HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
168-CP
|
Hà
Nội, ngày 20 tháng 10 năm 1961
|
NGHỊ ĐỊNH
BAN HÀNH ĐIỀU LỆ VỀ LẬP VÀ CHẤP HÀNH NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Theo đề nghị của Bộ Tài
chính;
Căn cứ Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong phiên họp Hội nghị thường vụ của
Hội đồng Chính phủ ngày 23 tháng 11 năm 1960;
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1. –
Nay ban hành điều lệ về lập và chấp hành ngân sách Nhà nước nhằm:
- Tăng cường công tác quản lý
kinh tế, quản lý tài chính, cải tiến công tác kế hoạch hóa tài chính, và củng cố
kỷ luật tài chính của Nhà nước.
- Đề cao trách nhiệm của các
ngành, các cấp, của đơn vị xí nghiệp, các cơ quan trong việc quản lý tài chính,
thực hiện kế hoạch kinh tế quốc dân.
Điều 2. -
Tất cả những quy định trước đây về việc lập và chấp hành ngân sách Nhà nước
trái với điều lệ này đều bãi bỏ.
Điều 3. -
Điều lệ này thi hành từ ngày công bố.
Điều 4. -
Ông Bộ trưởng Bộ Tài chính chịu trách nhiệm hướng dẫn thi hành điều lệ này.
|
T.M.
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Phạm Văn Đồng
|
ĐIỀU LỆ
VỀ LẬP VÀ CHẤP HÀNH NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Chương 1:
NGUYÊN TẮC CHUNG
Điều 1. -
Ngân sách Nhà nước là kế hoạch tài chính cơ bản nhằm lập và dùng vốn tiền tệ tập
trung của Nhà nước. Nhà nước tập trung vào ngân sách một phần thu nhập quốc dân
để dùng vào việc phát triển có kế hoạch nền kinh tế quốc dân, nâng cao phúc lợi
vật chất và văn hóa của nhân dân, củng cố quốc phòng, tăng cường Nhà nước dân
chủ nhân dân, đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc làm cơ sở cho cuộc
đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
Vốn ngân sách Nhà nước được lập,
chủ yếu dựa vào các khoản thu nhập của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa không ngừng
tăng lên, trên cơ sở sản xuất mở rộng và cải tiến không ngừng.
Nhân dân đóng góp một phần thu
nhập của mình vào ngân sách Nhà nước, bằng cách nộp các khoản thuế do Nhà nước
quy định, và những khoản khác do các cá nhân và các tổ chức tự nguyện góp vào
công quỹ.
Điều 2. -
Ngân sách là một công cụ để giám đốc nền kinh tế quốc dân; khi lập ngân sách
cũng như trong quá trình chấp hành ngân sách, phải tiến hành kiểm tra tình hình
tài vụ, tình hình kinh doanh và tình hình thực hiện các nhiệm vụ kế hoạch kinh
tế của các Bộ, các địa phương, các xí nghiệp, các cơ quan Nhà nước, nhằm:
Phát hiện và động viên mọi nguồn
thu tiềm tàng trong nền kinh tế quốc dân;
Thực hiện chế độ tiết kiệm, đảm
bảo phân phối vốn theo các tỷ lệ cân đối đã định trong kế hoạch kinh tế quốc
dân, lập vốn dự trữ của Nhà nước.
Điều 3. –
Ngân sách Nhà nước gồm có ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.
Việc phân phối thu và chi giữa
ngân sách trung ương và ngân sách địa phương căn cứ vào chế độ phân cấp quản lý
kinh tế và tài chính của Nhà nước, do Hội đồng Chính phủ quy định nhằm: bảo đảm
nhu cầu kinh phí của Nhà nước ở cấp trung ương, đồng thời nâng cao tính tích cực
của địa phương, bảo đảm sự phát triển nhanh chóng và cân đối giữa các địa
phương, giúp đỡ các dân tộc thiểu số mau tiến kịp trình độ kinh tế và văn hóa
chung.
Điều 4. -
Năm ngân sách bắt đầu từ ngày 1 tháng giêng và kết thúc ngày 31 tháng 12 dương
lịch.
Ngân sách Nhà nước, được Quốc hội
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa phê chuẩn, là một đạo luật: các Bộ, các cơ quan
trực thuộc Hội đồng Chính phủ, các Ủy ban hành chính địa phương, các xí nghiệp,
các tổ chức và cơ quan các ngành, các cấp phải thực hiện ngân sách Nhà nước một
cách nghiêm chỉnh, nộp đầy đủ và kịp thời những khoản thu đã quy định trong
ngân sách, và triệt để thực hành tiết kiệm trong việc chi dùng vốn của Nhà nước.
Chương 2:
LẬP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Điều 5. -
Ngân sách Nhà nước có liên quan mật thiết với kế hoạch kinh tế quốc dân. Về thu
cũng như về chi, nó phải hoàn toàn ăn khớp với kế hoạch phát triển kinh tế quốc
dân của Nhà nước.
