TOÀ
ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO-VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO-BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU
LỊCH-BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ-BỘ TƯ PHÁP
-----
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------
|
Số:
02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTT&DL-BKH&CN-BTP
|
Hà
Nội, ngày 03 tháng 4 năm 2008
|
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN
Để áp dụng đúng và thống nhất các quy định của pháp luật
trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ tại Toà
án nhân dân; Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Văn
hoá, Thể thao và Du lịch, Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Tư pháp thống nhất hướng
dẫn một số điểm như sau:
A. VỀ NHỮNG
VẤN ĐỀ CHUNG
I. CÁC TRANH CHẤP
VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THUỘC THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN (QUY ĐỊNH
TẠI KHOẢN 4 ĐIỀU 25 VÀ KHOẢN 2 ĐIỀU 29 BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ)
1. Các tranh chấp
về quyền tác giả
a) Tranh chấp giữa cá nhân với
cá nhân về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, tác phẩm
phái sinh;
b) Tranh chấp giữa các đồng tác
giả về phân chia quyền đồng tác giả;
c) Tranh chấp giữa cá nhân và tổ
chức về chủ sở hữu quyền tác giả tác phẩm;
d) Tranh chấp giữa chủ sở hữu
quyền tác giả với tác giả về tiền nhuận bút, tiền thù lao cho tác giả sáng tạo
tác phẩm trên cơ sở nhiệm vụ được giao hoặc hợp đồng;
đ) Tranh chấp về thực hiện quyền
nhân thân hoặc quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả;
e) Tranh chấp về quyền tác giả đối
với chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu giữa người cung cấp tài chính và các
Điều kiện vật chất có tính chất quyết định cho việc xây dựng, phát triển chương
trình máy tính, sưu tập dữ liệu với người thiết kế, xây dựng chương trình máy
tính, sưu tập dữ liệu;
g) Tranh chấp về quyền tác giả đối
với tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu giữa người đầu tư tài chính và cơ sở vật
chất - kỹ thuật để sản xuất tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu với người tham
gia sáng tạo và người sản xuất ra tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu hoặc
tranh chấp giữa họ với nhau về tiền nhuận bút, thù lao và các quyền lợi vật chất
khác;
h) Tranh chấp giữa chủ sở hữu
quyền tác giả với người sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không
phải trả tiền nhuận bút, thù lao, vì lý do việc sử dụng làm ảnh hưởng đến việc
khai thác bình thường tác phẩm, gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở
hữu tác phẩm;
i) Tranh chấp giữa chủ sở hữu
quyền tác giả với người sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng
phải trả tiền nhuận bút, thù lao vì lý do người sử dụng không trả tiền nhuận
bút, thù lao hoặc làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, gây
phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả;
k) Tranh chấp về hợp đồng chuyển
nhượng, chuyển quyền sử dụng quyền tác giả hoặc tranh chấp về hợp đồng dịch vụ
bản quyền tác giả;
l) Tranh chấp phát sinh do hành
vi xâm phạm quyền tác giả;
m) Tranh chấp về thừa kế, kế thừa
quyền tài sản quy định tại Điều 20 và quyền nhân thân theo
quy định tại khoản 3 Điều 19 của Luật Sở hữu trí tuệ.
n) Tranh chấp khác về quyền tác
giả theo quy định của pháp luật.
2. Các tranh chấp
về quyền liên quan
a) Tranh chấp giữa chủ đầu tư với
người biểu diễn về quyền nhân thân và quyền tài sản đối với cuộc biểu diễn;
tranh chấp giữa người biểu diễn với người khai thác sử dụng các quyền tài sản đối
với cuộc biểu diễn về tiền thù lao;
b) Tranh chấp giữa nhà sản xuất
bản ghi âm, ghi hình với người thực hiện các quyền của nhà sản xuất bản ghi âm,
ghi hình về quyền lợi vật chất khi bản ghi âm, ghi hình của nhà sản xuất được
phân phối đến công chúng;
c) Tranh chấp giữa tổ chức phát
sóng với người sử dụng các quyền của tổ chức phát sóng về quyền lợi vật chất
khi chương trình phát sóng của tổ chức đó được ghi âm, ghi hình, phân phối đến
công chúng;
d) Tranh chấp giữa người biểu diễn,
nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng với người sử dụng quyền
liên quan không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao vì lý do
việc sử dụng làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường cuộc biểu diễn, bản
ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng và gây phương hại đến quyền của người
biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng;
đ) Tranh chấp giữa tác giả, chủ
sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức
phát sóng với người sử dụng quyền liên quan không phải xin phép nhưng phải trả
tiền nhuận bút, thù lao, vì lý do người sử dụng không phải trả tiền nhuận bút,
thù lao hoặc làm ảnh hưởng đến việc khai thác hình thường cuộc biểu diễn, bản
ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng và gây phương hại đến quyền của người
biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng;
e) Tranh chấp về quyền liên quan
đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng (tranh chấp
ai là chủ sở hữu đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình
phát sóng đó...);
g) Tranh chấp phát sinh do hành
vi xâm phạm quyền liên quan;
h) Tranh chấp về thừa kế, kế thừa
quyền liên quan;
i) Tranh chấp khác về quyền liên
quan theo quy định của pháp luật.
