HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
*******
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
***
|
Số : 64-CP
|
Hà Nội, ngày 19
tháng 11 năm 1960
|
NGHỊ
ĐỊNH
BAN
HÀNH ĐIỀU LỆ CẤP PHÁT KIẾN THIẾT CƠ BẢN
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Nghị định số 574-TTg ngày 26 tháng 11
năm 1957 của Thủ tướng Chính phủ ;
Căn cứ Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong phiên họp hội nghị Thường vụ của
Hội đồng Chính phủ ngày 19 tháng 09 năm 1960;
Theo đề nghị của ông Bộ trưởng Bộ Tải chính.
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1. – Nay ban hành bản điều lệ cấp phát kiến thiết cơ bản kèm theo
Nghị định này, thay thế cho bản điều lệ tạm thời về cấp phát kiến thiết cơ bản
kèm theo Nghị định số 574-TTg ngày 26 tháng 11 năm 1957.
Điều 2. – Việc quản lý vốn kiến thiết cơ bản thuộc tổng dự toán địa
phương cũng thi hành theo bản điều lệ cấp phát kiến thiết cơ bản này.
Để việc thi hành điều lệ được sát với tình
hình các địa phương, Bộ Tài chính sẽ quy định những trường hợp có thể châm
chước.
Điều 3. - Tất cả các Bộ, các ngành, các cấp, các đơn vị có trách nhiệm
đến công tác kiến thiết cơ bản và quản lý vốn kiến thiết cơ bản, trong phạm vi
trách nhiệm của mình, đều phải thi hành bản điều lệ này. Đơn vị hay cá nhân nào
không thi hành đúng, gây ra lãng phí, tham ô, không hoàn thành kế hoạch kiến
thiết cơ bản, phải chịu trách nhiệm và chịu kỷ luật của Nhà nước.
Điều 4. – Ông Bộ trưởng Bộ Tài chính chịu trách nhiệm giải thích bản
điều lệ này và quy định những chi tiết thi hành.
Điều 5. - Bản điều lệ này thi hành kể từ ngày ban hành. Tất cả những
điều khoản quy định từ trước trái với bản điều lệ này đều bãi bỏ.
|
T.M. HỘI ĐỒNG CHÍNH
PHỦ
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Phạm Văn Đồng
|
ĐIỀU
LỆ
CẤP
PHÁT KIẾN THIẾT CƠ BẢN
Chương 1:
NGUYÊN
TẮC CHUNG
Điều 1. – Điều lệ cấp phát kiến thiết cơ bản này nhằm bảo đảm cung
cấp vốn kiến thiết cơ bản (dưới đây viết tắt là KTCB) kịp thời và đúng đắn,
giám đốc việc sử dụng vốn kiến thiết cơ bản, cụ thể là: theo dõi việc sử dụng
vốn, đảm bảo vốn Nhà nước được sử dụng hợp lý, đôn đốc hoàn thành nhiệm vụ kế
hoạch kiến thiết cơ bản của Nhà nước, thực hiện chế độ hạch toán kinh tế, hạ
thấp giá thành công trình, tiết kiệm vốn Nhà nước, quản lý tiền mặt chặt chẽ.
Điều 2. - Tất cả các công tác kiến thiết cơ bản của các xí nghiệp
quốc doanh, của các xí nghiệp công tư hợp doanh và của các đơn vị sự nghiệp,
của các cơ quan hành chính và đoàn thể đã được ghi trong kế hoạch kinh tế quốc
dân đều do Ngân hàng kiến thiết Việt nam (dưới đây gọi tắt là NHKT), chiếu theo
điều lệ này để cấp phát vốn.
Điều 3. - Tất cả những khoản thu, chi của các đơn vị kiến thiết xí
nghiệp kiến trúc, lắp máy, cơ quan khảo sát thiết kế, các cơ quan khảo sát địa
chất (về phần các công trình KTCB) và các xí nghiệp cung tiêu (về phần kinh
doanh thuộc KTCB) đều do NHKT làm kết toán.
Điều 4. - Vốn kiến thiết cơ bản do Bộ Tài chính cấp làm nhiều lần
cho NHKT trung ương. Số vốn ấy sẽ gửi vào tài khoản riêng của NHKT ở Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam không tính lãi. Khi Ngân hàng Nhà nước chuyển tiền, không
tính thủ tục phí.
Trường hợp xí nghiệp dùng tiến vốn tự có để
xây dựng những công trình KTCB, thì tiền vốn đó phải giao cho NHKT quản lý.
Chương 2:
TÀI
LIỆU LÀM CĂN BẢN CẤP PHÁT
Điều 5. – Tài liệu làm căn bản cấp phát gồm có:
1. Cấp phát để chuẩn bị công trường (chuẩn bị vật liệu,
chuẩn bị công trình tạm như lán trại, đường tạm…)
a) Nếu công trình thiết kế theo hai bước
(theo như quy định của Nhà nước về trình tự kiến thiết cơ bản), thì phải có
những văn kiện sau đây:
- Kế hoạch kiến thiết cơ bản hàng năm của đơn
vị kiến thiết,
- Bản sao bản nhiệm vụ thiết kế,
- Bản sao giấy phê chuẩn sơ đồ mặt bằng,
- Kế hoạch cấp phát kiến thiết cơ bản hàng
quý của đơn vị kiến thiết và hạn mức cấp phát.
b) Nếu công trình thiết kế theo ba bước (theo
như quy định của Nhà nước về trình tự kiến thiết cơ bản ), thì phải có những
văn kiện sau đây:
- Kế hoạch kiến thiết cơ bản hàng năm của đơn
vị kiến thiết,
- Bản sao bảng nhiệm vụ thiết kế,
- Bản sao giấy phê chuẩn thiết kế sơ bộ, khái
toán và sơ đồ mặt bằng,
- Kế hoạch cấp phát kiến thiết cơ bản hàng
quý của đơn vị kiến thiết và hạn mức cấp phát.