Lập dự án ngân sách Nhà nước phải
xuất phát từ nhiệm vụ bảo đảm đầy đủ vốn để thực hiện những chỉ tiêu của kế hoạch
phát triển kinh tế quốc dân, nâng cao phúc lợi vật chất và văn hóa của nhân
dân, thực hiện việc củng cố quốc phòng, bảo đảm các mặt hoạt động khác của Nhà
nước, đồng thời phải bảo đảm thu chi thăng bằng, và cố gắng thu nhiều hơn chi một
ít.
Điều 6. -
Lập dự án ngân sách Nhà nước, các Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ,
các xí nghiệp, các tổ chức, các cấp và các ngành phải tính toán đầy đủ và chính
xác những khoản thu, phải phát hiện những nguồn vốn hiện có trong nền kinh tế
quốc dân để tăng thêm vốn cho ngân sách; phải tính toán chi một cách tiết kiệm
nhất và phải bảo đảm các chỉ tiêu tài chính ăn khớp với các chỉ tiêu kế hoạch
kinh tế quốc dân, đồng thời phải đảm bảo chấp hành nghiêm chỉnh các chính sách
và chế độ hiện hành về quản lý tài chính của Nhà nước.
Điều 7. -
Trong dự án ngân sách Nhà nước chỉ được tính những khoản thu, khoản chi đã được
quy định trong các chế độ, thể lệ hiện hành. Chỉ khi nào được Hội đồng Chính phủ
cho phép, mới được ghi các khoản thu, chi mới vào dự án ngân sách.
Điều 8. -
Các khoản thu ghi vào dự án ngân sách Nhà nước gồm: những khoản thu về quốc doanh,
thu về lợi nhuận xí nghiệp, thu về thuế và các khoản thu khác do các xí nghiệp
quốc doanh, các tổ chức khác, các cơ quan nộp cho Nhà nước; những khoản thu về
thuế và các khoản thu khác do nhân dân đóng góp.
Điều 9. - Các
khoản chi ghi vào dự án ngân sách gồm những khoản chi về kiến thiết kinh tế,
chi về văn hóa xã hội, chi về quốc phòng, chi về hành chính, chi để lập các nguồn
dự trữ vật tư và tài chính của Nhà nước, chi về các công việc khác đã được Nhà
nước quy định.
Điều 10. - Chi
về kiến thiết kinh tế bao gồm các khoản cấp vốn kiến thiết cơ bản, cấp vốn lưu
động, cấp kinh phí cho các sự nghiệp kinh tế, cho các nhu cầu khác của các xí
nghiệp, tổ chức và cơ quan Nhà nước, cho việc lập và tăng cường dự trữ vật tư,
bảo đảm phát triển nền kinh tế quốc dân một cách có kế hoạch và nhanh chóng.
Chi về văn hóa, xã hội, bao gồm
các khoản cấp vốn kiến thiết cơ bản cho các công trình xây dựng về văn hóa,
giáo dục, nghiên cứu khoa học, y tế, xã hội; các khoản cấp vốn để thực hiện các
sự nghiệp văn hóa, giáo dục, nghiên cứu khoa học, y tế, xã hội, thực hiện chế độ
bảo hiểm xã hội. Lúc định mức chi của Nhà nước về văn hóa xã hội phải căn cứ
vào mức tăng thu nhập quốc dân và khả năng vốn của ngân sách Nhà nước.
Chi về hành chính bao gồm các
khoản chi để đảm bảo sự hoạt động của các cơ quan quyền lực của Nhà nước, các
cơ quan quản lý Nhà nước, các Tòa án nhân dân và các Viện Kiểm sát nhân dân.
Xác định các khoản chi về hành chính phải căn cứ vào nhiệm vụ tăng cường đi đôi
với tinh giản bộ máy quản lý Nhà nước, tiết kiệm các khoản chi về bộ máy đó.
Điều 11. – Hàng
năm, Hội đồng Chính phủ ban hành chỉ thị về nhiệm vụ, phương châm, cách thức và
thời hạn lập dự án ngân sách Nhà nước, song song với chỉ thị lập dự án kế hoạch
kinh tế quốc dân.
Bộ Tài chính căn cứ vào chỉ thị
của Hội đồng Chính phủ ra thông tư hướng dẫn cụ thể các ngành các cấp tiến hành
lập dự án ngân sách Nhà nước.
Các Bộ, các cơ quan chủ quản trực
thuộc Hội đồng Chính phủ tổ chức việc lập dự án kế hoạch thu chi tài vụ và dự
án dự toán kinh phí của mình, các Ủy ban hành chính địa phương tổ chức việc lập
dự án ngân sách địa phương.
Để đảm bảo sự thống nhất khi làm
ngân sách, việc lập dự án kế hoạch tài vụ và dự án dự toán kinh phí phải theo
đúng những khoản, mục, biểu mẫu do Bộ Tài chính quy định sau khi đã thỏa thuận
với Tổng cục Thống kê trung ương.