3. Các tranh chấp về quyền sở hữu
công nghiệp
a) Tranh chấp về quyền đăng ký
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý;
b) Tranh chấp về quyền ưu tiên đối
với đơn đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu;
c) Tranh chấp về quyền tác giả
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí;
d) Tranh chấp về quyền nhân
thân, quyền tài sản của tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố
trí;
đ) Tranh chấp về quyền tạm thời
đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí giữa người có quyền nộp
đơn đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí với người đang sử
dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp đó hoặc tranh chấp về khoản tiền đền bù
giữa chủ văn bằng bảo hộ với người đã sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,
thiết kế bố trí;
e) Tranh chấp về quyền sử dụng
trước sáng chế, kiểu dáng công nghiệp giữa chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp với người sử dụng trước sáng chế, kiểu dáng công nghiệp liên quan đến việc
chuyển giao quyền đó cho người khác, mở rộng phạm vi, khối lượng sử dụng mà
không được phép của chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp;
g) Tranh chấp về khoản tiền đền
bù giữa chủ văn bằng bảo hộ sáng chế, kiểu dáng công nghiệp; thiết kế bố trí với
người sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp; thiết kế bố trí trong khoảng thời
gian từ ngày công bố đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ trên Công báo sở hữu công
nghiệp đến ngày cấp văn bằng bảo hộ;
h) Tranh chấp về quyền của chủ sở
hữu đối tượng sở hữu công nghiệp (bao gồm cả tranh chấp về phần quyền của các đồng
chủ sở hữu);
i) Tranh chấp phát sinh từ các
hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp;
k) Tranh chấp phát sinh từ các
hành vi xâm phạm quyền của tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp; thiết kế bố
trí;
l) Tranh chấp về trả thù lao cho
tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí;
m) Tranh chấp về hợp đồng chuyển
nhượng quyền sở hữu công nghiệp; hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu
công nghiệp hoặc tranh chấp về hợp đồng dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp;
n) Tranh chấp về thừa kế, kế thừa
quyền sở hữu công nghiệp, quyền
tài sản của tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp; thiết kế bố trí;
o) Tranh chấp phát sinh từ các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh;
p) Các tranh chấp khác về quyền
sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật.
II. QUYỀN KHỞI
KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
1. Quyền khởi
kiện vụ án dân sự về quyền tác giả, quyền liên quan
a) Cá nhân, tổ chức quy định tại
Điều 44 của Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21-9-2006 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Bộ luật dân sự,
Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan (sau đây viết tắt là Nghị
định số 100/2006/NĐ-CP) có quyền khởi kiện vụ án dân sự về quyền tác giả, quyền
liên quan tại Toà án nhân dân có thẩm quyền để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình.
b) Cơ quan nhà nước, tổ chức
liên quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án
dân sự để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực quyền
tác giả, quyền liên quan theo quy định tại khoản 3 Điều 162 của
Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn tại tiểu mục 2.1 mục 2
Phần I của Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 của Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai
“Thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự.
2. Quyền khởi
kiện vụ án dân sự về quyền sở hữu công nghiệp
a) Cá nhân, tổ chức tranh chấp về
quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ
dẫn địa lý;
b) Tác giả, đồng tác giả sáng chế,
kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí;
c) Chủ văn bằng bảo hộ sáng chế,
kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí;
d) Chủ sở hữu giấy chứng nhận
đăng ký nhãn hiệu, đăng ký quốc tế nhãn hiệu được chấp nhận bảo hộ tại Việt
Nam, chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng;
đ) Chủ sở hữu quyền sở hữu công
nghiệp đối với bí mật kinh doanh, tên thương mại;
e) Cá nhân, tổ chức có quyền sử
dụng hợp pháp chỉ dẫn địa lý, tổ chức tập thể đại diện cho cá nhân, tổ chức được
trao quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý;
g) Tổ chức, cá nhân có đối tượng
sở hữu công nghiệp liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực sở hữu công nghiệp;
h) Người thừa kế hợp pháp của
tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí; hoặc người thừa kế hợp
pháp, người kế thừa quyền sở hữu công nghiệp của chủ sở hữu đối tượng sở hữu
công nghiệp;
i) Cá nhân, tổ chức được chuyển
giao hợp pháp quyền sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp;
k) Cá nhân, tổ chức được chuyển
giao hợp pháp quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp;
l) Cá nhân, tổ chức được chuyển
giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp theo quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền;
m) Các chủ thể quyền khác theo
quy định của pháp luật.
III. ĐIỀU KIỆN
KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
1. Điều kiện
khởi kiện vụ án dân sự về quyền tác giả, quyền liên quan
a) Quyền tác giả, quyền liên
quan đã phát sinh theo các quy định tại các khoản 1 và 2 Điều 6
của Luật sở hữu trí tuệ.
Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả,
chủ sở hữu quyền liên quan có quyền nộp đơn để được cấp giấy chứng nhận đăng ký
quyền tác giả, giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan theo quy định tại Điều 49 của Luật sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, đây không phải là
thủ tục bắt buộc để được hưởng quyền tác giả, quyền liên quan.
