên và được cấp trang bị ban đầu theo chế độ hiện hành. Nếu
đương sự yêu cầu, chính quyến địa phương sẽ giới thiệu về tham gia sản xuất,
kinh doanh trong các hợp tác xã nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, vận tải, xây
dựng, mua bán, tín dụng, v.v...
- Nếu đưa cả gia đình lên làm ăn
sinh sống, chính quyền địa phương sẽ giải quyết các thủ tục nhập hộ khẩu dễ
dàng, giúp đỡ về nơi ở, ưu tiên cấp đất, giao rừng để sản xuất theo chính sách
chung; được Ngân hàng hay hợp tác xã tín dụng cho vay vốn với lãi suất nhẹ để
có vốn ban đầu xây dựng cơ sở sản xuất. Nếu sản xuất trên đất nông nghiệp, thì
được miễn thuế 3 năm. Trong trường hợp khai hoang thì được miến thuế nông nghiệp
theo chính sách chung của địa phương.
- Khi ốm đau thì bản thân và gia
đình được ưu tiên tiếp nhận vào khám chữa bệnh ở các bệnh viện quân y hoặc dân
y nơi gần nhất.
Điều 7.-
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ban hành.
Thủ trưởng các Bộ và Uỷ ban Nhà nước có liên quan cần ra ngay thông tư hướng dẫn
thi hành phần cụ thể do ngành mình phụ trách.
Điều 8.-
Bộ trưởng Tổng thư ký Hội đồng Bộ trưởng, Thủ trưởng các
Bộ, Uỷ ban Nhà nước có liên quan, và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân 6 tỉnh biên giới
phía Bắc chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.