Điều 12. - Khi
lập dự án kế hoạch tài vụ cũng như dự án dự toán kinh phí, các thủ trưởng cơ
quan, xí nghiệp và tổ chức khác của Nhà nước, phải phối hợp chặt chẽ các bộ phận
phụ trách kế hoạch, phụ trách tài vụ, phụ trách vật tư. Các dự án lập ra đều phải
quán triệt tinh thần chỉ thị của Hội đồng Chính phủ về chủ trương lập ngân sách
Nhà nước.
Điều 13. - Căn
cứ vào nhiệm vụ ghi trong kế hoạch kinh tế quốc dân, vào chỉ thị của Hội đồng Chính
phủ, và thông tư của Bộ Tài chính, các Bộ và cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính
phủ hướng dẫn cụ thể cách thức, thời hạn lập dự án kế hoạch tài vụ và dự toán
kinh phí cho các xí nghiệp, tổ chức và cơ quan trực thuộc, theo trình tự dưới
đây:
Thủ trưởng các Bộ và cơ quan trực
thuộc Hội đồng Chính phủ giao số kiểm tra tài vụ cho các cơ quan trực thuộc, và
hướng dẫn các xí nghiệp và tổ chức kinh doanh do mình quản lý lập dự án kế hoạch
tài vụ;
Cán bộ phụ trách các xí nghiệp
và tổ chức kinh doanh, căn cứ vào con số kiểm tra và hướng dẫn của cấp trên mà
lập dự án kế hoạch tài vụ cho xí nghiệp mình. Thủ trưởng của Bộ và cơ quan trực
thuộc Hội đồng Chính phủ lập dự án kế hoạch tài vụ và dự toán kinh phí của cơ
quan mình.
Sau khi lập xong dự án kế hoạch
tài vụ, cán bộ phụ trách các xí nghiệp và tổ chức kinh doanh gửi lên cơ quan cấp
trên trực tiếp. Cơ quan này xét và gửi lên Bộ hay cơ quan trực thuộc Hội đồng
Chính phủ. Thủ trưởng các Bộ, các cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ xét các
dự án kế hoạch tài vụ và các dự toán kinh phí của các cơ quan trực thuộc, lập
thành dự án kế hoạch tài vụ tổng hợp và dự toán kinh phí chung cho cơ quan có
chi ra thành từng quý gửi lên Hội đồng Chính phủ để xét; và gửi một bản cho Bộ
Tài chính để nghiên cứu lập dự án ngân sách trung ương, một bản cho Ủy ban Kế
hoạch Nhà nước để kiểm tra sự cân đối và ăn khớp giữa kế hoạch kinh tế quốc dân
và kế hoạch tài vụ.
Điều 14. - Căn
cứ vào chỉ thị của Hội đồng Chính phủ và thông tư của Bộ Tài chính về việc lập
dự án ngân sách Nhà nước, căn cứ vào dự án kế hoạch kinh tế quốc dân của Nhà nước
và dự án kế hoạch kinh tế quốc dân của địa phương, Ủy ban hành chính địa phương
hướng dẫn các ngành, các cơ quan địa phương lập dự án kế hoạch tài vụ và dự
toán kinh phí, Ủy ban hành chính địa phương xét dự án kế hoạch tài vụ và dự
toán kinh phí của các ngành, các cơ quan lập dự án ngân sách của địa phương, gửi
lên Hội đồng Chính phủ để xét, và gửi cho Bộ Tài chính để nghiên cứu và tổng hợp,
cho Ủy ban Kế hoạch Nhà nước để kiểm tra.
Điều 15. - Giúp
cho Ủy ban hành chính địa phương lập dự án ngân sách địa phương là cơ quan Tài
chính đồng cấp. Trong quá trình làm dự án ngân sách địa phương, cơ quan Tài
chính căn cứ theo những nguyên tắc về lập ngân sách như đã quy định ở những điều
trên mà thẩm tra các dự án kế hoạch tài vụ và dự toán kinh phí của xí nghiệp, tổ
chức và cơ quan của địa phương, lập dự án ngân sách địa phương trình Ủy ban
hành chính xét. Những ý kiến bất đồng giữa ngành chuyên môn với cơ quan Tài
chính sẽ do Ủy ban hành chính xét định.
Lập và xét ngân sách địa phương,
phải bảo đảm thu chi thăng bằng trên cơ sở chế độ phân cấp quản lý tài chính hiện
hành. Trường hợp phải dự trù những khoản chi có tính chất đột xuất, Ủy ban hành
chính địa phương phải cố gắng tăng thu giảm chi để bảo đảm các khoản chi đó; chỉ
trong trường hợp không tự giải quyết được thì mới đề nghị trung ương trợ cấp;
ngân sách trung ương trợ cấp trong phạm vi khả năng của mình.
Điều 16. - Bộ
Tài chính có nhhiệm vụ nghiên cứu và tổng hợp các dự án kế hoạch tài vụ và dự
toán kinh phí của các Bộ và cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, nghiên cứu
và tổng hợp các dự án ngân sách địa phương, để lập dự án ngân sách Nhà nước bao
gồm dự án ngân sách trung ương và dự án ngân sách địa phương.