Khi có tranh chấp về quyền tác
giả, quyền liên quan mà đương sự khởi kiện yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của họ, thì Toà án phải xem xét mà không phân biệt việc họ đã có giấy
chứng nhận đăng ký quyền tác giả, giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan hay
chưa, họ đã nộp đơn hay chưa nộp đơn đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan.
b) Thời hạn bảo hộ quyền tác giả,
quyền liên quan vẫn còn theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả,
chủ sở hữu quyền liên quan chỉ được thực hiện quyền nhân thân và quyền tài sản
của mình trong phạm vi và thời hạn quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Thời hạn bảo hộ quyền tác giả,
quyền liên quan được quy định tại các khoản 2 và 3 Điều 739 của
Bộ luật dân sự năm 2005, tại Điều 27 và Điều 34 của Luật sở
hữu trí tuệ và tại Điều 26 của Nghị định số 100/2006/NĐ-CP.
Hết thời hạn bảo hộ đối với quyền
tác giả, quyền liên quan theo quy định nêu trên (trừ các quyền nhân thân quy định
tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 19 của Luật sở hữu trí tuệ),
thì các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan
không còn được Nhà nước và pháp luật bảo hộ; do đó, Toà án chỉ thụ lý đơn khởi
kiện để giải quyết nếu các quyền đó vẫn còn trong thời hạn bảo hộ, trừ trường hợp
pháp luật không quy định thời hạn bảo hộ đối với quyền tác giả.
2. Điều kiện
khởi kiện vụ án dân sự về quyền sở hữu công nghiệp
2.1. Quyền sở hữu công nghiệp đã
được xác lập theo các căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 6 của Luật
sở hữu trí tuệ và Điều 6 của Nghị định số 103/2006/NĐ-CP
ngày 22-9-2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số Điều của Luật
sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp (sau đây viết tắt là Nghị định số
103/2006/NĐ-CP).
Phải xác định cụ thể tranh chấp
liên quan đến đối tượng sở hữu công nghiệp nào (sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,
thiết kế bố trí, nhãn hiệu...) để xác định căn cứ xác lập quyền sở hữu công
nghiệp đối với đối tượng đó. Vì không phải trong mọi trường hợp căn cứ xác lập
quyền sở hữu công nghiệp đối với mọi đối tượng sở hữu công nghiệp đều như nhau,
có trường hợp phải qua thủ tục đăng ký, có trường hợp không phải qua thủ tục
đăng ký. Ví dụ: Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ
sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của Cục sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công
nghệ) theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật sở hữu trí tuệ và các văn bản quy
phạm pháp luật khác có liên quan hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của
Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Riêng đối
với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu này được
xác lập trên cơ sở thực tiễn sử dụng rộng rãi nhãn hiệu đó và các tiêu chí quy
định tại Điều 75 của Luật sở hữu trí tuệ mà không cần thủ tục
đăng ký.
Trường hợp có tranh chấp về quyền
sở hữu công nghiệp đối với đối tượng sở hữu công nghiệp và cần thiết phải xác định
quyền sở hữu công nghiệp đã được xác lập hợp pháp hay chưa, thì cần phân biệt
như sau:
a) Phải căn cứ vào văn bằng bảo
hộ do Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) quyết định cấp cho người nộp
đơn đăng ký đối với sáng chế, thiết kế bố trí, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu
(trừ nhãn hiệu nổi tiếng) và chỉ dẫn địa lý. Đối với nhãn hiệu đăng ký quốc tế
theo Thoả ước Madrid và Nghị định thư Madrid, thì căn cứ vào công nhận của cơ
quan quản lý nhà nước đối với đăng ký quốc tế đó.
b) Phải căn cứ vào các Điều kiện
bảo hộ đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp là nhãn hiệu nổi tiếng, tên
thương mại, bí mật kinh doanh, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh, quy định
tại các mục 4, 5 và 7 Chương VII của Luật sở hữu trí tuệ.
2.2. Thời hạn bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp vẫn còn theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.
a) Đối với quyền sở hữu công
nghiệp đã được xác lập cho các đối tượng sở hữu công nghiệp là sáng chế, kiểu
dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý phải căn cứ vào
văn bằng bảo hộ được cấp cho từng loại đối tượng sở hữu công nghiệp để xác định
phạm vi bảo hộ ghi trong văn bằng bảo hộ đó.
Ví dụ: Để xác định phạm vi bảo hộ
sáng chế, phải căn cứ vào Bằng độc quyền sáng chế do Cục sở hữu trí tuệ (Bộ
Khoa học và Công nghệ) cấp.
b) Đối với quyền sở hữu công
nghiệp được xác lập cho các đối tượng là tên thương mại, bí mật kinh doanh, thì
phạm vi quyền được xác định theo quy định tại các khoản 2 và 3
Điều 16 của Nghị định số 103/2006/NĐ-CP.
c) Thời hạn bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp được xác định căn cứ vào thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ quy
định tại Điều 93 của Luật sở hữu trí tuệ. Trong trường hợp
hiệu lực của văn bằng bảo hộ bị chấm dứt hoặc bị huỷ bỏ hiệu lực, thì quyền sở
hữu công nghiệp cũng chấm dứt.
