HỘI
ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
----------
|
Số:
72-HĐBT
|
Hà
Nội, ngày 13 tháng 3 năm 1990
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ MỘT SỐ CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỤ THỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ -
XÃ HỘI MIỀN NÚI
HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
Để thúc đẩy phát triển kinh tế
- xã hội, từng bước nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc miền núi, góp phần
phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước.
Căn cứ Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng số 22-NQ/TW ngày 27-11-1989
về chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi.
QUYẾT ĐỊNH:
Phần I –
ĐỔI MỚI CƠ CẤU KINH TẾ
VÀ TỔ CHỨC SẢN XUẤT Ở MIỀN NÚI
Điều 1.
Xây dựng cơ cấu kinh tế của miền núi theo hướng chuyển
sang kinh tế hàng hóa phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng tiểu vùng, từng
dân tộc, phát huy các thế mạnh về lâm nghiệp, cây công nghiệp dài ngày, cây ăn
quả, lương thực, chăn nuôi đại gia súc, phát triển công nghiệp, nhất là công
nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp, du lịch...; xây dựng kết cấu hạ tầng; mở
rộng giao lưu kinh tế giữa miền núi với miền
xuôi và với nước ngoài. Gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội,
thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và củng cố an ninh, quốc phòng. Trong năm
1990, các bộ, tỉnh miền núi và tỉnh có miền núi cần đẩy mạnh công tác điều tra
cơ bản, quy hoạch, phân vùng kinh tế, phân bố lực lượng sản xuất... trên từng địa
bàn làm cơ sở để tổ chức lại sản xuất, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội.
I- VỀ LÂM -
NÔNG - NGƯ NGHIỆP
Điều 2.
Thực hiện mạnh mẽ chủ trương giao đất, giao rừng cho các
gia đình đồng bào các dân tộc (kể cả gia đình cán bộ, công nhân và người Kinh
sinh sống ở miền núi và các hộ tư nhân từ miền xuôi lên), các đơn vị kinh tế cơ
sở, các cơ quan trường học, đơn vị quân đội. Đồng bào các dân tộc và các đơn vị,
tổ chức nói trên có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh bằng nhiều hình thức
thích hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng như: vườn rừng, trại rừng, vườn
cây công nghiệp, cây ăn quả, lương thực, thực phẩm,
dược liệu kết hợp với cây rừng... đồng thời tranh thủ vốn đầu tư của nước ngoài
nhằm từng bước hình thành các vùng rừng kinh tế, vùng cây công nghiệp dài ngày,
cây ăn quả tập trung quy mô lớn.
Đối với diện tích rừng, vườn cây
công nghiệp và cây ăn quả hiện có, ao hồ do Nhà nước bỏ vốn đầu tư... cơ quan
và đơn vị kinh tế phải tổ chức tốt việc kiểm kê, đánh giá đúng giá trị hiện còn
và tiến hành việc giao khoán, đấu thầu một cách công khai, dân chủ, phù hợp với
đặc điểm từng vùng và từng loại cây trồng.
Điều 3.
Bộ Lâm nghiệp phối hợp với các tỉnh có biện pháp cụ thể
chấn chỉnh ngày công tác quản lý, bảo vệ và khai thác rừng. Đưa việc khai thác
gỗ và lâm sản khác vào quy hoạch, kế hoạch và bảo đảm quy trình kỹ thuật; tận dụng
triệt để gỗ cành ngọn, khắc phục tình trạng gỗ đã khai thác để ứ đọng tại rừng;
đẩy mạnh khâu chế biến gỗ, lâm sản; gỗ xuất khẩu phải qua chế biến. Đình chỉ
khai thác gỗ và các khu rừng đầu nguồn xung yếu, rừng bảo vệ thiên nhiên và các
khu rừng nghèo kiệt; cấm săn bắt chim, thú rừng
quý, hiếm; nghiêm cấm việc khai thác lâm sản và săn bắn chim, thú ở vườn rừng
quốc gia, rừng bảo tồn thiên nhiên, bảo tồn nguồn gien và rừng giống. Cùng với
các biện pháp quản lý về hành chính, cần có chính sách khuyến khích tiết kiệm
tiêu dùng gỗ, khuyến khích phát triển vốn rừng và có kế hoạch điều hòa việc
cung ứng gỗ trên phạm vi cả nước, nhằm bảo vệ vốn rừng, bảo vệ môi trường, sinh
thái.
Trước mắt, cần đặc biệt coi trọng
việc bảo vệ rừng, khoanh nuôi, để tái tạo lại rừng, mở rộng diện tích rừng trồng
mới, nhất là trồng rừng phục vụ nhu cầu bảo đảm nguyên liệu cho công nghiệp, rừng
phòng hộ đầu nguồn xung yếu, đẩy mạnh phong trào trồng cây gây rừng trong nhân
dân, phủ xanh đồi, núi trọc.
Điều 4.
Bộ Lâm nghiệp phối hợp với các địa phương hoàn chỉnh quy
hoạch, lập đề án cụ thể về quản lý, bảo vệ các loại rừng (đầu nguồn, đặc dụng,
kinh tế...), khai thác rừng và thú rừng, xây dựng kế hoạch phát triển vốn rừng.
Bộ Lâm nghiệp cùng Bộ Tài chính,
Ngân hàng Nhà nước, Bộ Kinh tế đối ngoại xây dựng các chính sách đầu tư vốn,
thu hút vốn quốc tế và kinh doanh xuất, nhập khẩu lâm sản, đặc sản; chính sách
khuyến khích nhân dân trồng cây gây rừng trình Hội đồng Bộ trưởng vào quý II
năm 1990.
Điều 5.
Lương thực, thực phẩm đang là nhân tố có ý nghĩa then chốt
và ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát huy các thế mạnh của miền núi. Việc giải
quyết vấn đề lương thực ở miền núi phải theo quan điểm kinh tế hàng hóa, gắn
phát triển sản xuất lương thực với kinh doanh tổng hợp trong cơ cấu nông, lâm,
ngư nghiệp thống nhất, để nâng cao hiệu quả kinh tế chung và cải thiện môi trường,
sinh thái.
Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực
phẩm và các ngành có liên quan cùng với các địa phương tập trung lực lượng xác
định quy hoạch, kế hoạch đổi mới cơ cấu sản xuất, quy trình kỹ thuật, mở rộng
diện tích ở nơi có điều kiện, đẩy mạnh thâm canh, tăng năng suất trên những diện
tích ổn định, chắc ăn, có hiệu quả, kể cả lúa nước, lúa cạn, ngô và các loại
màu khác. Tận dụng khả năng mở thêm vụ đông hoặc đông xuân, hè thu với các loại
cây trồng thích hợp, các cây truyền thống như ngô, đại mạch, lúa mì, mạch hoa,
khoai, sắn, bo bo, í dĩ, đậu đỗ các loại, rau, khoai tây... trên diện tích mới
trồng một vụ. Thực hiện luân canh, thâm canh trên diện tích nương đã có, phấn đấu
để khắc phục nhanh nạn phá và đốt rừng làm nương, rẫy mới.
Điều 6.
Ở các vùng cao cần vận động và tổ chức quần chúng xây dựng
ruộng, nương bậc thang để thâm canh và bảo vệ đất chống xói mòn. Ở nơi có điều
kiện cân đối được lương thực tại chỗ thì nên chuyển những diện tích làm lương
thực năng suất thấp và không ổn định sang kinh doanh các cây trồng khác như cây
công nghiệp, rau quả, dược liệu... để có hiệu quả cao hơn về các mặt kinh tế và
xã hội.
Điều 7.
Bộ Thủy lợi cùng với các tỉnh xây dựng kế hoạch phát triển
thủy lợi phù hợp với từng địa bàn cụ thể của miền núi theo phương châm kết hợp
đầu tư của Nhà nước với công sức và tiền của của nhân dân. Có biện pháp để khai
thác tối đa các công trình thủy nông hiện có, đẩy nhanh tiến độ thi công các
công trình thủy nông đang xây dựng để sớm đưa vào sử dụng. Trong kế hoạch xây dựng
công trình mới, đặc biệt coi trọng xây dựng các công trình quy mô vừa, nhỏ,
công trình thủy lợi kết hợp thủy điện, bảo đảm đủ
nước tưới ổn định cho diện tích trồng lương thực hiện có và những vùng mở mới
trong những năm tới. Ngoài mục tiêu trọng điểm ưu tiên phục vụ sản xuất lương
thực, chú trọng xây dựng công trình thủy lợi phục vụ sản xuất, cây công nghiệp...,
đầu tư có trọng điểm vào khai thác nước ngầm phục vụ sinh hoạt ở những nơi có
nhiều khó khăn về nguồn nước mặt, trước hết cho vùng cao, đồn biên phòng biên
giới phía bắc và Tây Nguyên.
Điều 8.
Khuyến khích phát triển mạnh đàn gia súc, gia cầm, ong mật,
trước hết là trâu, bò, dê, ngựa.
Uỷ ban nhân dân các tỉnh cần xóa
bỏ ngay mọi hạn chế trong việc lưu thông trâu, bò giữa các vùng đối với tất cả
các thành phần kinh tế. Khôi phục và mở thêm chợ trâu, bò ở các địa phương.
Khuyến khích cán bộ kỹ thuật chăn nuôi, thú y và tư nhân tổ chức các dịch vụ
truyền giống và phòng, chữa bệnh gia súc, gia cầm. Nhà nước trợ giá cho công
tác truyền giống và phòng, trừ dịch bệnh gia súc, gia cầm đối với vùng cao của
miền núi. Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm cùng với Bộ Tài chính quy định
cụ thể và công bố sớm.
Điều 9.
Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cải tạo các diện
tích mặt nước sẵn có hoặc xây dựng hồ, ao mới để phát triển thủy sản, nuôi cá
bè ở sông, suối, áp dụng rộng rãi mô hình vườn, ao, chuồng (VAC). Đối với diện
tích mặt nước lớn, tùy theo điều kiện từng nơi có thể tổ chức đơn vị quản lý tập thể hoặc giao khoán đến hộ, nhóm hộ, hoặc tổ chức
đấu thầu cho cá nhân để phát triển thủy sản. Chuyển các cơ sở quốc doanh thủy sản
trên địa bàn miền núi sang sản xuất kinh doanh và làm dịch vụ nuôi trồng thủy sản.
Điều 10.
Công tác vận động định canh, định cư, xây dựng vùng kinh
tế mới và phân bố lại lao động, dân cư phải gắn liền với việc trồng, khoanh
nuôi, bảo vệ rừng, nhất là rừng đầu nguồn và việc xây dựng cơ sở hạ tầng, nhất
là thủy lợi, giao thông, và y tế, giáo dục... theo chương trình, quy hoạch
thích hợp từng địa bàn, từng dân tộc. Hướng chủ yếu là vận động đồng bào định
canh, định cư tại chỗ; kết hợp chặt chẽ việc
xây dựng cơ sở kinh tế mới với việc tổ chức hướng dẫn phát triển sản xuất, bố
trí cơ cấu kinh tế hợp lý, đi ngay vào thâm canh, phát triển kinh tế vườn, làm
nghề rừng, bảo vệ rừng, trồng cây công nghiệp, cây đặc sản... từng bước xóa bỏ
tình trạng tự cung, tự cấp, du canh, du cư.
Đối với nơi mật độ dân cư quá
đông, thiếu diện tích đất để sản xuất, đồng bào có nguyện vọng chuyển đến nơi
sinh sống tốt hơn thì cần có biện pháp giúp đỡ thiết thực theo chính sách đối với
đồng bào đi xây dựng vùng kinh tế mới.
Đối với đồng bào sống ở vùng
cao, biên giới di cư do chiến tranh nay trở về quê cũ làm ăn được trợ cấp như đối
với đồng bào vận động định canh, định cư.
Việc đầu tư cho công tác định
canh, định cư phải tập trung hoàn chỉnh và dứt điểm theo từng dự án cụ tể được
duyệt, sử dụng tổng hợp mọi nguồn vốn trên địa bàn như vốn định canh, định cư,
vốn kinh tế mới, vốn trồng rừng, bảo vệ rừng, tiền nuôi rừng, vốn xây dựng cơ bản
cho thủy lợi, thủy sản, nông nghiệp... Nhà nước cấp vốn ngân sách cho từng địa
phương hoặc nông, lâm trường quốc doanh, các đơn vị bộ đội làm kinh tế được
giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện công tác này (kể cả Trung ương và địa phương).