Khi lập dự án ngân sách Nhà nước,
Bộ Tài chính phải:
- Đảm bảo sự cân đối giữa các chỉ
tiêu tài chính và các nhiệm vụ đã quy định trong dự án kế hoạch kinh tế quốc
dân.
- Phát hiện và tính toán đầy đủ
các nguồn thu trong nền kinh tế quốc dân; tính toán hợp lý và tiết kiệm các khoản
chi; xác định đúng đắn các khoản nộp vào ngân sách và các khoản chi do ngân
sách cấp phát;
- Kiểm tra tình hình quản lý tài
vụ, kinh doanh và tình hình thực hiện các nhiệm vụ của kế hoạch của các Bộ, các
xí nghiệp, các tổ chức và cơ quan;
- Đảm bảo sự chấp hành nghiêm chỉnh
các chế độ, chính sách hiện hành về giá cả, tiền lương tiêu chuẩn chi phí vật
tư, tiền tệ, và các tiêu chuẩn định mức khác.
Điều 17. - Sau
khi lập xong dự án ngân sách Nhà nước, Bộ Tài chính làm báo cáo trình Hội đồng
Chính phủ xét duyệt, đồng thời gửi một bản cho Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.
Kèm theo dự án ngân sách Nhà nước,
phải gửi: dự án ngân sách trung ương; các dự án kế hoạch tài vụ tổng hợp của
các Bộ và cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ; các dự án ngân sách địa
phương.
Khi đệ trình dự án ngân sách Nhà
nước lên Hội đồng Chính phủ, Bộ Tài chính phải gửi cho các Bộ và cơ quan trực
thuộc Hội đồng Chính phủ bản nhận xét về dự án kế hoạch tài vụ tổng hợp và dự
án dự toán kinh phí, mà Bộ Tài chính đã đệ trình lên Hội đồng Chính phủ, và gửi
cho Ủy ban hành chính địa phương bản nhận xét của Bộ Tài chính về dự án ngân
sách của địa phương.
Trường hợp có Bộ, cơ quan trực
thuộc Hội đồng Chính phủ hay Ủy ban hành chính địa phương không đồng ý về mức
thu, mức chi do Bộ Tài chính ghi vào dự án ngân sách Nhà nước, thì Bộ, cơ quan
trực thuộc Hội đồng Chính phủ hoặc Ủy ban hành chính địa phương đó báo cáo lên
Hội đồng Chính phủ xét; đồng thời gửi một bản sao báo cáo này cho Bộ Tài chính.
Điều 18. – Ủy
ban Kế hoạch Nhà nước có nhiệm vụ kiểm tra dự án kế hoạch tài vụ tổng hợp của
các Bộ và cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, kiểm tra dự án ngân sách địa
phương, kiểm tra dự án ngân sách Nhà nước do Bộ Tài chính lập và trình Hội đồng
Chính phủ, về các mặt cân đối giữa chỉ tiêu kế hoạch và chỉ tiêu ngân sách, về
tính chất chính xác của các khoản dự trù, về mặt bảo đảm vốn cho việc thực hiện
kế hoạch kinh tế quốc dân.
Điều 19. - Hội
đồng Chính phủ xét dự án ngân sách Nhà nước căn cứ vào báo cáo của Bộ Tài
chính, vào nhận xét của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, đồng thời nghiên cứu ý kiến của
các Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ và Ủy ban hành chính địa phương,
điều chỉnh những khoản thu chi nếu thấy cần thiết, và thông qua ngân sách Nhà
nước trình Quốc hội phê chuẩn.
Điều 20. - Ngay
sau khi Hội đồng Chính phủ đã thông qua dự án ngân sách Nhà nước, Bộ Tài chính
phải gửi cho các Bộ và cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ các dự án kế hoạch
tài vụ tổng hợp và dự toán kinh phí của Bộ hoặc cơ quan đó đã được ghi vào ngân
sách Nhà nước; gửi cho Ủy ban hành chính địa phương các tài liệu về số thu chi
của ngân sách địa phương.
Điều 21. - Sau
khi ngân sách Nhà nước đã được Quốc hội phê chuẩn, Bộ Tài chính phải:
- Thông báo cho các Bộ và cơ
quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ kế hoạch tài vụ tổng hợp và dự toán kinh phí
của Bộ hoặc cơ quan đó đã được ghi vào ngân sách Nhà nước.
- Thông báo cho Ủy ban hành
chính địa phương tổng số thu chi ngân sách địa phương được ghi vào ngân sách
Nhà nước.
Điều 22. - Các
Bộ và cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ có nhiệm vụ phổ biến kế hoạch tài vụ
và dự toán kinh phí cho cán bộ phụ trách các bộ máy quản lý trực thuộc và từ đó
phổ biến đến các xí nghiệp, công trường, tổ chức và cơ quan.