Nếu hết thời hạn bảo hộ hoặc văn
bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp bị chấm dứt hoặc bị huỷ bỏ hiệu lực, thì
các quyền của chủ thể quyền sở hữu công nghiệp không còn được Nhà nước và pháp
luật bảo hộ. Do đó, Toà án chỉ thụ lý đơn khởi kiện để giải quyết nếu hành vi
xâm phạm xảy ra vào thời điểm văn bằng bảo hộ còn hiệu lực hoặc đối tượng quyền
sở hữu
công nghiệp vẫn còn trong thời hạn được bảo hộ.
IV. ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT
1. áp dụng
văn bản quy phạm pháp luật trong nước
1.1. Đối với trường hợp có sự
khác nhau giữa quy định về sở hữu trí tuệ của Luật sở hữu trí tuệ với quy định
của luật khác, thì áp dụng quy định của Luật sở hữu trí tuệ.
Trước khi quyết định áp dụng quy
định của Luật sở hữu trí tuệ hoặc của văn bản quy phạm pháp luật khác, phải rà
soát, xác định cụ thể các văn bản quy phạm pháp luật có quy định về sở hữu trí
tuệ (bao gồm cả Bộ luật dân sự năm 2005); sau đó so sánh, đối chiếu các quy định
về sở hữu trí tuệ của các văn bản quy phạm pháp luật này với các quy định tương
ứng của Luật sở hữu trí tuệ để xác định sự khác nhau trong các quy định về sở hữu
trí tuệ của các văn bản quy phạm pháp luật đó.
Ví dụ 1: Khoản 3
Điều 738 của Bộ luật dân sự năm 2005 quy định quyền tài sản thuộc quyền tác
giả bao gồm:
a) Sao chép tác phẩm;
b) Cho phép tạo tác phẩm phái
sinh;
c) Phân phối, nhập khẩu bản gốc
và bản sao tác phẩm;
d) Truyền đạt tác phẩm đến công
chúng;
đ) Cho thuê bản gốc hoặc bản sao
chương trình máy tính.
Trong Luật sở hữu trí tuệ, quyền
tài sản được quy định tại Điều 20. Khoản 1
Điều 20 quy định quyền tài sản bao gồm sáu quyền. So với quy định tại khoản 1 Điều 20 của Luật sở hữu trí tuệ, thì tại khoản 3 Điều 738 của Bộ luật dân sự năm 2005 có quy định khác
về các quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng, cho thuê bản gốc hoặc bản sao
tác phẩm điện ảnh. Do đó, khi giải quyết các tranh chấp về các quyền này phải
áp dụng quy định tại các điểm b hoặc e khoản 1 Điều 20 của Luật
sở hữu trí tuệ.
Ví dụ 2: Luật Hải quan quy định
tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu, xuất khẩu có yêu cầu
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại các Điều 57, 58 và 59. Luật sở
hữu trí tuệ quy định kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến
sở hữu trí tuệ tại các Điều từ Điều 216 đến Điều 219. Do
đó, nếu xác định rõ quy định của Luật Hải quan khác với quy định của Luật sở hữu
trí tuệ về kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ,
thì áp dụng quy định của Luật sở hữu trí tuệ.
1.2. Trường hợp có những vấn đề
dân sự liên quan đến sở hữu trí tuệ không được quy định trong Luật sở hữu trí
tuệ, thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự.
Khi áp dụng pháp luật để giải
quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, phải căn cứ vào các quy định của
Luật sở hữu trí tuệ và của Bộ luật dân sự năm 2005 (Phần thứ sáu) “Quyền sở hữu
trí tuệ và chuyển giao công nghệ” (từ Điều 736 đến Điều 753)
để xác định rõ đối tượng của tranh chấp đó có được quy định trong Luật sở hữu
trí tuệ hoặc trong Bộ luật dân sự năm 2005 hay không. Nếu có căn cứ xác định rằng
đối tượng của tranh chấp không được quy định trong Luật sở hữu trí tuệ mà được
quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005, thì áp dụng quy định tương ứng của Bộ
luật dân sự năm 2005.
Ví dụ: Theo quy định tại Điều 40 của Luật sở hữu trí tuệ, thì “tổ chức, cá nhân được thừa
kế quyền tác giả theo quy định của pháp luật về thừa kế là chủ sở hữu các quyền
quy định tại Điều 20 và khoản 3 Điều 19 của
Luật này”. Do Luật sở hữu trí tuệ không quy định cụ thể về thừa kế quyền tác giả
nên khi giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền tác giả phải áp dụng quy định tại
Phần thứ tư “Thừa kế” của Bộ luật dân sự năm 2005.
2. Áp dụng Điều
ước quốc tế
Trong trường hợp Điều ước quốc tế
mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định
của Luật sở hữu trí tuệ, thì áp dụng quy định của Điều ước quốc tế đó.
2.1. Điều ước quốc tế mà Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập là thoả thuận bằng văn bản
được ký kết hoặc gia nhập nhân danh Nhà nước hoặc nhân danh Chính phủ nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với một hoặc nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế hoặc
chủ thể khác của pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào tên gọi là hiệp ước,
công ước, hiệp định, định ước, thoả thuận, nghị định thư, bản ghi nhớ, công hàm
trao đổi hoặc văn kiện có tên gọi khác (khoản 1 Điều 2 của Luật
ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế).
2.2. Điều ước quốc tế bao gồm:
a) Điều ước quốc tế đa phương
Ví dụ:
- Công ước Berne về bảo hộ các
tác phẩm văn học và nghệ thuật, năm 1971.