Đổi mới tổ chức quản lý công tác
định canh, định cư từ Trung ương đến huyện theo hướng, gọn, nhẹ, có đủ năng lực
giám sát, kiểm tra và giúp đỡ các địa phương, cơ sở thực hiện tốt kế hoạch được
giao và các chính sách của Đảng, Nhà nước về lĩnh vực này. Bộ Lâm nghiệp phối hợp
với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chuẩn bị trình Hội đồng Bộ trưởng
phương án đổi mới công tác định canh, định cư trong quý II năm 1990.
II - VỀ CÔNG
NGHIỆP VÀ KẾT CẤU HẠ TẦNG
Điều 11.
Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước
và các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng ở
miền núi. Hướng chủ yếu là khôi phục, phát triển các ngành nghề tiểu, thủ công
nghiệp truyền thống, nhất là sản xuất công cụ sản xuất, hàng tiêu dùng hợp thị
hiếu đồng bào dân tộc, dưới nhiều hình thức thích hợp với quy mô vừa và nhỏ là
chủ yếu; đặc biệt khuyến khích phát triển các ngành chế biến nông, lâm sản,
khuyến khích áp dụng các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất để nâng
cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành.
Khuyến khích và tạo điều kiện
thuận lợi để cán bộ kỹ thuật, các hộ kinh doanh tiểu, thủ công nghiệp miền xuôi
lên miền núi mở cơ sở kinh doanh. Nhà nước giảm 50% thuế lợi tức doanh nghiệp đối
với các cơ sở kinh doanh có thu nhập thấp hoặc điều kiện kinh doanh có khó khăn
ở các vùng cao, biên giới; trường hợp đặc biệt, có thể được miễn thuế. Uỷ ban
nhân dân huyện, tỉnh, quyết định cụ thể mức và thời gian giảm hoặc miễn thuế. Bộ
Tài chính nghiên cứu, quy định chính sách cụ thể đối với từng ngành nghề và loại
cơ sở và hướng dẫn cho các địa phương thực hiện.
Điều 12.
Các Bộ ngành Trung ương có nhiệm vụ giúp các địa phương
và các cơ sở công nghiệp hiện có trên địa bàn miền núi thực sự chuyển sang kinh
doanh có hiệu quả phù hợp với quy hoạch phát triển ngành; áp dụng các hình thức
liên doanh, liên kết, hiệp tác, các hình thức xí nghiệp cổ phần... để phát triển
sản xuất.
Các xí nghiệp, công nghiệp của
Trung ương đóng trên địa bàn cần phát triển các hoạt động dịch vụ sản xuất, hợp
tác (gia công) với các xí nghiệp của địa phương; mở rộng kinh doanh tổng hợp để
góp phần đáp ứng tốt hơn những yêu cầu đa dạng của nhân dân miền núi, giúp đỡ,
đào tạo và bồi dưỡng công nhân kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và tiến bộ kỹ
thuật cho các xí nghiệp của các địa phương miền núi.
Điều 13.
Bộ Năng lượng phối hợp với Bộ Thủy lợi và Uỷ ban nhân
dân các tỉnh có kế hoạch tổ chức khảo sát, xây dựng quy hoạch phát triển các
công trình thủy điện, chú ý quy mô vừa và nhỏ (kể cả trạm thủy điện kết hợp thủy
lợi).
Các tổ chức, tập thể, cá thể, tư
nhân đầu tư xây dựng các trạm thủy điện được miễn thuế lợi tức doanh nghiệp từ
3 đến 5 năm kể từ khi đưa công trình vào sử dụng và cho phép bán điện theo giá
thỏa thuận. Bộ Năng lượng và các ngành công nghiệp liên quan có kế hoạch sản xuất
và nhập khẩu các loại thiết bị, phụ tùng, vật tư cần thiết để bán cho nhân dân.
Điều 14.
Tăng vốn đầu tư sửa chữa, nâng cấp, xây dựng mới những
trục giao thông chủ yếu. Nhà nước ưu tiên đầu tư vốn ngân sách và sử dụng lực
lượng lao động của bộ đội thường trực tham gia xây dựng các đường trục quan trọng
(cả đường sắt, đường bộ, đường thủy và hàng không), các bến cảng, kho, các điểm
đầu mối giao thông chính. Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Giao thông vận tải
phân bổ vốn cụ thể. Các tỉnh, huyện chịu trách nhiệm xây dựng, tu bổ, bảo dưỡng
các đường nhánh từ trục chính đến khu dân cư và đến nơi sản xuất, nhất là các
vùng có sản xuất hàng hóa, bằng nguồn vốn Nhà
nước và nhân dân cùng làm. Nhà nước hỗ trợ thuốc nổ. Các đơn vị kinh tế, tư
nhân được đầu tư vốn kinh doanh giao thông vận tải ở miền núi bằng nhiều hình
thức, không hạn chế quy mô và phạm vi hoạt động. Khuyến khích các thành phần
kinh tế mua sắm các loại phương tiện vận tải, nhất là phương tiện vận tải đường
ngắn để thu gom, vận tải hàng hóa từ nơi sản xuất đến đầu mối giao thông. Thực
hiện miễn trong hai năm đầu và từ năm thứ 3 giảm 30-50% thuế lợi tức doanh nghiệp
đối với tập thể và cá nhân kinh doanh giao thông vận tải miền núi. Bộ Giao
thông vận tải cùng Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước chuẩn bị phương án phát triển giao
thông ở miền núi trình Hội đồng Bộ trưởng trong quý II năm 1990.
Tổng cục Bưu điện quy hoạch và
xây dựng kế hoạch phát triển màng lưới thông tin bưu điện ở các tỉnh miền núi
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh và quốc phòng trình Hội đồng Bộ
trưởng quyết định. Trung ương phụ trách xây dựng các tuyến thông tin trục chính
nối liền Trung ương với tỉnh (kể cả mở rộng và hiện đại hóa). Các tỉnh, huyện
chịu trách nhiệm xây dựng các tuyến thông tin nối với các trục chính.