Cán bộ phụ trách các xí nghiệp,
căn cứ vào nhiệm vụ đã được quy định, động viên cán bộ, công nhân, nhân viên
tham gia xây dựng kế hoạch sản xuất, kỹ thuật, tài vụ của xí nghiệp, nhằm phát
huy mọi khả năng của xí nghiệp để hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ
tiêu của kế hoạch, sử dụng tiết kiệm vốn, tăng thêm vốn cho ngân sách, ra sức củng
cố và nâng cao chế độ hạch toán kinh tế. Kế hoạch sản xuất, kỹ thuật, tài vụ phải
gửi lên cấp trên phê chuẩn. Khi phê chuẩn, phải phát hiện các nhân tố tích cực
nhằm đảm bảo thực hiện vượt mức kế hoạch.
Cán bộ phụ trách các công trường,
căn cứ vào nhiệm vụ kiến thiết cơ bản đã được quy định, động viên cán bộ, công
nhân, nhân viên tham gia lập kế hoạch xây dựng và kế hoạch thu chi tài vụ nhằm
đẩy mạnh tốc độ thi công, hoàn thành đúng hạn khối lượng công trình, giảm giá
thành xây dựng, tiết kiệm vốn, thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh tế.
Cán bộ phụ trách các cơ quan các
tổ chức của Nhà nước, căn cứ vào nhiệm vụ công tác đã được quy định, động viên
cán bộ, công nhân, nhân viên tham gia lập kế hoạch thu chi nhằm tiết kiệm vốn,
hoàn thành tốt nhất các nhiệm vụ công tác.
Ủy ban hành chính địa phương có
nhiệm vụ trình dự án ngân sách địa phương cho Hội đồng nhân dân xét và phê chuẩn
như điều 82 của Hiến pháp đã quy định.
Chương 3:
CHẤP HÀNH NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC
Điều 23. - Hội
đồng Chính phủ chấp hành ngân sách Nhà nước thông qua các Bộ, các cơ quan trực
thuộc Hội đồng Chính phủ và các Ủy ban hành chính địa phương.
Chấp hành ngân sách Nhà nước bao
gồm việc chấp hành ngân sách trung ương, chấp hành ngân sách địa phương, chấp
hành kế hoạch tài vụ và dự toán kinh phí của các Bộ, các cơ quan, các xí nghiệp
và tổ chức thuộc các ngành, các cấp.
Các Bộ, các cơ quan trực thuộc Hội
đồng Chính phủ, các Ủy ban hành chính địa phương, chấp hành ngân sách Nhà nước
trong phạm vi nhiệm vụ và chức trách của mình, nhằm:
- Đảm bảo thu đầy đủ và kịp thời
tất cả số thu đã ghi vào ngân sách, cố gắng thu vượt mức và đúng chính sách,
đúng chế độ của Nhà nước.
- Đảm bảo cung cấp kịp thời số vốn
cần thiết theo những khoản chi đã được ghi trong ngân sách, đảm bảo chi tiêu,
theo đúng những mục tiêu phải thực hiện.
- Đảm bảo thực hiện chế độ tiết
kiệm, chống lãng phí tham ô, để hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch kinh
tế quốc dân.
Điều 24. - Các
Bộ, các cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ có nhiệm vụ:
- Chấp hành kế hoạch tài vụ và dự
toán kinh phí của các xí nghiệp, các tổ chức và cơ quan trực thuộc, đảm bảo
hoàn thành và hoàn thành vượt mức nhiệm vụ thu đã quy định, đồng thời đảm bảo sử
dụng hết sức tiết kiệm các khoản chi của ngân sách. Các Bộ, các cơ quan trực
thuộc Hội đồng Chính phủ phải thường xuyên kiểm tra tình hình tài chính và kinh
doanh của các xí nghiệp, tổ chức và cơ quan; phải xây dựng kế hoạch thu chi quý
tích cực hơn kế hoạch cả năm và gửi các kế hoạch đó cho Bộ Tài chính; phải kết
hợp chặt chẽ việc quản lý tài vụ với quản lý kế hoạch kinh tế quốc dân quản lý
sự nghiệp và mọi mặt công tác của ngành mình phụ trách.
- Điều chỉnh kịp thời các dự án
kế hoạch tài vụ và dự toán kinh phí chính thức của các xí nghiệp, các tổ chức
và cơ quan trực thuộc, sau khi ngân sách Nhà nước đã được chính thức phê chuẩn
và ban hành.
- Đề ra những biện pháp cần thiết
nhằm đảm bảo cho mỗi xí nghiệp, tổ chức, cơ quan trực thuộc đều hoàn thành tốt
kế hoạch tài vụ, dự toán kinh phí và chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật tài chính
và kỷ luật quản lý tiền mặt. Trong trường hợp cần thiết có thể gửi kiến nghị
lên Hội đồng Chính phủ về các biện pháp nhằm thực hiện tốt kế hoạch tài vụ và dự
toán kinh phí của Bộ hay cơ quan mình.
Điều 25. - Ủy
ban hành chính địa phương có nhiệm vụ tổ chức và chỉ đạo việc chấp hành ngân
sách Nhà nước ở địa phương:
- Đảm bảo hoàn thành và hoàn
thành vượt mức kế hoạch thu của ngân sách địa phương và của ngân sách trung
ương.