- Công ước Paris về bảo hộ sở hữu
công nghiệp năm 1883, được sửa đổi năm 1979.
- Thoả ước Madrid về đăng ký quốc
tế nhãn hiệu hàng hoá, năm 1891 và Nghị định thư Madrid về đăng ký quốc tế nhãn
hiệu hàng hoá...
b) Điều ước quốc tế song phương.
Ví dụ:
- Hiệp định thương mại Việt Nam
- Hoa Kỳ, năm 2001.
- Hiệp định về bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ giữa Việt Nam và Thuỵ Sỹ, năm 2000.
c) Điều ước quốc tế đa phương hoặc
song phương nêu trên có thể là Điều ước quốc tế riêng về bảo hộ sở hữu trí tuệ
hoặc Điều ước quốc tế có nhiều nội dung khác nhau trong đó có nội dung về bảo hộ
sở hữu trí tuệ.
Ví dụ:
- Công ước Berne, năm 1971 là Điều
ước quốc tế đa phương riêng về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật.
- Hiệp định thương mại Việt Nam
- Hoa Kỳ là Điều ước quốc tế có nhiều nội dung khác nhau trong đó có nội dung về
bảo hộ sở hữu trí tuệ (“Chương I: Thương mại hàng hoá, Chương II: Quyền sở hữu
trí tuệ và Chương III: Thương mại dịch vụ...”).
2.3. Điều kiện áp dụng Điều ước
quốc tế
a) Điều ước quốc tế về sở hữu
trí tuệ mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên tại thời điểm xảy
ra hành vi, sự kiện là đối tượng
tranh chấp.
b) Quy định của Điều ước quốc tế
đó về sở hữu trí tuệ khác với quy định của các văn bản quy phạm pháp luật của
Việt Nam về cùng một vấn đề.
Ví dụ: Về thời hạn bảo hộ quyền
tác giả có sự khác nhau giữa quy định tại Điều 27 của Luật sở hữu
trí tuệ và quy định tại khoản 4 Điều 4 của Hiệp định thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Do có sự khác nhau như vậy, phải áp dụng quy định
này của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ để giải quyết tranh chấp về quyền
tác giả giữa cá nhân, tổ chức Việt Nam và cá nhân, tổ chức Hoa Kỳ.
c) Đối với trường hợp văn bản
quy phạm pháp luật của Việt Nam có quy định giống với quy định của Điều ước quốc
tế về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của pháp luật Việt Nam.
d) Đối với trường hợp có những vấn
đề liên quan đến sở hữu trí tuệ không được quy định trong luật Việt Nam thì áp dụng
quy định tương ứng của Điều ước quốc tế.
đ) Đối với trường hợp tranh chấp
về quyền sở hữu trí tuệ có sự tham gia của cá nhân, tổ chức của nước ngoài mà
nước đó và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều là thành viên của Điều ước quốc
tế thì áp dụng Điều ước quốc tế có hiệu lực sau, trừ giữa nước đó và Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định hoặc thoả thuận khác.
Ví dụ: Khoản 3
Điều 1 Chương II (Quyền sở hữu trí tuệ) Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
quy định:
“Để bảo vệ và thực thi quyền sở
hữu trí tuệ một cách đầy đủ và có hiệu quả, mỗi Bên tối thiểu phải thực hiện
Chương này và các quy định có nội dung kinh tế của:
A. Công ước Geneva về bảo hộ người
sản xuất bản ghi âm chống sự sao chép trái phép, năm 1971;
B. Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm
văn học và nghệ thuật, năm 1971;
C. Công ước Paris về bảo hộ sở hữu
công nghiệp, năm 1967;
D....
E. Công ước về phân phối tín hiệu
mang chương trình truyền qua vệ tinh (1974)”.
Do đó, khi giải quyết tranh chấp
về quyền tác giả mà có sự tham gia của cá nhân, tổ chức Hoa Kỳ, thì phải áp dụng
đồng thời các Điều khoản tương ứng của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
và Công ước Berne.
V. ÁP DỤNG ĐIỀU
KHOẢN CHUYỂN TIẾP ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
1. Áp dụng
pháp luật về sở hữu trí tuệ để giải quyết tranh chấp về quyền tác giả, quyền
liên quan.
Đối với quyền tác giả, quyền
liên quan được bảo hộ theo quy định của các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu
lực trước ngày Luật sở hữu trí tuệ có hiệu lực (01-7-2006), nếu còn thời hạn bảo
hộ vào ngày 01-7-2006, thì tiếp tục được bảo hộ theo quy định của Luật sở hữu
trí tuệ. Do đó, khi giải quyết loại tranh chấp này, thì Toà án áp dụng quy định
của Luật sở hữu trí tuệ.
2. Áp dụng pháp luật về sở hữu trí tuệ để
giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp.
“Đối với quyền sở hữu công nghiệp
được xác lập theo văn bằng bảo hộ được cấp theo quy định của pháp luật có hiệu
lực trước ngày Luật sở hữu trí tuệ có hiệu lực (01-7-2006) và các thủ tục duy trì,
gia hạn, sửa đổi, chuyển giao quyền sử dụng, chuyển nhượng quyền sở hữu, giải
quyết tranh chấp liên quan đến văn bằng bảo hộ đó được áp dụng theo quy định của
Luật sở hữu trí tuệ, trừ quy định về căn cứ huỷ bỏ hiệu lực các văn bằng bảo hộ,
thì chỉ áp dụng quy định của các văn bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm cấp
văn bằng bảo hộ”.