III - VỀ PHÂN
PHỐI LƯU THÔNG VÀ DỊCH VỤ KỸ THUẬT.
Điều 15.
Bộ Nội thương, Bộ Kinh tế đối ngoại, Bộ Vật tư, Bộ Nông
nghiệp và Công nghiệp thực phẩm phối hợp với Uỷ ban nhân dân các tỉnh có kế hoạch
sắp xếp lại hệ thống các đơn vị quốc doanh thương nghiệp, thu gọn đầu mối các tổ
chức quản lý công tác phân phối lưu thông, dịch vụ, giải tán các tổ chức trung gian không cần thiết. Phát triển rộng
rãi hệ thống đại lý mua và bán; cho phép và hướng dẫn các hộ buôn bán tư nhân
kinh doanh những mặt hàng không thuộc diện Nhà nước quản lý, nhất là những mặt
hàng quốc doanh kinh doanh không có hiệu quả.
Điều 16.
Để ổn định giá cả hàng hóa, Nhà nước bán gạo, muối, dầu
hỏa, giấy viết, vải, thuốc chữa bệnh cho nhân dân vùng núi cao bằng giá bán tại
các thị xã, thị trấn của tỉnh đó; các mặt hàng Nhà nước thống nhất chỉ đạo giá
bán (xăng, dầu, phân bón, thuốc trừ sâu, dầu hỏa, sắt, thép...) thì ngành hàng giao cho tỉnh tại chân hàng cấp 2 (trừ lùi chiết
khấu thương nghiệp cấp 2), trường hợp địa phương phải nhận tại kho cấp 1 thì
ngành hàng phải trừ chiết khấu thương nghiệp cấp 1 và cấp 2. Đối với một số vật
tư, hàng hóa cần thiết nhưng không áp dụng trợ giá trong giá bán (than, xi
măng, muối...) thì ngành hàng cùng Bộ Tài chính tính toán trình Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng trợ cấp cho ngành hàng bằng vốn ngân sách.
Các tỉnh miền núi có kế hoạch dự
trữ một lượng cần thiết các mặt hàng như gạo, muối, dầu hỏa, giấy viết, thuốc
chữa bệnh... và đặt tại nơi thuận tiện, cơ động cho việc phân phối. Uỷ ban nhân
dân các tỉnh cần thống nhất kế hoạch dự trữ này với Bộ Tài chính, Bộ Nội
thương, Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm. Nhà nước sẽ hỗ trợ một phần
ngân sách chi cho các khoản dự trữ trên.
Các đơn vị quốc doanh, hợp tác
xã và các hộ gia đình, cá thể, tư nhân lưu thông các sản phẩm, hàng hóa từ miền
xuôi lên miền núi, từ vùng thấp lên vùng cao (nhất là muối, dầu thắp sáng, vải,
giấy viết) và ngược lại được xét giảm hoặc miễn thuế buôn chuyến hoặc thuế hàng
hóa. Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể.
Uỷ ban nhân dân tỉnh có kế hoạch
củng cố và mở thêm các chợ phiên miền núi, chợ ven biên giới, từng bước hình
thành các trung tâm giao dịch buôn bán.
Thực hiện chính sách trợ giá mua
cho người sản xuất đối với một số sản phẩm quan trọng, đặc biệt là sản phẩm phục
vụ xuất khẩu có giá trị kinh tế cao. Uỷ ban Vật giá Nhà nước cùng các Bộ liên
quan xây dựng mức trợ giá mua sản phẩm và trình Hội đồng Bộ trưởng vào quý II
năm 1990.
Điều 17.
Đẩy mạnh công tác xuất, nhập khẩu và mở rộng các hình thức
hợp tác kinh tế với nước ngoài trong các lĩnh vực nông - lâm nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, dịch vụ và du lịch ở miền núi.
Nhân dân giáp biên giới được
trao đổi qua biên giới các sản phẩm hàng hóa thông dụng theo các quy định của
Nhà nước về thuế và quản lý xuất, nhập khẩu.
Các tổ chức hoặc đơn vị kinh tế
thuộc các tỉnh giáp biên giới được phép tổ chức xuất, nhập khẩu trực tiếp với
các tổ chức kinh tế và cá nhân của nước láng giềng theo hướng dẫn của Bộ Kinh tế
đối ngoại. Đối với các tỉnh có cửa khẩu lớn, chính quyền địa phương được phép tổ
chức tổng đại lý giao dịch xuất, nhập khẩu theo hướng dẫn của Bộ Kinh tế đối ngoại.
Khuyến khích các tổ chức kinh tế
và cá nhân nhập các tư liệu, công cụ và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất; nhập
khẩu các mặt hàng tiêu dùng, hàng thiết yếu trong nước không có đủ hoặc vận
chuyển từ miền xuôi lên kém hiệu quả. Nhà nước miễn hoặc giảm thuế xuất, nhập
khẩu cho những mặt hàng này.
Để bảo hiểm cho người sản xuất
các loại nông, lâm sản xuất khẩu khi giá thị trường thế giới xuống, Nhà nước thực
hiện chính sách giảm thuế xuất khẩu cho các sản phẩm này. Vật tư, thiết bị nhập
về bằng ngoại tệ thu được do xuất khẩu các sản phẩm trên cũng được xét giảm thuế
nhập khẩu. Bộ Kinh tế đối ngoại nghiên cứu thành lập một số hiệp hội hỗ trợ sản
xuất và xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu chính của miền núi.
Bộ Kinh tế đối ngoại, Bộ Tài
chính, Tổng cục Hải quan lập đề án danh mục cụ thể các loại hàng hóa được phép
xuất, nhập khẩu, mức giảm và miễn thuế xuất, nhập khẩu, chế độ mậu dịch biên giới,
và quy chế hải quan các hoạt động xuất, nhập khẩu trình Hội đồng Bộ trưởng
trong quý II năm 1990.
Điều 18.