2. Cấp phát để thi công: phải có những văn
kiện sau đây:
- Kế hoạch kiến thiết cơ bản hàng năm của đơn
vị kiến thiết,
- Bản sao bản nhiệm vụ thiết kế,
- Bản sao giấy phê chuẩn thiết kế (thiết kế
sơ bộ hoặc thiết kế kỹ thuật),
- Dự toán kiến thiết (của toàn bộ công trình
hoặc của toàn bộ các hạng mục công trình thi công trong năm kế hoạch),
- Kế hoạch cấp phát kiến thiết cơ bản hàng
quý của đơn vị kiến thiết và hạn mức cấp phát.
Tất cả các văn kiện nói trên phải được cấp có
thẩm quyền phê chuẩn như nói dưới đây. Nếu chưa có hạn mức cấp phát, thì không
được cấp phát một khoản nào.
Điều 6. – Kế hoạch kiến thiết cơ bản hàng năm của các Bộ chủ quản và
các đơn vị kiến thiết gửi cho Ngân hàng kiến thiết phải theo đúng các mẫu biểu
và trình tự lập và duyệt do Nhà nước quy định; kế hoạch của các đơn vị trên hạn
ngạch phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn. Kế hoạch của các đơn vị dưới hạn
ngạch phải được Bộ chủ quản phê chuẩn.
Kế hoạch hàng năm của đơn vị kiến thiết nói ở
trên đều phải nằm trong kế hoạch kiến thiết cơ bản hàng năm của Bộ chủ quản đã
được Hội đồng Chính phủ phê chuẩn.
Kế hoạch kiến thiết cơ bản hàng năm của các
Bộ, các cơ quan ngang Bộ, và các cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ (dưới
đây đều gọi tắt là Bộ chủ quản), sau khi Hội đồng Chính phủ phê chuẩn, phải sao
gửi một bản cho Ngân hàng Kiến thiết trung ương, Ủy ban kế hoạch Nhà nước gửi
bản tổng hợp của tất cả các Bộ chủ quản và mỗi Bộ chủ quản gửi bản kế hoạch
riêng của mình cho Ngân hàng kiến thiết trung ương.
Kế hoạch Kiến thiết cơ bản hàng năm của các
đơn vị kiến thiết, sau khi được duyệt, Bộ chủ quản sao gửi Ngân hàng kiến thiết
trung ương một bản, Ngân hàng kiến thiết trung ương đối chiếu kế hoạch ấy với
kế hoạch của Nhà nước. Nếu tổng số vốn đã được Nhà nước phê cuẩn cho Bộ đó, thì
Ngân hàng kiến thiết trung ương sẽ chuyển các kế hoạch đó cho các Chi hàng và
Phòng cấp phát kiến thiết cơ bản, nếu quá tổng số vốn đã được Nhà nước phê
chuẩn cho Bộ đó, thì ngân hàng kiến thiết trả lại để Bộ chủ quản điều chỉnh lại
hoặc xin Nhà nước cho điều chỉnh lại kế hoạch.
Điều 7. - Dự toán kiến thiết phải lập và duyệt theo chế độ về dự toán
kiến thiết cơ bản do Nhà nước quy định. Dự toán toàn bộ của các công trình trên
hạn ngạch phải được Ủy ban Kế hoạch Nhà nước phê cuẩn. Dự toán toàn bộ của các
công trình dưới hạn ngạch phải được Bộ chủ quản phê chuẩn. Trường hợp chỉ lập
được dự toán của một số hạng mục công trình, thì dự toán của những hạng mục
công trình ấy, kể cả của những công trình trên hạn ngạch, cũng phải do Bộ chủ
quản phê chuẩn.
Đơn vị kiến thiết phải gửi bản dự toán kiến
thiết đã được phê chuẩn (bản chính thứ hai) cho Chi hàng hay Phòng cấp phát
kiến thiết cơ bản.
Chi hàng hay Phòng cấp phát sẽ phối hợp với đơn
vị kiến thiết và xí nghiệp kiến trúc, lắp máy để thẩm tra dự toán kiến thiết.
Khi thẩm tra, phải căn cứ vào các định mức về sử dụng nhân công, vật liệu, căn
cứ vào giá cả của vật liệu và thiết bị, tiêu chuẩn tiền lương, tỷ lệ phí tổn
gián tiếp, tiền lãi, căn cứ vào giá xây dựng đơn vị công trình đã được Nhà nước
hay Bộ chủ quản quy định. Trường hợp Nhà nước hay Bộ chủ quản chưa ban hành đủ
các định mức về sử dụng nhân công, vật liệu, thì đơn vị kiến thiết và xí nghiệp
kiến trúc lắp máy có thể thỏa thuận với nhau và tạm đặt ra định mức để lập dự
toán và trình duyệt. Khi thẩm tra dự toán, nếu thấy giá tiêu chuẩn định mức
trong dự toán cao hơn hoặc thấp hơn so với mức đã được chính thức quy định thì
phải bàn bạc để điều chỉnh lại cho sát. Trường hợp hai bên không thống nhất ý
kiến với nhau được, thì Chi hàng, Phòng cấp phát tạm cấp phát theo dự toán đã
được phê chuẩn, đồng thời đơn vị kiến thiết và Chi hàng, Phòng cấp phát lập
biên bản tình hình thẩm tra dự toán gửi lên Bộ Tài chính và Bộ chủ quản nghiên
cứu giải quyết,
Sau khi thẩm tra dự toán kiến thiết, Chi
hàng bàn bạc với đơn vị kiến thiết và xí nghiệp kiến trúc lắp máy để lấy phần
giá trị bớt được ở hạng mục này bù cho số phải tăng thêm ở hạng mục khác. Nhưng
tổng số phần phải tăng thêm không được vượt quá tổng số phần giảm bớt để không
vượt quá dự toán kiến thiết của đơn vị. Sau khi đã lấy phần bớt được bù cho
phần phải tăng thêm, nếu còn thừa hoặc còn thiếu, đơn vị kiến thiết báo cáo lên
Bộ chủ quản để xin điều chỉnh kế hoạch.
Bộ chủ quản sẽ lấy nơi thừa bù nơi thiếu,
điều chỉnh trong phạm vi kế hoạch kiến thiết cơ bản hàng năm của toàn ngành đã
được Nhà nước phê chuẩn. Nếu Bộ chủ quản thấy cần tăng thêm dự toán của toàn
ngành, thì phải báo cáo với Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Tài chính cùng
nghiên cứu và đề nghị Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Khi dự toán kiến thiết lập xong nhưng chưa
được phê chuẩn, Chi hàng và Phòng cấp phát có thể thẩm tra trước bản dự thảo dự
toán. Việc thẩm tra nói trên của Chi hàng và Phòng cấp phát cần phải tiến hành
khẩn trương.