- Đề ra những biện pháp để các cấp
chính quyền và các cơ quan trực thuộc hoàn thành và hoàn thành vượt mức nhiệm vụ
thu, sử dụng hợp lý và tiết kiệm các khoản chi của ngân sách.
- Lập và chấp hành kế hoạch thu
chi quý của ngân sách địa phương và báo cáo lên Bộ Tài chính.
Điều 26. - Tất
cả các xí nghiệp, tổ chức và cơ quan đều có nhiệm vụ:
- Chấp hành nghiêm chỉnh, đúng đắn
kế hoạch tài vụ và dự toán kinh phí.
- Nộp đủ và kịp thời vào ngân
sách Nhà nước những khoản tiền do luật lệ hiện hành quy định, không được giữ lại
các khoản đó để chi tiêu, trừ trường hợp cụ thể do Nhà nước đã quy định.
- Chấp hành nghiêm chỉnh các
phương hướng và mục đích chi tiêu của kế hoạch tài vụ và dự toán kinh phí.
- Thi hành triệt để chế độ tiết
kiệm trong việc sử dụng mọi của cải vật chất và tiền tệ.
Điều 27. -
Mọi việc chấp hành không đầy đủ và kịp thời nhiệm vụ nộp tiền cho Nhà nước
của tất cả các cơ quan, tổ chức, xí nghiệp, các ngành các cấp đều là vi phạm kỷ
luật tài chính.
Cơ quan Tài chính có trách nhiệm
đôn đốc các cơ quan, tổ chức, xí nghiệp nộp tiền đúng hạn cho Nhà nước; nếu nộp
chậm, cơ quan Tài chính có quyền phạt theo quy định của Nhà nước, cơ quan Tài
chính có quyền yêu cầu các cơ quan Ngân hàng Nhà nước trích tài khoản của cơ
quan, tổ chức, xí nghiệp gửi lại Ngân hàng, để nộp cho ngân sách các khoản tiền
không nộp đúng hạn; các cơ quan Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm thi hành quyết
định của cơ quan Tài chính.
Điều 28. - Tiền
của ngân sách Nhà nước cấp phát cho những xí nghiệp, tổ chức kinh doanh của Nhà
nước phải được sử dụng theo đúng với mục đích của kế hoạch tài vụ.
Tiền của ngân sách Nhà nước cấp
phát cho các Bộ, cơ quan thuộc loại do ngân sách cấp kinh phí, phải được sử dụng
theo đúng với hướng chi tiêu đã định trong bản dự toán kinh phí đã được duyệt.
Mọi việc chi tiêu tiền được cấp
phát vào những mục đích ngoài quy định của ngân sách đều là vi phạm kỷ thuật
tài chính.
Không có kinh phí, không được
chi; nếu muốn chi thêm, ngoài dự trù ngân sách được phê chuẩn, thì phải xin Hội
đồng Chính phủ cấp thêm kinh phí.
Điều 29. - Bộ
Tài chính có nhiệm vụ:
- Lập kế hoạch thu chi hàng quý
trình Hội đồng Chính phủ. Kế hoạch thu chi hàng quý phải thăng bằng, phù hợp với
tình hình và nhu cầu chấp hành kế hoạch kinh tế quốc dân hàng quý, giữ vững
thăng bằng giữa tài chính, vật tư và tiền tệ; kế hoạch thu chi quý phải tích cực
hơn ngân sách cả năm; hết sức khai thác mọi khả năng tiềm tàng để tăng thu, triệt
để thực hành chế độ tiết kiệm.
- Thường xuyên kiểm tra việc thu
nộp vào ngân sách, tổ chức việc cấp phát vốn kịp thời và không gián đoạn, kiểm
tra việc thực hiện chế độ tiết kiệm, việc chấp hành kế hoạch sản xuất và tài vụ
của các xí nghiệp, cơ quan.
- Đề ra những biện pháp nhằm đảm
bảo thực hiện tốt ngân sách Nhà nước và trong trường hợp cần thiết, đề ra những
kiến nghị tăng thu, tiết kiệm chi thích hợp trình Hội đồng Chính phủ xét định.
- Xét những đề nghị có liên quan
đến việc chấp hành ngân sách Nhà nước của các Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng
Chính phủ, các Ủy ban hành chính địa phương, và nếu cần, trình lên Hội đồng
Chính phủ xét định.
- Hướng dẫn Ủy ban hành chính địa
phương chấp hành ngân sách địa phương.
Điều 30. - Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam, căn cứ vào kế hoạch tài chính Nhà nước và theo quy định
của Bộ Tài chính mà tổ chức và kiểm tra việc thu nộp tài chính Nhà nước, tiến
hành việc phát tiền, và tham gia giám đốc việc sử dụng tài chính Nhà nước đối với
các cơ quan, các xí nghiệp.
Để tăng cường việc quản lý tiền
mặt, nguyên tắc cấp phát vốn ngân sách là “cấp phát hạn mức” theo thể thức do Bộ
Tài chính và Ngân hàng Nhà nước quy định.