Các tổ chức và tư nhân nước ngoài được khuyễn khích đầu
tư vốn để sản xuất kinh doanh nông, lâm nghiệp, khai khoáng, công nghiệp, chế
biến, tiểu thủ công nghiệp, kết cấu hạ tầng, thương nghiệp, dịch vụ và du lịch ở
miền núi theo Luật Đầu tư nước ngoài, ngoài ra, được hưởng chính sách ưu đãi
tùy theo vùng và lĩnh vực. Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư cùng các ngành
liên quan nghiên cứu chính sách cụ thể trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định.
Các Bộ và cơ
quan quản lý dành ưu tiên quỹ viện trợ của các tổ chức quốc tế, các chương
trình hợp tác quốc tế của mình cho miền núi và giúp đỡ các địa phương sử dụng
có hiệu quả các nguồn vốn này.
Điều 19.
Tổng cục Du lịch và Uỷ ban nhân dân các tỉnh lập quy hoạch
và kế hoạch phát triển ngành du lịch ở miền núi. Trước mắt xây dựng quy hoạch,
kế hoạch và tập trung vốn đầu tư sửa chữa, nâng cấp các điểm du lịch Đà Lạt, Hạ
Long, Tam Đảo, Sa Pa, Côn Đảo, Điện Biên, Trường Sơn.... và lập đề án xây dựng
thêm một số điểm du lịch. Khuyến khích huy động các nguồn vốn trong nước, được
hợp tác với các tổ chức, cá nhân người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở
nước ngoài để đầu tư nâng cấp, xây dựng mới các điểm du lịch theo Luật Đầu tư
nước ngoài của Nhà nước.
Điều 20.
Nhà nước tăng vốn ngân sách cho các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội. Vốn ngân sách Nhà nước đầu tư cho các công trình không thu hồi
vốn, thu hồi một phần vốn. Vốn cho vay với lãi xuất thấp thông qua cơ quan ngân
hàng để đầu tư cho các công trình có thời gian thu hồi vốn dài; vốn tín dụng
ngân hàng cho vay để đầu tư các công trình có hiệu quả kinh tế và có thời gian
thu hồi vốn ngắn với lãi suất ưu đãi theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Ngoài các nguồn thu cố định dành
100% cho ngân sách địa phương đã ghi trong điểm 1 mục B của Nghị quyết số
186-HĐBT ngày 27-11-1989 của Hội đồng Bộ trưởng, các tỉnh miền núi đươc giữ lại
100% thuế nông nghiệp, thuế công thương nghiệp và một tỷ lệ từ 30-50% thu quốc
doanh nộp ngân sách của các xí nghiệp quốc doanh Trung ương đóng trên địa bàn để
bổ sung ngân sách địa phương, trường hợp thu không đủ chi thì Nhà nước điều tiết
đủ theo kế hoạch đã duyệt.
Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam hướng dẫn cụ thể việc thi hành các quy định trên.
IV - VỀ KHOA
HỌC, KỸ THUẬT.
Điều 21.
Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước cùng các ngành tiến
hành rà soát lại toàn bộ hệ thống các cơ sở trạm, trại, trung tâm nghiên cứu,
thực nghiệm khoa học kỹ thuật ở miền núi để có quy hoạch, kế hoạch củng cố,
tăng cường các cơ sở này, xây dựng mới cho các năm sau. Việc rà soát này phải
xong trong quý III năm 1990.
Trước mắt các hoạt động nghiên cứu,
thực nghiệm phải gắn với sản xuất ở mỗi vùng, nhằm đưa nhanh vào sản xuất các
tiến bộ kỹ thuật về giống cây trồng, vật nuôi, kỹ thuật thâm canh, kỹ thuật
canh tác trên đất dốc, phương thức nông lâm kết hợp và kỹ thuật tưới, tiêu nước,
bảo vệ thực vật, thú ý, và các công nghệ mới về chế biến nông lâm sản.
Khuyến khích các cơ quan, tổ chức
nghiên cứu khoa học và các trường đại học, các trường đào tạo cán bộ, cá nhân
các nhà khoa học, nghệ nhân lên miền núi nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ kỹ
thuật và công nghệ mới trên cơ sở hợp đồng kinh tế hai bên cùng có lợi. Uỷ ban
Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước cùng các Bộ Tài chính, Lao động - Thương binh và
Xã hội, Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Lâm nghiệp và các ngành Trung ương
có liên quan nghiên cứu chính sách cụ thể trình Hội đồng Bộ trưởng trong quý II
năm 1990, xây dựng và thực hiện các chương trình tiến bộ kỹ thuật đồng bộ thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội miền núi.
Phần II –
VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT
Điều 22.
Điều chỉnh hợp lý quan hệ sản xuất và đổi mới quản lý để
giải phóng sức sản xuất, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế ở
miền núi. Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa các đơn vị kinh tế quốc doanh, tập
thể, hộ gia đình và cá thể, tư nhân, giữa đồng bào Kinh và đồng bào các dân tộc ít người nhằm đoàn kết, tương trợ nhau
cùng xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đổi mới và củng cố các hình thức
kinh tế tập thể và phát triển mạnh kinh tế hộ gia đình. Các nông, lâm trường phải
vươn lên giữ vai trò nòng cốt trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đối với những
khâu và những lĩnh vực then chốt.
Điều 23.
Các nông, lâm trường quốc doanh có nhiệm vụ vừa sản xuất
kinh doanh đạt hiệu quả cao, vừa tổ chức dịch vụ cho các thành phần kinh tế
khác. Đặc biệt phải chuyển mạnh hoạt động của các nông, lâm trường quốc doanh
sang làm tốt khâu dịch vụ sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn; mở rộng kinh doanh tổng hợp, cùng các thành phần
kinh tế khác đáp ứng tốt hơn những yêu cầu về nước, giống, vật tư, công cụ sản
xuất, bảo vệ thực vật, thú y, sửa chữa thiết bị, máy móc... chế biến nông, lâm
sản.
Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực
phẩm, Bộ Lâm nghiệp cùng Uỷ ban nhân dân các tỉnh khẩn trương xác định quy mô
diện tích thích hợp cho các nông, lâm trường (cả trên bản đồ và trên thực địa),
bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các nông, lâm trường quốc doanh
(cả Trung ương và địa phương), các trạm, trại nông nghiệp. Phân loại, sắp xếp lại
tổ chức, bộ máy của từng đơn vị để chuyển sang hạch toán kinh doanh, đóng vai
trò trung tâm về tổ chức sản xuất, quản lý có hiệu quả, phổ biến kỹ thuật, áp dụng
công nghệ mới, bồi dưỡng cán bộ, công nhân kỹ thuật và những người làm nông,
lâm nghiệp giỏi cho các thành phần kinh tế khác trong vùng.