Do đó, khi giải quyết loại tranh
chấp về quyền sở hữu công nghiệp nêu trên, thì Toà án áp dụng quy định của Luật
sở hữu trí tuệ, trừ trường hợp tranh chấp có liên quan đến việc xác định hiệu lực
của các văn bằng bảo hộ, thì phải áp dụng quy định của các văn bản pháp luật có
hiệu lực tại thời điểm cấp văn bằng bảo hộ đó về căn cứ huỷ bỏ hiệu lực của các
văn bằng bảo hộ.
VI. GIÁM ĐỊNH VỀ
SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Các tranh chấp về quyền sở hữu
trí tuệ là một trong các tranh chấp dân sự nói chung được giải quyết theo các
trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, khi có yêu
cầu giám định, Toà án phải căn cứ vào quy định tại Điều 90 của
Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn tại mục 6 Phần IV của
Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17-9-2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
về “Chứng minh và chứng cứ” và quy định tại khoản 3 Điều 201 của
Luật sở hữu trí tuệ và tại các điểm a và c khoản 2 Điều 40
của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22-9-2006 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ (sau đây viết tắt là Nghị
định số 105/2006/NĐ-CP).
B. VỀ MỘT
SỐ QUY ĐỊNH CỦA LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ
I. VỀ YÊU CẦU
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI (ĐIỀU 204 VÀ ĐIỀU 205 CỦA LUẬT SỞ HỮU
TRÍ TUỆ)
1. Thiệt hại
do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được bồi thường bao gồm thiệt hại về vật
chất và thiệt hại về tinh thần
1.1. Thiệt hại về vật chất bao gồm:
a) Các tổn thất về tài sản;
b) Mức giảm sút về thu nhập, lợi
nhuận;
c) Tổn thất về cơ hội kinh
doanh;
d) Chi phí hợp lý để ngăn chặn,
khắc phục thiệt hại.
1.2. Thiệt hại về tinh thần bao
gồm:
Các tổn thất về danh dự, nhân phẩm,
uy tín, danh tiếng và những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho tác giả của
tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, người biểu diễn; tác giả của sáng chế,
kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí.
1.3. Thiệt hại về vật chất và
tinh thần là sự tổn thất thực tế về vật chất và tinh thần do hành vi xâm phạm
trực tiếp gây ra cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ và được xác định theo các căn
cứ quy định tại khoản 2 Điều 16 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP.
Khi áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 16 của Nghị định số
105/2006/NĐ-CP, cần phân biệt một số điểm sau đây:
Chỉ được coi là có tổn thất thực
tế nếu có đầy đủ ba căn cứ sau đây:
a) Lợi ích vật chất hoặc tinh thần
là có thực và thuộc về người bị thiệt hại.
Lợi ích vật chất hoặc tinh thần
là kết quả (sản phẩm) của quyền sở hữu trí tuệ và người bị thiệt hại là người
có quyền hưởng lợi ích vật chất hoặc tinh thần đó.
b) Người bị thiệt hại có khả
năng đạt được lợi ích vật chất hoặc tinh thần.
Người bị thiệt hại có thể đạt được
(thu được) lợi ích vật chất hoặc tinh thần đó trong Điều kiện nhất định, nếu
không có hành vi xâm phạm xảy ra.
c) Có sự giảm sút hoặc mất lợi
ích của người bị thiệt hại sau khi hành vi xâm phạm xảy ra so với khả năng đạt
được lợi ích đó khi không có hành vi xâm phạm và hành vi là nguyên nhân trực tiếp
gây ra sự giảm sút, mất lợi ích đó; cụ thể là:
Trước khi xảy ra hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ, người bị thiệt hại đã có lợi ích vật chất hoặc tinh thần.
Sau khi hành vi xâm phạm xảy ra người bị thiệt hại bị giảm sút hoặc mất lợi ích
mà họ đạt được trước khi có hành vi xâm phạm và giữa hành vi xâm phạm và sự giảm
sút, mất lợi ích đó phải có mối quan hệ nhân quả. Sự giảm sút, mất lợi ích đó
là kết quả tất yếu của hành vi xâm phạm và ngược lại hành vi xâm phạm là nguyên
nhân trực tiếp gây ra sự giảm sút, mất lợi ích đó.
1.4. Tổn thất về tài sản được
xác định theo quy định tại Điều 17 của Nghị định số
105/2006/NĐ-CP.
Khi người bị thiệt hại yêu cầu bồi
thường về tổn thất về tài sản, thì phải nêu rõ giá trị tính được thành tiền của
đối tượng quyền sở hữu trí tuệ tại thời điểm bị xâm phạm và căn cứ xác định giá
trị tính được thành tiền của đối tượng quyền sở hữu trí tuệ đó.
Ví dụ: Nếu yêu cầu bồi thường tổn
thất về tài sản do nhãn hiệu bị xâm phạm, thì nêu rõ giá trị của nhãn hiệu đó tại
thời điểm bị xâm phạm và căn cứ để xác định giá trị của nhãn hiệu.