Điều 8. – Kế hoạch cấp phát do Bộ chủ quản lập theo từng quý (mẫu số 1
kèm) và gửi cho Bộ Tài chính xét duyệt trước khi bắt đầu mỗi quý. Kế hoạch cấp
phát của Bộ chủ quản phải dựa trên kế hoạch cấp phát của các đơn vị cơ sở. Bộ
Tài chính xét duyệt xong sẽ lần lượt gửi kế hoạch cấp phát cho Bộ chủ quản và
Ngân hàng Kiến thiết trung ương. Bộ chủ quản sẽ căn cứ vào kế hoạch cấp phát đã
được xét duyệt để làm “giấy báo hạn mức cấp phát kiến thiết cơ bản” theo từng
đơn vị kiến thiết (gọi tắt là giấy báo hạn mức cấp phát; mẫu số 2 kèm) và làm
thành 4 bản; gửi Ngân hàng kiến thiết trung ương thẩm xét. Nếu tổng số hạn mức cấp phát của các đơn vị kiến thiết
không quá kế hoạch cấp phát đã được Bộ Tài chính duyệt y cho Bộ đó, thì Ngân
hàng kiến thiết trung ương sẽ ký nhận vào giấy báo hạn mức, giữ lại một bản,
gửi cho Chi hàng một bản, trả lại cho Bộ chủ quản 2 bản (1 bản Bộ chủ quản sẽ gửi
cho đơn vị kiến thiết). Nếu tổng số hạn mức cấp phát vượt quá kế hoạch cấp phát
đã được duyệt y, thì Ngân hàng kiến thiết trung ương sẽ đề nghị Bộ chủ quản
điều chỉnh lại giấy báo hạn mức của những đơn vị về phần vượt quá kế hoạch đã
được duyệt. Trong khi chờ đợi, Ngân hàng kiến thiết trung ương chỉ gửi những
phần hạn mức trong phạm vi kế hoạch đã được duyệt.
Điều 9. - Nếu kế hoạch và dự toán toàn bộ công trình chưa được phê
chuẩn, thì tạm cấp theo dự thảo của kế hoạch và dự toán đã được cấp có thẩm quyền
thẩm tra đồng ý (thao như điều lệ dự toán kiến thiết cơ bản đã quy định).
Nếu dự thảo dự toán của toàn bộ công trình chưa
được phê chuẩn và cũng chưa được cấp có thẩm quyền thẩm tra đồng ý, thì sẽ cấp
phát theo kế hoạch kiến thiết cơ bản hàng năm đã được phê chuẩn hoặc kế hoạch
kiến thiết cơ bản hàng năm đã được cấp có thẩm quyền kiểm tra đồng ý, và theo
dự toán của những hạng mục công trình sắp khởi công.
Dự toán của những hạng mục chủ yếu phải được
Bộ chủ quản xét duyệt. Dự toán của những hạng mục khác, nếu không quá số vốn
ghi trong kế hoạch kiến thiết cơ bản hàng năm của đơn vị cho mỗi hạng mục ấy và
không trái với thiết kế, thì sẽ do Chi hàng thẩm tra và căn cứ vào đấy để cấp
phát. Nếu quá kế hoạch vốn hàng năm hoặc trái với thiết kế, thì phải do Bộ chủ
quản xét duyệt.
Nếu là công trình trên hạng ngạch, thì sau 3
tháng khởi công, nếu là công trình dưới hạng ngạch, thì sau 1 tháng, phải có
dự toán toàn bộ công trình trong năm kế hoạch.
Điều 10. - Trường hợp đặc biệt, cần phải xây dựng gấp mà không có những
căn cứ cấp phát như quy định ở trên, thì phải do Thủ tướng Chính phủ quyết định
theo đề nghị của Ủy ban Kế hoạch.
Riêng đối với những trường hợp thật đặc biệt,
như vì thiên tai bất ngờ, cần xây dựng lại kịp thời, thì sau khi Ủy ban hành
chính tỉnh quyết định, Chi hàng, Phòng cấp phát có thể cho vay trước khi có
căn cứ cấp phát nói trên, đồng thời báo cáo cho Ngân hàng kiến thiết trung ương
biết và đề nghị đơn vị sử dụng vốn lập ngay các căn cứ cấp phát cần thiết,
nhất là xin ngay hạn mức cấp phát để có vốn chi tiêu.
Điều 11. - Nếu có thay đổi về nội dung của các văn kiện làm căn cứ cấp
phát, thì các ngành có liên quan phải báo cáo cho Ngân hàng kiến thiết trung ương
và các Chi hàng, Phòng cấp phát biết.
Chương 3:
CẤP
PHÁT THEO KHỐI LƯỢNG CÔNG TRÌNH
Điều 12. - Tất cả những công trình kiến trúc đều phải được cấp phát
theo phương pháp “kết toán theo khối lượng công trình”. Đối với những công
trình trên hạn ngạch, nếu có trường hợp đặc biệt gặp khó khăn chưa cấp phát
theo khối lượng công trình được, thì phải được sự đồng ý của Bộ Tài chính mới
được tạm thời cấp phát theo thực tế trong một thời gian ngắn, sau đó phải
chuyển sang cấp phát theo khối lượng công trình.
Đối với những công trình lắp máy, những công
trình cơ khí điện nước, cũng áp dụng phương pháp theo khối lượng công trình cho
toàn bộ những công trình ấy. Bộ Tài chính cùng Bộ chủ quản ấn định kế hoạch
thực hiện nguyên tắc này đối với từng loại công trình.
Điều 13. – Đối với các công trình cho Công ty kiến trúc hay một cơ
quan một Bộ khác thầu, hay cho các đơn vị trong nội bộ một Bộ thầu, đều phải ký
hợp đồng giao thầu. Phải gửi bản chính thứ hai của hợp đồng giao thầu khoán
hoặc giấy giao kèo làm công trình cho Chi nhánh, Phòng cấp phát để tài liệu căn
cứ cấp phát và kết toán.