Giao lại cho chính quyền địa
phương phần diện tích dôi ra do xác định lại quy mô các nông, lâm trường để địa
phương giao cho cá nhân hoặc đơn vị khác sử dụng. Diện tích nằm trong quy hoạch
của đơn vị sau khi xem xét lại, nếu đơn vị chưa có điều kiện đưa vào sử dụng,
đơn vị được phép cho nhân dân quanh vùng làm khoán theo sự thỏa thuận giữa hai
bên.
Điều 24.
Các nông, lâm trường quốc doanh làm ăn thua lỗ kéo dài,
khó có khả năng củng cố thì kiên quyết chuyển sang hình thức kinh tế tập thể,
cá thể hoặc tư nhân để tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu qủa hơn. Các Bộ chủ
quản có trách nhiệm chỉ đạo việc đánh giá đúng đắn giá trị các tài sản hiện có
để bán lại hoặc đấu thầu, tiền thu được phải trả nợ các khoản vay, phần còn lại
nộp vào ngân sách Nhà nước.
Điều 25.
Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Bộ Lâm nghiệp,
Tổng cục Cao su, Uỷ ban nhân dân tỉnh miền núi chọn một số nông, lâm trường hoặc
quốc doanh dịch vụ có đủ điều kiện để làm thí điểm việc chuyển cơ sở quốc doanh
sang dạng xí nghiệp cổ phẩn dưới các hình thức thích hợp.
Điều 26.
Uỷ ban nhân dân tỉnh, huyện chỉ đạo các hợp tác xã nông,
lâm nghiệp đã hoạt động tương đối có nền nếp, sản xuất kinh doanh có hiệu quả
tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, chuyển sang sản xuất hàng hóa.
Đối với những hợp tác xã sản xuất
kinh doanh kém, thua lỗ đã kéo dài, tập thể xã viên bàn bạc để quyết định chuyển
sang quy mô và các hình thức thích hợp như vần công, đổi công, tổ đoàn kết, tập
đoàn sản xuất...
Các hợp tác xã và tổ chức kinh tế
tập thể khác ở miền núi cần vận dụng rộng rãi cơ chế khoán hộ phù hợp với đặc
điểm từng dân tộc và điều kiện kinh tế tự nhiên ở từng nơi.
Đối với vùng cao hẻo lánh, điều
kiện sản xuất phân tán, khó khăn thì hình thức kinh tế hộ nông dân là phổ biến.
Đối với đồng bào dân tộc ở Tây
Nguyên, Uỷ ban nhân dân huyện, xã phải gắn công tác vận động định canh, định cư
với giao đất, giao rừng, xây dựng các công trình phục vụ sinh hoạt, hướng dẫn đồng
bào sản xuất, cải thiện đời sống. Vận động đồng bào đang sinh sống trong các
"nhà dài" tự nguyện tách thành từng hộ riêng, gắn với xây dựng các cụm
dân cư, từng bước chuyển từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hóa, việc này phải
thực hiện kiên trì, tuyệt đối không được áp đặt.
Các hợp tác xã đã nhận đất, nhận
rừng và tổ chức kinh doanh chung cần vận dụng triệt để cơ chế giao và khoán đất,
rừng cho hộ gia đình theo khả năng của họ trên nguyên tắc thật sự dân chủ, công
khai.
Điều 27.
Kinh tế hộ gia đình, cá thể, tư nhân là hình thức thích
hợp để phát triển kinh tế hàng hóa ở miền núi theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nhà nước khuyến khích các hộ gia đình ở miền núi và các hộ từ miền xuôi lên miền
núi nhận đất, nhận rừng phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, chăn nuôi, mở
mang ngành nghề, tiểu thủ công nghiệp và làm dịch vụ. Các hoạt động sản xuất
kinh doanh của gia đình, cá thể, tư nhân được Nhà nước bảo hộ.
Điều 28.
Áp dụng rộng rãi cơ chế khoán hộ (hoặc đấu thầu) trong tất
cả các thành phần kinh tế: quốc doanh, tập thể... kể cả lúa, mầu, cây công nghiệp,
chăn nuôi, ngành nghề và rừng theo nguyên tắc hộ xã viên là một đơn vị kinh tế
tự chủ.
Thời gian giao khoán hoặc đấu thầu
đối với đất trồng cây hàng năm được giao, ổn định 15 năm; cây lâm nghiệp, cây
công nghiệp và cây ăn quả lâu năm giao ổn định từ 30-50 năm. Hết thời hạn giao
hoặc đấu thầu nếu chủ sử dụng muốn làm tiếp sẽ được ưu tiên giao lại để sử dụng.
Các hộ nhận khoán được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và được quyền thừa kế, chuyển nhượng các tài sản
và sản phẩm đã đầu tư trên đất được giao; được quyền tổ chức sản xuất kinh
doanh tổng hợp nông - lâm nghiệp theo phương hướng quy hoạch của vùng và bảo đảm
thựchiện hợp đồng giao, nhận khoán. Nhà nước không chủ trương quốc hữu hóa các
tài sản đó, trừ trường hợp do yêu cầu an ninh, quốc doanh phải thu lại thì Nhà
nước bồi hoàn theo thời giá. Việc thành lập các tổ chức kinh doanh tập thể phải
do nông dân tự nguyện; tránh áp đặt dưới mọi hình thức.
Những vùng đất trống, đồi núi trọc,
rừng nghèo kiệt, rừng đầu nguồn xung yếu và các diện tích khác chưa có người nhận
để quản lý kinh doanh thì giao cho lâm, nông trường quản lý kinh doanh (trừ các
khu rừng quốc gia) hoặc giao chính quyền xã quản lý, bảo vệ.
Phần III –
VỀ VĂN HÓA - XÃ HỘI
I - VỀ GIÁO
DỤC
Điều 29.