Trong khi chấp hành ngân sách
Nhà nước, các Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, các xí nghiệp, tổ chức,
trung ương cũng như địa phương phải triệt để tuân theo những nguyên tắc và biện
pháp của Nhà nước về quản lý tiền mặt. Không tôn trọng những nguyên tắc và biện
pháp về quản lý tiền mặt là vi phạm kỷ luật tài chính của Nhà nước.
Điều 31. – Các
cơ quan Tài chính và Ngân hàng Nhà nước khi xác định vốn và cấp vốn cho các Bộ,
cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, các tổ chức, xí nghiệp, cơ quan phải kiểm
tra chặt chẽ để đảm bảo:
- Số dự trù chỉ ăn khớp với mục
tiêu phải thực hiện đã ghi trong kế hoạch tài vụ và dự toán kinh phí;
- Số tiền cấp phát lần trước đã
được sử dụng đúng với mục tiêu phải thực hiện;
- Kế hoạch tài vụ và dự toán
kinh phí, được chấp hành tốt.
Các cơ quan Tài chính và Ngân
hàng Nhà nước có quyền hạn chế hoặc tạm đình chỉ cấp vốn của ngân sách, và báo
cáo lên cấp trên giải quyết nếu xét thấy có tình trạng sử dụng tiền cấp phát
không đúng với mục tiêu phải thực hiện đã quy định hoặc có tình trạng vi phạm kỷ
luật tài chính.
Điều 32. - Khi
năm ngân sách đã kết thúc, tất cả các khoản thu thuộc về năm trước, nếu thu từ
ngày 1-1 năm mới trở về sau, đều phải ghi vào ngân sách mới. Các tồn khoản của
ngân sách ở Ngân hàng Nhà nước đều phải kết toán, sang năm mới không được sử dụng
tiền cấp phát của năm trước còn lại, trừ những trường hợp được Nhà nước quy định.
Mọi khoản tiền chi ở kho bạc Nhà nước kể từ ngày 1-1 năm mới, đều phải tính vào
ngân sách năm mới.
Cách thức kết toán ngân sách
hàng năm do Bộ Tài chính quy định sau khi thỏa thuận với Ngân hàng Nhà nước;
yêu cầu của quy định này là đảm bảo kết toán gọn gàng và công việc chi tiêu
không bị gián đoạn.
Điều 33. - Trong
năm ngân sách, nếu Hội đồng Chính phủ có quyết định điều chỉnh ngân sách Nhà nước
thì các Bộ, các cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ và Bộ Tài chính phải điều
chỉnh kế hoạch tài vụ và dự toán kinh phí theo đúng quyết định của Hội đồng
Chính phủ.
Điều 34. -
Tuyệt đối ngăn cấm các Bộ, các cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, các
ngành, các cấp tự ý tăng chi về vốn lưu động, về vốn kiến thiết cơ bản, về quỹ
tiền lương và kinh phí quản lý hành chính đã ghi trong ngân sách Nhà nước.
Những kinh phí khác thì được
phép điều chỉnh trong phạm vi và điều kiện được Hội đồng Chính phủ quy định.
Điều 35. -
Các Ủy ban hành chính địa phương có quyền điều chỉnh các khoản chi thuộc ngân
sách địa phương, nhưng phải đảm bảo theo đúng phương hướng và nhiệm vụ của kế
hoạch Nhà nước, và phải được Hội đồng nhân dân phê chuẩn.
Điều 36. – Trong
quá trình chấp hành ngân sách địa phương, nếu thu bị giảm so với dự toán thì Ủy
ban hành chính địa phương phải có kế hoạch giảm chi một cách thích đáng.
Trong năm kế hoạch, nếu tăng được
thu, tiết kiệm được chi, thì địa phương có quyền sử dụng số thu trội vào những
công việc lợi ích chung ở địa phương, nhưng không được vượt quá con số khống chế
của trung ương về biên chế và tiền lương, hoặc ảnh hưởng đến sự cân đối chung của
kế hoạch Nhà nước.
Nếu do tăng thu, tiết kiệm chi
mà cuối năm có kết dư thì Ủy ban hành chính địa phương có thể sử dụng số kết dư
này trong năm sau.
Điều 37. -
Chế độ thống kê kế toán và báo cáo tình hình chấp hành ngân sách Nhà nước do Bộ
Tài chính quy định sau khi thỏa thuận với Tổng cục Thống kê trung ương.
Công tác thống kê, kế toán ngân
sách Nhà nước do Bộ Tài chính và cơ quan Tài chính, cơ quan Ngân hàng Nhà nước
các cấp, các ngành, các xí nghiệp, công trường và các cơ quan chủ quản ở địa
phương đảm nhiệm.