Chi hàng, Phòng cấp phát thẩm tra hợp đồng
hay giao kèo thầu khoán theo các điểm sau đây:
1. Tên hạng mục công trình, yêu cầu về thời
gian khởi công, về thời gian hoàn thành, về công suất, về kỹ thuật, phải phù
hợp với nhiệm vụ thiết kế, với thiết kế, dự toán và kế hoạch kiến thiết cơ bản
hàng năm.
2. Giá trị công trình nhận thầu trong năm
không được quá dự toán công trình trong năm và kế hoạch kiến thiết cơ bản hàng
năm, và giá trị toàn bộ công trình trong bản hợp đồng chung ký giữa hai Bộ giao
thầu và nhận thầu không được quá dự toán chung của toàn bộ công trình.
3. Tiêu chuẩn định mức sử dụng nhân công, vật
liệu, giá vật liệu, tỷ lệ, phí tổn gián tiếp, lãi … không được quá những quy
định của Nhà nước.
4. Phương pháp trả tiền phải phù hợp với điều
lệ cấp phát kiến thiết cơ bản này.
Nếu Chi hàng thấy những điều khoản nói trên
không được tôn trọng thì gửi trả cho đơn vị kiến thiết để sửa lại. Trong khi
chờ đợi hợp đồng được sửa lại và được duyệt, Chi hàng, Phòng cấp phát có thể
tạm cấp theo kế hoạch kiến thiết cơ bản hàng năm và dự toán.
Chi hàng, Phòng cấp phát có nhiệm vụ đôn đốc
theo dõi đơn vị kiến thiết và xí nghiệp kiến trúc, lắp máy thực hiện đúng các
điều khoản trong hợp đồng.
Đối với các công trình tự làm, phải có biên
bản của ban kiến thiết giao nhiệm vụ cho bộ phận thi công; biên bản ấy phải gửi
cho các Chi hàng, Phòng cấp phát làm căn cứ cấp phát và kết toán.
Điều 14. – Đơn vị kiến thiết phải cấp phát khoản tạm ứng cho xí nghiệp
kiến trúc lắp máy hay đơn vị thi công theo hợp đồng thầu khoán hàng năm để mua
nguyên vật liệu xây dựng. Nếu đơn vị kiến thiết cung cấp vật liệu cho xí nghiệp
kiến trúc lắp máy thì tính giá trị của vật liệu ấy vào khoản tạm ứng. Nếu xí
nghiệp kiến trúc, lắp máy đã được Nhà nước cấp vốn lưu động để mua nguyên liệu,
vật liệu xây dựng, thì đơn vị kiến thiết không phải cấp khoản tạm ứng.
Khoản tạm ứng để mua vật liệu trong nước do
hai bên tính toán cụ thể, mức cao nhất không được quá 50% tổng giá trị vật liệu
trong nước cần thiết cho công trình làm trong năm kế hoạch. Nếu cần tạm ứng quá
tỷ lệ 50% nói trên, thì phải báo cáo lên Bộ chủ quản và Bộ Tài chính. Mức tạm
ứng cụ thể cho mỗi công trình do hai bên tính toán và do Chi hàng thẩm xét lại,
nhằm đảm bảo cho vật liệu dự trữ không thiếu và cũng không thừa làm đọng vốn.
Ngân hàng kiến thiết cho vay phần vốn để dự trữ vật liệu quá mức vì tính chất
thời vụ của công tác kiến thiết cơ bản hay vì tính chất thời vụ của việc khai
thác nguyên liệu, vật liệu.
Vật liệu nước ngoài do đơn vị kiến thiết trả
tiền sau khi hàng tới, rồi chuyển giao cho đơn vị nhận thầu theo nguyên giá
(gồm giá vật liệu và cước phí vận chuyển đến kho công trường) coi như một khoản
tạm ứng.
Nếu hợp đồng giao thầu chưa ký, mà cần cấp
tạm ứng để đơn vị nhận thầu chuẩn bị vật liệu kịp thời thì hai bên có thể căn
cứ vào kế hoạch kiến thiết cơ bản hàng năm, thiết kế sơ bộ và khái toán, mà ký
giao kèo về khoản tạm ứng trong đó ghi rõ tên các hạng mục công trình, giá trị
tạm tính của công trình cho thầu trong năm, số tiền tạm ứng, ngày dự định ký
hợp đồng, ngày khởi công và thời hạn xây dựng. Đơn vị kiến thiết phải gửi giấy
giao kèo này cho Chi hàng thẩm tra để cấp phát khoản tạm ứng. Khi đã có hợp
đồng thầu khoán chính thức theo dự toán chính thức, thì điều chỉnh lại số tạm
ứng.
Trường hợp đơn vị tự làm, cấp phát theo khối
lượng công trình và đơn vị không được cấp vốn lưu động để mua vật liệu luân
chuyển, vật rẻ tiền mau hỏng, nhiên liệu… thì số tạm ứng có thể tăng thêm đủ để
đảm bảo cho đơn vị chi vào những khoản chi luân chuyển nói trên.
Điều 15. - Khoản tạm ứng sẽ trừ dần. Cách trừ dần phải ghi rõ trong
hợp đồng thầu khoán theo quy định sau đây nhằm bảo đảm số vật liệu cần thiết
cho việc xây dựng.
1. Trường hợp công trình hoàn thành trong
năm, bắt đầu trừ dần khi số tạm ứng ngang với trị giá vật liệu trong nước cần
dùng để xây dựng phần công trình cần phải làm trong năm. Lúc đơn vị kiến thiết
kết toán giá xây dựng công trình làm xong hay lúc tạm chi một phần vốn, thì trừ
dần số tạm ứng. Số phải trừ tính theo tỷ lệ của giá trị vật liệu trong nước so
với tổng giá trị của hợp đồng. Trước khi công trình làm xong, sẽ trừ hết toàn
bộ số tạm ứng.