Nhà nước dành ưu tiên về vốn đầu tư cho việc xây dựng
trường lớp, cung cấp thiết bị trường học, đào tạo giáo viên, bảo đảm yêu cầu
phát triển giáo dục cho con em đồng bào dân tộc.
Bộ Giáo dục có kế hoạch cụ thể tổ
chức lại hệ thống trường phổ thông cơ sở ở miền núi. Nhà nước đầu tư vốn xây dựng
trường con em dân tộc nội trú và hỗ trợ vốn xây dựng trường xã ở vùng cao, hẻo
lánh. Uỷ ban nhân dân địa phương tạo điều kiện và vận động đồng bào dân tộc ít
người khuyến khích con em mình đi học, phấn đấu phổ cập cấp I cho lứa tuổi
thanh, thiếu niên và cán bộ cơ sở theo chương trình phù hợp, củng cố và mở rộng
các trường phổ thông dân tộc nội trú khu vực, các trường dạy nghề, các lớp dự bị
dành riêng cho học sinh người dân tộc cho phù hợp và có hiệu quả.
Bộ Giáo dục phối hợp với các tỉnh
miền núi có biện pháp cụ thể để trong khoảng thời gian từ 1991-1995 căn bản giải
quyết xong nạn mù chữ cho đối tượng dưới 35 tuổi, nhất là thanh, thiếu niên và
cán bộ cốt cán xã, bản; mở lớp và dành kinh phí bồi dưỡng sư phạm cho học sinh
người dân tộc đã học hết cấp I (mà không theo học tiếp) để làm giáo viên thanh
toán nạn mù chữ ở từng xã, bản.
Thực hiện chính sách miễn học
phí, cho mượn sách giáo khoa đối với học sinh người dân tộc và đối với con em
các gia đình miền xuôi lên lập nghiệp tại miền núi mà đời sống có nhiều khó
khăn.
Ở những nơi có điều kiện thuận lợi,
có thể vận dụng hình thức tổ chức các trường "vừa học, vừa làm", trường
dân lập.
Điều 30.
Bộ Đại học - Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, Bộ Y tế
có trách nhiệm củng cố, nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học, cao
đẳng và trung học chuyên nghiệp ở miền núi theo hướng đổi mới nội dung và
chương trình cho phù hợp với yêu cầu thực tế và đối tượng học sinh miền núi.
Các trường đại học, trường công
nhân kỹ thuật của các ngành Trung ương có kế hoạch mở các lớp riêng cho học sinh,
sinh viên là người dân tộc ít người, nhất là vùng cao để đào tạo cho phù hợp và
có hiệu quả cao. Chú ý tuyển sinh người dân tộc theo địa chỉ, học xong trở về địa
phương phục vụ.
Ngoài chế độ
hiện hành, học sinh các trường đại học và cao đẳng là dân tộc ít người được nhận
học bổng gấp 1,5 lần mức quy định chung và được cấp tiền tàu xe về thăm gia
đình mỗi năm hai lần, những học sinh người dân tộc học xuất sắc được nhận học bổng
gấp 2 lần mức quy định chung.
Uỷ ban nhân dân các tỉnh miền
núi cùng các trường đào tạo, bồi dưỡng của Trung ương, các viện nghiên cứu mở
các lớp đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, cán bộ
chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với yêu cầu kỹ thuật và trình độ quản lý từng
vùng. Học viên các lớp này được trợ cấp học bổng như đối với học sinh của các
trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp.
II - VỀ Y TẾ.
Điều 31.
Tăng mức đầu tư để nâng cao một bước công tác y tế ở các
tỉnh miền núi.
Bộ Y tế phối hợp với các địa
phương miền núi có kế hoạch củng cố, mở rộng màng lưới y tế cơ sở từ xã đến bản,
phát triển phòng khám đa khoa khu vực (liên xã), mở rộng hoạt động các đội y tế
lưu động để đưa công tác phòng bệnh, trị bệnh, cung ứng thuốc đến từng bản hoặc
cụm dân cư, từng bước tăng cường khả năng của các trung tâm y tế huyện. Tăng
thêm thiết bị, phương tiện cần thiết, ưu tiên cung ứng đủ, kịp thời các loại
thuốc phòng, chống dịch và các bệnh xã hội, các bệnh thông thường; chú trọng
thuốc phòng và điều trị các bệnh bướu cổ, sốt rét, phong... Tiền thuốc phòng,
chống dịch và các bệnh xã hội, tiền giảm giá bán muối trộn i ốt do vốn ngân
sách Trung ương cấp, giao cho Bộ Y tế phân bố và quản lý việc sử dụng cho có hiệu
quả.
Đào tạo và bổ túc cho đủ số cán
bộ y tế cần thiết ở xã và bản, phấn đấu đến năm 1995 có đủ cán bộ y tế, nữ hộ
sinh ở các bản hoặc liên bản, chú trọng vùng cao, biên giới. Cán bộ y tế xã và
bản vùng cao được tính vào biên chế Nhà nước.
Điều 32.
Bộ Y tế hướng dẫn các địa phương phát hiện, thẩm định,
xác nhận các lương y có phương thuốc gia truyền quý giá. Khuyến khích họ và các
cán bộ y tế có điều kiện mở các phòng khám và chữa bệnh, cửa hàng bán thuốc.
Khuyến khích các cơ sở và cá
nhân gây trồng, thu hái và chế biến các dược liệu tại chỗ. Các lương y và cán bộ
y tế tổ chức sản xuất, chế biến thuốc từ dược liệu địa phương được miễn thuế từ
3-5 năm.
III - VỀ
VĂN HÓA THÔNG TIN
Điều 33.
Bộ Văn hóa, Bộ Thông tin soạn thảo sớm các chính sách
văn hóa đối với các dân tộc thiểu số trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định. Trước
mắt, giúp đỡ các tỉnh, các huyện miền núi kinh phí xây dựng các trạm tiếp sóng
Đài Tiếng nói Việt nam, Đài Truyền hình Trung ương.
Các địa phương cần có kế hoạch
tăng thêm các buổi phát thanh sóng ngắn, nhất là các buổi phát thanh bằng tiếng
dân tộc, đồng thời chú trọng cải tiến và nâng cao chất lượng các chương trình
phát thanh, truyền hình địa phương cho phù hợp với yêu cầu và truyền thống của
đồng bào dân tộc.