1.5. Giảm sút về thu nhập, lợi
nhuận được xác định theo quy định tại Điều 18 của Nghị định số
105/2006/NĐ-CP.
Để xác định giảm sút về thu nhập,
lợi nhuận của người bị thiệt hại, thì phải xác định được họ có thu nhập, lợi
nhuận trước khi xảy ra hành vi xâm phạm hay không.
a) Thu nhập, lợi nhuận bao gồm:
a.1) Thu nhập, lợi nhuận mà người
bị thiệt hại thu được do sử dụng, khai thác trực tiếp đối tượng quyền sở hữu
trí tuệ.
Ví dụ: Chủ sở hữu sáng chế sản
xuất sản phẩm được bảo hộ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều
124 của Luật sở hữu trí tuệ và bán sản phẩm đó thu lợi nhuận.
a.2) Thu nhập, lợi nhuận mà người
bị thiệt hại thu được do cho thuê đối tượng quyền sở hữu trí tuệ (là bản gốc hoặc
bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính).
Ví dụ: Chủ sở hữu quyền tác giả
đối với tác phẩm điện ảnh hoặc chương trình máy tính thực hiện quyền tài sản
quy định tại điểm e khoản 1 Điều 20 của Luật sở hữu trí tuệ
cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính và được
nhận tiền thù lao, các quyền lợi vật chất khác của tổ chức, cá nhân được thuê
tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính đó.
a.3) Thu nhập, lợi nhuận mà người
bị thiệt hại thu được do chuyển giao quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu trí
tuệ.
Ví dụ: Chủ sở hữu sáng chế ký hợp
đồng chuyển quyền sử dụng sáng chế cho phép cá nhân, tổ chức khác sử dụng sáng
chế và được nhận khoản tiền chuyển giao quyền sử dụng sáng chế theo thoả thuận.
b) Trên cơ sở thu nhập, lợi nhuận
đã xác định được của người bị thiệt hại, cần xác định mức giảm sút về thu nhập,
lợi nhuận của họ theo một hoặc các căn cứ quy định tại khoản 2
Điều 18 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP.
Ví dụ: Nếu thu nhập, lợi nhuận
thu được do sử dụng, khai thác trực tiếp quyền sở hữu trí tuệ, thì so sánh trực
tiếp mức thu nhập, lợi nhuận thực tế trước và sau khi xảy ra hành vi xâm phạm
đã xác định được để làm rõ mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận của người bị thiệt
hại. Nếu thu nhập, lợi nhuận của người bị thiệt hại, sau khi xảy ra hành vi xâm
phạm thấp hơn thu nhập, lợi nhuận trước khi xảy ra hành vi đó, thì khoản chênh
lệch đó là thu nhập, lợi nhuận thực tế của người bị thiệt hại bị giảm sút.
Khi xác định thu nhập, lợi nhuận
của người bị thiệt hại phải xác định rõ các yếu tố khách quan tác động đến sự
tăng hoặc giảm thu nhập, lợi nhuận của người bị thiệt hại không liên quan đến
hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ để bảo đảm xác định thu nhập, lợi nhuận
thực tế của người bị thiệt hại bị giảm sút.
Đối với trường hợp có hành vi
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nhưng khi xác định thiệt hại tại thời điểm xảy
ra hành vi xâm phạm so với thời điểm trước khi xảy ra hành vi xâm phạm, thu nhập,
lợi nhuận của bên bị xâm phạm tuy không giảm sút, nhưng so với thu nhập, lợi
nhuận thực tế đáng lẽ ra họ phải có được nếu không có hành vi xâm phạm vẫn bị
giảm đi, thì trường hợp này cũng được coi là thu nhập, lợi nhuận bị giảm sút.
Ví dụ: Năm 2004 Công ty A. đầu
tư dây chuyền công nghệ mới sản xuất thép xây dựng mang nhãn hiệu “TN”. Thị trường
xây dựng đang tiêu thụ rất nhiều loại thép này. Căn cứ vào yêu cầu đặt hàng,
thì Công ty A. có thể tiêu thụ được 200.000 tấn thép “TN” đạt doanh thu 10 tỷ đồng
(VNĐ), lợi nhuận 2 tỷ VNĐ (100%). Do Công ty B. sử dụng trái phép nhãn hiệu
“TN” của Công ty A. để gắn lên sản phẩm thép của mình và bán ra thị trường làm
cho Công ty A bị mất 20% thị phần, không tiêu thụ được 40.000 tấn thép, giảm
20% doanh thu và 20% lợi nhuận (bằng 400 triệu VNĐ). So với lợi nhuận của năm
trước (2005), thì lợi nhuận của năm 2006 không bị giảm. Nhưng do có hành vi xâm
phạm của Công ty B. mà Công ty A bị giảm 400 triệu VNĐ lợi nhuận. Đây được coi
là thiệt hại của Công ty A.
1.6. Tổn thất về cơ hội kinh doanh
được xác định theo quy định tại Điều 19 của Nghị định số
105/2006/NĐ-CP.