Điều 38. - Các
Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, các Ủy ban hành chính địa phương,
các cơ quan, tổ chức, xí nghiệp có nhiệm vụ thực hiện thu chi ngân sách Nhà nước,
phải báo cáo tình hình chấp hành kế hoạch thu chi, và báo cáo quyết toán cho
Nhà nước. Báo cáo phải chính xác, trung thực, thu chi phải đúng với tình hình
ghi trong sổ sách kế toán, và theo biểu mẫu thống nhất do Bộ Tài chính quy định;
báo cáo quyết toán phải kèm theo bản phân tích tình hình chấp hành kế hoạch tài
vụ và dự toán kinh phí, phân tích sâu sắc các mặt hoạt động kinh tế nhằm rút
kinh nghiệm để tăng cường công tác quản lý tài chính, kiểm tra tình hình chấp
hành kế hoạch tài vụ và dự toán kinh phí, kiểm tra sự tôn trọng chế độ và kỷ luật
tài chính của Nhà nước, kiểm tra mức độ hoàn thành kế hoạch kinh tế quốc dân và
tình hình thực hiện nhiệm vụ chung của Nhà nước.
Điều 39. - Các
Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ có nhiệm vụ hàng tháng, hàng quý, báo
cáo tình hình thực hiện kế hoạch tài vụ và dự toán kinh phí; hàng năm lập quyết
toán năm và gửi cho Bộ Tài chính đúng theo thể thức và thời hạn. Nếu không tôn
trọng thời hạn quy định, thì Bộ Tài chính có quyền tạm đình chỉ cấp phát cho đến
khi nhận được báo cáo.
Điều 40. - Báo
cáo quyết toán lập theo trình tự dưới đây:
Xí nghiệp, tổ chức kinh doanh,
đơn vị sự nghiệp hay hành chính lập báo cáo quyết toán gửi lên Cục (hay cơ quan
quản lý trực tiếp) xét duyệt;
Cục (hay cơ quan quản lý trực tiếp)
xét duyệt và báo cáo lên Bộ và cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ.
- Bộ (hay cơ quan trực thuộc Hội
đồng Chính phủ) lập quyết toán của mình gửi Hội đồng Chính phủ xét duyệt, đồng
gửi cho Bộ Tài chính.
Điều 41. – Ủy
ban hành chính địa phương có nhiệm vụ lập và trình tổng quyết toán cả năm của
ngân sách địa phương cho Hội đồng nhân dân phê chuẩn, và sau đó gửi lên Hội đồng
Chính phủ xét duyệt, đồng gửi một bản cho Bộ Tài chính.
Các cơ quan Tài chính địa phương
có nhiệm vụ lập và trình báo cáo tình hình chấp hành ngân sách hàng tháng, hàng
quý, hàng năm, và bản phân tích tình hình chấp hành ngân sách địa phương lên Ủy
ban hành chính địa phương xét duyệt.
Điều 42. - Bộ
Tài chính có nhiệm vụ xét các báo cáo hàng tháng, hàng quý của các Bộ, cơ quan
trực thuộc Hội đồng Chính phủ và của các địa phương, tổng hợp làm báo cáo tình
hình chấp hành ngân sách Nhà nước hàng tháng, hàng quý cho Hội đồng Chính phủ;
hàng năm Bộ Tài chính có nhiệm vụ xét quyết toán của các Bộ, cơ quan trực thuộc
Hội đồng Chính phủ và tổng quyết toán ngân sách địa phương, tổng hợp lập tổng
quyết toán ngân sách Nhà nước, trình Hội đồng Chính phủ chậm nhất trong tháng 6
năm sau.
Điều 43. - Hội
đồng Chính phủ xét, thông qua tổng quyết toán ngân sách Nhà nước và trình Quốc
hội phê chuẩn.
Chương 4:
ĐIỀU KHOẢN CHUNG
Điều 44. - Để
việc lập và chấp hành ngân sách Nhà nước được tốt, Bộ trưởng Bộ Tài chính có
nhiệm vụ thường xuyên giám đốc và kiểm tra việc tôn trọng kỷ luật thu chi tài
chính, kiểm tra việc sử dụng vốn của Nhà nước trong các xí nghiệp, các tổ chức,
các cơ quan quản lý Nhà nước.
Thủ trưởng các Bộ, cơ quan trực
thuộc Hội đồng Chính phủ và Ủy ban hành chính địa phương có nhiệm vụ thường
xuyên kiểm tra, giám đốc tài chính đối với các xí nghiệp, tổ chức và cơ quan trực
thuộc; thủ trưởng các ngành, các cấp, các xí nghiệp có nhiệm vụ giúp đỡ Bộ Tài
chính làm công tác kiểm tra cho tốt.
Thủ trưởng các đơn vị xí nghiệp,
sự nghiệp, cơ quan có nhiệm vụ chấp hành đầy đủ và nghiêm chỉnh các điều quy định
trong điều lệ này, đảm bảo việc chấp hành kế hoạch thu chi tài vụ và dự toán
kinh phí trong đơn vị được tốt. Mọi vi phạm kỷ luật tài chính, vi phạm các điều
quy định trong bản điều lệ này, tùy theo lỗi nặng nhẹ, sẽ bị thi hành kỷ luật một
cách thích đáng, và có thể bị truy tố trước pháp luật.