2. Trường hợp công trình làm từ hai năm trở
lên, thì trong những năm đầu có thể không trừ khoản tạm ứng hoặc trừ ít. Từ năm
thứ hai sẽ tùy theo nhu cầu về vật liệu mà tính loại khoản tạm ứng cho năm đó;
thừa thì thu hồi bớt, thiều thì bù thêm, và sẽ trừ hết trong những năm làm xong
công trình theo thể thức đã quy định ở trên.
3. Việc trừ phần tạm ứng vật liệu nước ngoài
do đơn vị kiến thiết chuyển cho đơn vị nhận thầu bằng hiện vật, không làm cùng
với việc trừ phần tạm ứng bằng tiền mặt của đơn vị nhận thầu. Số phải trừ về
phần tạm ứng vật liệu nước ngoài phải tính theo giá trị vật liệu nước ngoài đã
sử dụng vào công trình, sử dụng đến đâu và kết toán đến đâu, thì trừ đến đấy.
Điều 16. – Những hạng mục công trình nào mà thời gian xây dựng 4 tháng
trở xuống thì kết toán một lần: chậm nhất là 45 ngày sau khi làm xong và kiểm
nhận xong công trình; đơn vị kiến thiết căn cứ vào dự toán đã được sửa chữa
theo biểu đồ thi công, kết toán toàn bộ giá xây dựng công trình với đơn vị nhận
thầu.
Chi hàng, Phòng cấp phát căn cứ vào biên lai
giá xây dựng công trình (mẫu số 3 kèm) của đơn vị nhận thầu, đã được đơn vị
kiến thiết ký nhận, và giấy kiểm nhận giao trả công trình (mẫu số 4 kèm) để
thẩm xét và cấp phát.
Trong thời gian xây dựng hạng mục công trình,
cứ cuối mỗi tuần kỳ 10 ngày, đơn vị nhận thầu; căn cứ vào giá xây dựng công
trình làm xong trong 10 ngày để làm biên lai tạm chi (mẫu số 5 kèm). Khối lượng
công trình dùng để tính số tạm thì dựa theo thống kê cấp tốc 10 ngày mà tính,
hoặc nếu không có thống kê cấp tốc thì dựa theo ước lượng của cán bộ kỹ thuật
được hai bên giao nhận thầu đồng ý.
Sau khi đơn vị kiến thiết đã ký nhận vào giấy
biên lai tạm chi thì đơn vị nhận thầu đưa đến Chi hàng để lĩnh tạm chi. Nhưng
trước khi làm xong công trình, tổng số các khoản tạm chi và tạm ứng không được
quá 95% giá dự toán công trình ấy. Khi kết toán giá xây dựng toàn bộ công
trình, phải trừ hết khoản tạm ứng và tạm chi.
Điều 17. – Đối với những hạng mục công trình mà thời gian xây dựng trên
4 tháng, thì hàng tháng hoặc hàng quý phải kết toán một lần, và khi hoàn thành
công trình, thì kết toán một lần cuối cùng.
Cuối mỗi tháng hay mỗi quý, đơn vị kiến thiết
và đơn vị nhận thầu sẽ căn cứ vào khối lượng công trình đã làm xong trong tháng
hay trong quý và đã được hai bên kiểm nhận để làm báo cáo về phần công trình đã
làm xong (mẫu số 6 kèm). Báo cáo ấy gửi kèm theo chứng từ giá xây dựng công
trình (mẫu số 3) gửi cho Chi hàng thẩm xét và cấp phát.
Cuối mỗi tuần kỳ 10 ngày, đơn vị nhận thầu
căn cứ vào giá xây dựng công trình đã hoàn thành để làm biên lai tạm chi (mẫu
số 5). Khối lượng công trình dùng để tính tạm chi, có thể dựa vào thống kê cấp
tốc hay ước lượng và điều phải do hai bên thỏa thuận. Sau khi được đơn vị kiến
thiết ký nhận, đơn vị nhận thầu đưa biên lai đến Chi hàng để nhận khoản tạm
chi, khi kết toán cuối tháng hay cuối quý, sẽ khấu trừ tất cả các khoản tạm chi
đến ngày kết toán.
Trong hạn 45 ngày sau khi làm xong công trình
và sau khi hai bên đã kiểm nhận toàn bộ công trình, hai bên phải căn cứ vào dự
toán đã được sửa chữa theo biểu đồ thi công để làm kết toán cuối cùng. Chi hàng
căn cứ vào biên lai giá xây dựng công trình và giấy kiểm nhận giao trả công
trình để thẩm xét và cấp phát. Khi cấp phát và kết toán lần cuối cùng phải trừ
tất cả các khoản tạm ứng và tạm chi.
Điều 18. – Chi hàng phải căn cứ vào biểu đồ thi công để cấp phát theo
khối lượng công trình. Biểu đồ thi công phải bảo đảm đúng khối lượng, chất lượng
ghi trong thiết kế. Nếu biểu đồ thi công do đơn vị nhận thầu làm, thì phải được
đơn vị giao thầu xác nhận.
Trong quá trình xây dựng, nếu đơn vị nhận
thầu thấy trong biểu đồ thi công hay dự toán có bỏ sót từng bộ phận công trình
hoặc có tính nhầm, do đó cần phải thay đổi giá trị dự toán cũ, thì phải báo kịp
thời cho đơn vị kiến thiết biết. Đơn vị kiến thiết phải điều chỉnh trong phạm
vi kiến thiết biết. Đơn vị kiến thiết phải điều chỉnh t phạm vi dự toán của
hạng mục công trình, đồng thời cùng đơn vị nhận thầu ký giấy thay đổi công
trình, đưa cho Chi hàng, Phòng cấp phát làm căn cứ cấp phát. Nếu thay đổi
nhiều, phải chi quá dự toán công trình, đơn vị kiến thiết phải báo cáo lên cơ
quan có thẩm quyền phê chuẩn thì Chi hàng cấp phát mới cấp phát.
Chương 4:
CẤP
PHÁT THEO THỰC TẾ
Điều 19. – Đối với những công trình kiến trúc, vì gặp khó khăn, nên
tạm thời chưa cấp phát theo khối lượng công trình, thì Chi hàng và Phòng cấp
phát căn cứ vào kế hoạch kiến thiết cơ bản hàng năm và dự toán kiến thiết để
cấp phát cho thực tế đối với từng hạng mục phí tổn (thiết bị, vật liệu, tiền
lương, chi phí khác).