Tổ chức sản xuất và bán rộng rãi
các loại ra-đi-ô, loa thông dụng, cung ứng đủ pin cho nhân dân miền núi.
Nhà nước sẽ tăng kinh phí cho việc
khai thác các hoạt động văn hóa cổ truyền của các dân tộc ít người, khôi phục,
và phát triển các đội văn nghệ nghiệp dư, đội chiếu bóng lưu động (từng bước
trang bị vi-đê-ô và băng ghi hình) có thuyết minh bằng tiếng dân tộc và tiếng
phổ thông. Các tỉnh cần cải tiến để nâng cao chất lượng về nội dung và hình thức
báo địa phương, bản tin để phục vụ có hiệu quả đến từng bản. Các đài địa phương
chú trọng việc giới thiệu các cá nhân, hộ gia đình, bản làng về cách làm ăn giỏi,
xây dựng nông thôn mới ở trong vùng để đồng bào học tập.
Bộ Văn hóa phối hợp với các tỉnh,
huyện miền núi tổ chức sưu tầm, xuất bản các truyện dân gian vùng dân tộc, các
truyền thống đấu tranh cách mạng, bảo vệ các di tích lịch sử, di tích cách mạng,
xây dựng các phòng hoặc nhà bảo tàng trong địa phương để giáo dục truyền thống
cho nhân dân, nhất là thanh, thiếu niên.
Phần IV –
VỀ CÁN BỘ
Điều 34.
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tại chỗ (gồm
cả cán bộ người dân tộc và người Kinh), khuyến khích cán bộ miền xuôi (kể cả
cán bộ các ngành Trung ương và địa phương) lên công tác lâu dài ở miền núi.
Để khuyến khích cán bộ nói chung
công tác ở miền núi, Hội đồng Bộ trưởng quyết định một số chủ trương mới như
sau:
- Nâng mức phụ cấp khu vực cho
cán bộ công tác tại vùng cao, biên giới, hải đảo và nơi có nhiều khó khăn của
miền núi, có phân rõ mức độ phụ cấp cho cán bộ công tác ở huyện, xã, bản: nâng
mức phụ cấp khu vực 25% hiện nay lên đến 35% và mức 20% lên đến 25%.
- Cán bộ hành chính, sự nghiệp
công tác tại vùng cao, biên giới, hải đảo, nơi có nhiều khó khăn và những cán bộ
tham gia hai cuộc kháng chiến và các cán bộ người dân tộc có thời gian công tác
trên 15 năm được hưởng phụ cấp thâm niên.
- Thực hiện chính sách trợ cấp một
lần cho công nhân, viên chức học sinh mới ra trường quê ở miền xuôi lên công
tác ở miền núi, cho các cán bộ người dân tộc đang công tác ở xã được điều lên
công tác ở huyện, tỉnh với số tiền đủ mua (theo thời giá) 1 áo bông, 1 chăn
bông, 1 màn cá nhân.
- Cán bộ đã công tác ở miền núi
được tính thêm hệ số thời gian công tác theo chế độ hiện hành. Đối với những
cán bộ miền xuôi lên công tác ở miền núi, khi nghỉ hưu hoặc mất sức muốn trở về
quê cũ thì chính quyền địa phương nơi đi và nơi đến có trách nhiệm giải quyết
và tạo điều kiện thuận lợi trong việc di chuyển và sắp xếp nơi ăn, ở và đăng ký
hộ khẩu.
- Cán bộ, công nhân viên chức
công tác ở miền núi được cấp đất làm nhà, làm kinh tế gia đình theo chính sách
của Nhà nước và được vay vốn làm nhà với lãi suất ưu đãi và trả dần trong một số
năm.
- Ưu tiên phân bố chỉ tiêu đi học
tập, tham quan, chữa bệnh hay hợp tác lao động ở các nước ngoài.
- Nâng mức sinh hoạt phí của Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân xã và cán bộ tương đương ở vùng cao bằng mức lương của Trưởng
ngành huyện. Ban Tổ chức của Chính phủ quy định chức danh và mức trợ cấp cho
Trưởng bản ở những xã vùng cao của miền núi.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội, Ban Tổ chức của Chính phủ quy định địa bàn và hướng dẫn việc thực hiện các
chính sách nói trên.
Phần V -
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Điều 35.
Các ngành Trung ương và các địa phương căn cứ vào những quy định trên đây, với
chức năng được phân công, khẩn trương xây dựng các chính sách, quy định cụ thể
và văn bản hướng dẫn thực hiện trình Hội đồng Bộ trưởng đúng thời gian quy định
để tổ chức thực hiện trong năm 1990.
Điều 36.
Uỷ ban nhân dân các tỉnh miền núi, tỉnh và huyện có miền
núi, các ngành Trung ương có liên quan chủ động rà soát lại các lĩnh vực, lựa
chọn các công việc cấp bách bổ sung vào kế hoạch năm 1990, tiếp tục xây dựng
các dự án, đề án kinh tế kỹ thuật cho từng vùng, từng địa phương, từng ngành để
tổ chức thực hiện trong các năm sau.
Điều 37.
Hội đồng Bộ trưởng phân công một đồng chí Phó Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng, mỗi ngành ở Trung ương phân công một đồng chí lãnh đạo cấp phó
và có một nhóm cán bộ chuyên trách gọn, nhẹ để chỉ đạo, theo dõi, giám sát, và
đôn đốc việc thực hiện Quyết định này.
Các tỉnh, huyện miền núi thì đồng
chí Chủ tịch Uỷ ban nhân dân trực tiếp điều hành việc thực hiện Quyết định này.
Điều 38.
Quyết định này áp dụng cho tất cả các tỉnh miền núi, hải
đảo, các huyện, xã miền núi thuộc các tỉnh khác của cả nước.
Các ngành Trung ương và các tỉnh,
thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương phải tổ chức quán triệt đầy đủ và sâu
sắc Quyết định này đến toàn thể cán bộ, nhân dân, và chỉ đạo thực hiện nghiêm
túc.
|
TM.
HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Võ Văn Kiệt
|