Trong khi cấp phát, Chi hàng, Phòng cấp phát
phải luôn luôn đối chiếu tình hình cấp phát với tình hình khối lượng làm xong,
nếu thấy chi nhiều vốn mà khối lượng hoàn thành ít, triển vọng làm xong công
trình sẽ vượt dự toán, thì phải cùng đơn vị kiến thiết tính toán dự toán, nếu
thực sự dự toán không sát, thì phải được cấp có thẩm quyền xét duyệt cho điều
chỉnh lại dự toán mới được cấp phát phần vốn vượt dự toán.
Nếu vì làm ngoài kế hoạch, vì lãng phí nhiều,
nên chỉ tiêu vượt dự toán, thì phải do Bộ chủ quản quyết định và được Bộ Tài
chính đồng ý mới được cấp phát.
Bộ chủ quản sẽ điều chỉnh trong phạm vi số
vốn của Nhà nước đã duyệt cấp cho Bộ để cấp phát cho các đơn vị phải tăng thêm
vốn, nếu cần phải tăng thêm vốn cả năm cho Bộ chủ quản, thì phải được Thủ tướng
Chính phủ quyết định.
Điều 20. – Đối với những công trình lắp máy cho thầu hoặc tự làm, vì
gặp khó khăn, nên tạm thời chưa cấp phát theo khối lượng công trình được, thì
căn cứ vào hợp đồng và dự toán mà cấp phát theo thực tế. Nhưng trước khi làm
xong toàn bộ công trình, tổng số các khoản cấp phát không được quá 95tỷ lệ %
giá trị của công trình lắp máy.
Điều 21. – Chi hàng và Phòng cấp phát phải căn cứ vào kế hoạch hàng
quý về khảo sát thiết kế và khảo sát địa chất để cấp phát theo thực tế. Trường
hợp các đoàn khảo sát, vì điều kiện công tác phải thay đổi luôn địa điểm thì
Chi hàng, Phòng cấp phát có thể cấp khoản ứng trước cho đoàn khảo sát và cùng
đoàn khảo sát quy định rõ thời hạn quyết toán. Nếu không kết toán đúng hạn đã
định thì Chi hàng, Phòng cấp phát không ứng trước khoản khác.
Chương 5:
CẤP
PHÁT ĐỂ MUA THIẾT BỊ, VẬT LIỆU, TRẢ TIỀN LƯƠNG, PHÍ TỔN QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH VÀ
PHÍ TỔN VỀ KIẾN THIẾT CƠ BẢN KHÁC
Điều 22. – Khi Bộ chủ quản đặt mua thiết bị và vật liệu của nước ngoài
cho các đơn vị kiến thiết (kể cả hàng viện trợ), thì phải gửi cho Ngân hàng
kiến thiết bản kế hoạch đặt mua và kế hoạch nhập thiết bị và vật liệu nước
ngoài (cả năm và từng quý), để làm căn cứ thẩm tra khi cấp phát.
- Khi xí nghiệp cung tiêu thuộc các Bộ chủ
quản nhận được những hàng nước ngoài (kể cả hàng viện trợ) để dự trữ cho những
năm sau, hoặc hàng chưa phân phối được cho các đơn vị trong trường hợp chưa lập
các đơn vị kiến thiết (phụ trách việc thanh toán), thì Ngân hàng kiến thiết
trung ương cấp phát và kế toán. Xí nghiệp cung tiêu gửi cho Ngân hàng kiến
thiết trung ương giấy báo trả tiền đã được Bộ Ngoại thương chứng nhận và các
chứng từ hóa đơn có liên quan khác để cấp.
- Khi xí nghiệp cung tiêu giao hàng nước
ngoài (kể cả hàng viện trợ) cho các đơn vị kiến thiết, thì các Chi hàng, Phòng
cấp phát làm kết toán. Đơn vị kiến thiết gửi giấy báo trả tiền đã được xí
nghiệp cung tiêu chứng nhận cho Chi hàng, Phòng cấp phát và các chứng từ hóa đơn
có liên quan để cấp phát.
- Ngân hàng kiến thiết trung ương phải thẩm
tra xem bản kê chi tiết về thiết bị vật liệu có đúng với kế hoạch nhập hàng của
Bộ chủ quản và có đúng với yêu cầu của kế hoạch kiến thiết cơ bản của Nhà nước,
rồi mới cấp phát.
- Chi hàng, Phòng cấp phát phải thẩm tra xem
bản kê chi tiết về thiết bị vật liệu có đúng với dự toán công trình, và việc
giao nhận hàng có đúng hợp đồng, rồi mới cấp phát.
- Xí nghiệp cung tiêu nhận được hàng trước và
chưa phân phối được cho các đơn vị kiến thiết, thì vay vốn của Ngân hàng kiến
thiết trung ương để thanh toán với Bộ Ngoại thương, và phải hoàn trả Ngân hàng
kiến thiết trung ương theo đúng các quy định trong điều lệ cho vay, sau khi
phân phối hàng và đã được các đơn vị thanh toán.
Điều 23. – Khi đơn vị kiến thiết mua thiết bị, khí cụ, dụng cụ ở trong
nước, thì Chi hàng, Phòng cấp phát căn cứ vào kế hoạch kiến thiết cơ bản hàng
năm hay số lượng ghi trong dự toán kiến thiết để cấp phát theo giá quy định
của Nhà nước. Nếu kế hoạch dự toán chưa được phê chuẩn, thì có thể căn cứ vào
bảng kê chi tiết thiết bị, khí cụ, dụng cụ, đã được Bộ chủ quản phê chuẩn để
cấp phát.
Khi đơn vị kiến thiết hay đơn vị nhận thầu
mua vật liệu trong nước, thì Chi hàng, Phòng cấp phát căn cứ vào giá quy định
của Nhà nước mà cấp phát, và chỉ cấp phát trong phạm vi số vốn dùng để mua vật
liệu ghi trong dự toán (đối với đơn vị kiến thiết tự làm), hoặc trong phạm vi
kế hoạch mua vật liệu (đối với đơn vị nhận thầu hay xí nghiệp xây lắp).
Điều 24. – Khi đơn vị kiến thiết hay đơn vị nhận thầu phát tiền lương,
thì Chi hàng, Phòng cấp phát sẽ cấp phát theo thực tế trong phạm vi tổng số
tiền lương ghi trong dự toán hay trong kế hoạch lao động tiền lương. Số cấp
phát về lương phải tương đương với khối lượng công trình làm xong. Nếu quá tổng
số tiền lương ghi trong dự toán hay trong kế hoạch lao động tiền lương, thì
phải được Bộ chủ quản hay Bộ nhận thầu phê chuẩn mới được cấp phát.
Điều 25. – Chi hàng, Phòng cấp phát kiến thiết cơ bản cấp phát tiền
phí tổn quản lý hành chính theo nhu cầu và theo dự toán đã được phê chuẩn
trong phạm vi tỷ lệ về phí tổn quản lý hành chính đã được Nhà nước quy định.
Đơn vị kiến thiết và đơn vị nhận thầu phải cố gắng giảm bớt phí tổn hàng chính,
giữ đúng biên chế nhân viên quản lý hành chính. Chi hàng chịu trách nhiệm theo
dõi tình hình chi tiêu về khoản này.
Điều 26. – Khi đơn vị kiến thiết chi tiêu nề những khoản chi khác
ngoài khoản quản lý hành chính nói trên, Chi hàng, Phòng cấp phát kiến thiết cơ
bản cấp phát theo thực tế trong phạm vi dự toán và kế hoạch kiến thiết cơ bản
hàng năm.
Điều 27. - Trường hợp một xí nghiệp vừa sản xuất vừa kiến thiết cơ
bản, thì Chi hàng, Phòng cấp phát kết toán về tài vụ theo sự giao dịch và cung
cấp những thứ cần dùng giữa hai bộ phận sản xuất và kiến thiết cơ bản.
Điều 28. – Khi đơn vị kiến thiết và đơn vị nhận thầu dùng tiền, thì
phải gửi những chứng từ có liên quan (hợp đồng, hóa đơn…) cho Chi hàng, Phòng
cấp phát để thẩm xét và cấp phát theo thực tế. Nếu không gửi được hóa đơn, thì
Chi hàng, Phòng cấp phát có thể cấp phát trước rồi thẩm tra chừng từ sau (thẩm
tra có trọng điểm).
Khi cần dùng những số tiền nhỏ để chi tiêu
những khoản linh tinh, thì Chi hàng, Phòng cấp phát có thể ứng trước cho đơn vị
kiến thiết hay đơn vị nhận thầu một khoản tiền nhất định do hai bên thỏa thuận,
nhằm bảo đảm nhu cầu chi tiêu đồng thời tránh để đọng vốn tiền mặt, theo đúng
chế độ chung của Nhà nước về quản lý tiền mặt. Các đơn vị phải làm bảng thống
kê chi tiêu (không kèm theo chứng từ) đưa cho Chi hàng làm kết toán từng thời
kỳ một. Nếu không kết toán khoản đã ứng lần trước thì không cấp phát khoản ứng
tiếp sau.
Chương 6:
KIỂM
TRA
Điều 29. – Chi hàng có nhiệm vụ kiểm tra các đơn vị kiến thiết, các xí
nghiệp xây lắp, các đơn vị nhận thầu, các cơ quan khảo sát thiết kế và khảo sát
địa chất và các xí nghiệp cung tiêu về các mặt sau đây:
a) Kiểm tra tình hình hoàn thành kế hoạch
kiến thiết cơ bản và tình hình sử dụng tài sản cố định mới tăng thêm,
b) Kiểm tra tình hình chấp hành các chế độ
hợp đồng, dự toán kết toán, quyết toán, kế hoạch thu chi tài vụ, kế toán kiến
thiết cơ bản.
c) Kiểm tra tình hình chấp hành kế hoạch hạ
giá thành công trình.
d) Kiểm tra tình hình sử dụng tiền vốn.
Khi làm công tác kiểm tra, Chi hàng, Phòng
cấp phát có quyền xem các tài liệu về kế hoạch thiết kế, biểu đồ, sổ sách,
chứng từ, tài liệu thống kê, tài liệu giải thích và giấy tờ có liên quan khác.
Để bảo đảm sự giám đốc thường xuyên của Ngân
hàng kiến thiết, Bộ chủ quản và các đơn vị nói trên phải gửi cho Ngân hàng kiến
thiết trung ương và các Chi hàng, Phòng cấp phát những kế hoạch thu chi tài vụ,
báo cáo thống kê, báo cáo kế hoạch và quyết toán định kỳ theo quy định của Nhà
nước.
Điều 30. – Khi có đơn vị kiến thiết, xí nghiệp xây lắp, đơn vị nhận
thầu, cơ quan khảo sát thiết kế khảo sát địa chất, xí nghiệp cung tiêu không
chấp hành đúng kế hoạch của Nhà nước và làm sai thiết kế, không chấp hành điều
lệ kiến thiết cơ bản và các chế độ của Nhà nước, thì Chi hàng, Phòng cấp phát
phải góp ý kiến đôn đốc sửa chữa.
Nếu tình hình nghiêm trọng, và cơ quan cấp
phát đã góp ý kiến mà đơn vị sở quan không cải tiến, sửa chữa, thì Chi hàng,
Phòng cấp phát báo cáo lên Bộ Tài chính hoặc Ủy ban hành chính địa phương giải
quyết, đồng thời gửi một bản sao cho Bộ chủ quản biết. Được sự đồng ý của Bộ
Tài chính hay Ủy ban hành chính địa phương, Chi hàng, Phòng cấp phát có quyền
đình chỉ cấp phát, và các đơn vị sở quan phải chịu trách nhiệm về việc lãng phí
và xây dựng chậm trước Bộ chủ quản và trước Chính phủ.
Chương 7:
NHỮNG
NGUYÊN TẮC KHÁC
Điều 31. – Đơn vị kiến thiết, cơ quan khảo sát thiết kế, khảo sát địa
chất chỉ được chi tiêu trong phạm vi hạn mức cấp phát đã được xét duyệt. Hạn
mức cấp phát chưa dùng trong quý có thể tiếp tục sử dụng vào quý sau. Hạn mức
cấp phát quý sau không thể sử dụng trước. Nhưng nếu hoàn thành kế hoạch hàng quý
trước thời hạn, do đó hạn mức cấp phát không đủ dùng, thì Chi hàng, Phòng cấp
phát sẽ cấp trong phạm vi hạn mức cấp phát của quý sau. Nếu hạn mức cấp phát
của quý sau chưa gửi xuống, thì Chi hàng, Phòng cấp phát có thể cho vay, khi
hạn mức gửi xuống sẽ trả cho Chi hàng, Phòng cấp phát.
Điều 32. - Bộ chủ quản có quyền điều hòa hạn mức cấp phát của các đơn
vị kiến thiết thuộc ngành mình trong phạm vi kế hoạch cấp phát đã được Bộ Tài
chính xét duyệt: thu hồi hạn mức của nơi thừa để bù cho nơi thiếu, nhưng không
được phân phối trước những hạn mức chưa thu hồi về; nếu cần phân phối trước khi
thu đủ hạn mức về thì phải được Bộ Tài chính đồng ý. Khi Bộ chủ quản và Chi
hàng, Phòng cấp phát xét thấy hạn mức của một đơn vị có thừa mà đơn vị không
chịu trả lại, thì Bộ chủ quản có thể ủy nhiệm cho Chi hàng được trích phần thừa
của hạn mức đó để trả lại Bộ chủ quản theo “giấy thu hồi hạn mức” của Bộ chủ
quản.
Trong phạm vi kế hoạch kiến thiết cơ bản hàng
năm đã được Nhà nước phê chuẩn, Bộ chủ quản có quyền thay đổi số vốn đầu tư của
các đơn vị kiến thiết thuộc nghành mình. Số vốn đầu tư giảm bớt hay tăng thêm
của đơn vị ấy không được quá 5% số vốn ghi trong kế hoạch năm của đơn vị ấy.
Trong vi điều hòa số vốn đầu tư, không được lấy số giảm bớt của đơn vị
trên hạn ngạch tăng thêm cho đơn vị dưới hạn ngạch, và không được vượt quá
tổng số vốn ghi trong kế hoạch kiến thiết cơ bản hàng năm. Nếu muốn làm khác
các quy định trên thì phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn.
Điều 33. - Vốn kiến thiết cơ bản và vốn sản xuất cần phải dùng khoản
nào vào khoản ấy. Nếu đơn vị kiến thiết dùng vốn sản xuất vào kiến thiết cơ
bản, thì Chi hàng, Phòng cấp phát không cấp phát. Nếu đơn vị kiến thiết dùng
vốn kiến thiết cơ bản để xây dựng công trình ngoài kế hoạch được để làm các
việc khác, thì Chi hàng, Phòng cấp phát cũng không cấp phát.
Điều 34. – Sau khi đã làm xong toàn bộ công trình, thì đơn vị nhận
thầu có nhiệm vụ kết toán toàn bộ với đơn vị kiến thiết. Ban phụ trách đơn vị
kiến thiết có trách nhiệm quyết toán với Chi hàng số vốn đã được cấp phát, cụ
thể là:
1. Quyết toán chung với Chi hàng, Phòng cấp
phát tình hình vốn đã nhận được, đã sử dụng và vốn còn lại.
2. Giao cho Chi hàng bản kê số vật liệu,
thiết bị, dụng cụ, khí cụ còn lại và dự kiến sử lý đã được Bộ chủ quản đồng ý.
3. Giao cho Chi hàng bản kê tình hình nợ, còn
phải trả và còn phải thu.
4. Hoàn trả số tiền mặt còn lại cho Chi hàng
để trừ vào khoản tiền đã cấp phát.
5. Giao Chi hàng số hạn mức cấp phát còn lại
để Chi hàng trả lại cho Bộ chủ quản dùng để điều chỉnh chung trong ngành.
6. Bàn giao cho đơn vị sản xuất hay đơn vị sử
dụng số công trình đã làm xong.
Ban phụ trách đơn vị kiến thiết có trách
nhiệm thanh toán tất cả các khoản nợ và xử lý số vật liệu, thiết bị còn lại
theo kế hoạch đã được Bộ chủ quản đồng ý. Nếu Bộ chủ quản đảm nhận trách nhiệm
thanh toán, xử lý vật liệu nói trên, đơn vị kiến thiết phải giao cho Chi hàng,
Phòng cấp phát giấy chứng nhận bàn giao cho Bộ chủ quản. Bộ Tài chính có nhiệm
vụ theo dõi việc thanh lý các khoản nợ và vật liệu thiết bị còn lại của Bộ chủ
quản.
Vật liệu còn lại sau khi hoàn thành công
trình, giải quyết như sau:
1. Trường hợp cho thầu hay tự làm và cấp phát
toàn bộ theo khối lượng công trình, thì vật liệu còn lại thuộc về xí nghiệp xây
lắp hay đơn vị kiến thiết, và phải hạch toán vào lỗ lãi.
2. Trường hợp cấp phát theo thực tế, thì vật
liệu còn thừa phải trả vào số đã cấp phát cho công trình ấy.
3. Trường hợp cho thầu và một phần cấp phát
theo khối lượng công trình, một phần cấp phát theo thực tế, thì hai bên sẽ thương
lượng để giải quyết số vật liệu thừa. Phần thuộc về đơn vị kiến thiết sẽ trừ
vào số đã cấp phát công tác công trình ấy.
Bộ chủ quản có thể điều hòa số vật liệu thiết
bị thừa giữa các đơn vị kiến thiết trong ngành. Nếu cuối năm vẫn thừa, thì phải
ghi vào kế hoạch thu chi tài vụ năm sau, coi như vốn kết dư dùng cho cấp phát
kiến thiết cơ bản năm sau.
Điều 35. – Chi hàng, Phòng cấp phát phụ trách việc theo dõi các đơn vị
kiến thiết và xí nghiệp xây lắp nộp lãi và tiền khấu hao đúng thời hạn cho Nhà
nước. Bộ chủ quản cấp vốn lưu động cho xí nghiệp xây lắp hoặc thu hồi vốn về
điều phải thông qua Ngân hàng kiến thiết.