Cơ hội kinh doanh là hoàn cảnh
thuận lợi, khả năng thực tế để chủ thể quyền sở hữu trí tuệ sử dụng, khai thác
trực tiếp, cho người khác thuê, chuyển giao quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu
trí tuệ, chuyển nhượng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ cho người khác...để thu lợi
nhuận.
a) Cơ hội kinh doanh bao gồm:
a.1) Khả năng thực tế sử dụng,
khai thác trực tiếp đối tượng quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh. Cụ thể là
đối với chủ thể quyền, việc sử dụng, khai thác trực tiếp đối tượng quyền sở hữu
trí tuệ của mình trong kinh doanh (trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi) có
thể xuất hiện, có thể xảy ra trong Điều kiện nhất định.
a.2) Khả năng thực tế cho người
khác thuê đối tượng quyền sở hữu trí tuệ (bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh,
chương trình máy tính). Cụ thể là chủ thể quyền có thể cho cá nhân, tổ chức
thuê đối tượng quyền sở hữu trí tuệ và đã thực hiện việc đàm phán, thoả thuận với
cá nhân, tổ chức về những nội dung chủ yếu để đi đến ký kết hợp đồng thuê đối
tượng đó. Hợp đồng sẽ được ký kết và thực hiện trong Điều kiện bình thường
không có sự xâm phạm từ người thứ ba.
a.3) Khả năng thực tế chuyển
giao quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, chuyển nhượng đối tượng quyền
sở hữu trí tuệ đó cho người khác. Cụ thể là chủ thể quyền nhận được đơn đặt
hàng đã đàm phán, thoả thuận với đối tác về những nội dung chủ yếu để đi đến ký
kết hợp đồng và hợp đồng sẽ được ký kết và được thực hiện trong Điều kiện không
có sự xâm phạm từ phía người thứ ba.
a.4) Cơ hội kinh doanh khác bị mất
do hành vi xâm phạm trực tiếp gây ra. Trường hợp này có thể bao gồm việc mất cơ
hội đàm phán với đối tác, mất cơ hội kinh doanh, liên kết trong đầu tư, trong
tiếp thị, quảng cáo, xúc tiến thương mại thông qua các cuộc triển lãm, trưng
bày quốc tế... do bị chiếm đoạt đối tượng quyền sở hữu trí tuệ.
b) Tổn thất về cơ hội kinh doanh
là thiệt hại về giá trị tính được thành tiền khoản thu nhập mà người bị thiệt hại
có thể có được khi thực hiện các khả năng quy định tại khoản 1
Điều 19 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP và hướng dẫn tại điểm a tiểu mục
1.6 này, nhưng thực tế không có được khoản thu nhập đó do hành vi xâm phạm gây
ra.
Khi xem xét yêu cầu bồi thường về
tổn thất cơ hội kinh doanh, Toà án yêu cầu người bị thiệt hại phải nêu rõ và chứng
minh cơ hội kinh doanh bị mất là gì, thuộc trường hợp nào nêu trên đây và giá
trị tính được thành tiền đối với trường hợp đó để Toà án xem xét quyết định.
1.7. Chi phí hợp lý để ngăn chặn,
khắc phục thiệt hại bao gồm các chi phí quy định tại Điều 20 của
Nghị định số 105/2006/NĐ-CP.
1.8. Thiệt hại về tinh thần nêu
tại tiểu mục 1.2 mục 1 Phần I này, phát sinh là do quyền nhân thân của tác giả
tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; người biểu diễn, tác giả của sáng chế,
kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí bị xâm phạm, tác giả bị tổn hại về danh
dự, nhân phẩm, bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm (uy tín), danh tiếng, lòng
tin vì bị hiểu nhầm... và cần phải được bồi thường thiệt hại về tinh thần.
2. Căn cứ xác
định mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
2.1. Trong trường hợp nguyên đơn
chứng minh được hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã gây thiệt hại về vật
chất cho mình, thì có quyền yêu cầu Toà án quyết định mức bồi thường thiệt hại
theo một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 205 của Luật
sở hữu trí tuệ do nguyên đơn lựa chọn.
a) Khi xác định lợi nhuận mà bị
đơn đã thu được do thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 205 của Luật sở hữu trí tuệ, phải xem
xét đến các khoản chi phí mà bị đơn đã bỏ ra để có thể khấu trừ khoản tiền này
trong tổng doanh thu của bị đơn hoặc xác định một phần lợi nhuận của bị đơn là
doanh thu từ các hoạt động khác không liên quan đến hành vi xâm phạm, nếu có.
Tổng doanh thu của bị đơn được
tính trên cơ sở toàn bộ các hoá đơn, chứng từ bán sản phẩm hoặc sử dụng tác phẩm
vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của nguyên đơn mà bị đơn đã thực hiện.
Toà án xác định lợi nhuận của bị
đơn sau khi khấu trừ toàn bộ các chi phí khỏi tổng doanh thu của bị đơn.
Chỉ được cộng khoản lợi nhuận mà
bị đơn thu được do thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vào tổng thiệt
hại vật chất tính được thành tiền của nguyên đơn với Điều kiện khoản lợi nhuận
bị giảm sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại vật chất.
b) Giá chuyển giao quyền sử dụng
đối tượng sở hữu trí tuệ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 205 của
Luật sở hữu trí tuệ được xác định theo một trong các cách như sau:
b.1) Là khoản tiền phải trả nếu
người có quyền và người xâm phạm tự do thoả thuận, ký kết hợp đồng chuyển giao
quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ đó (phí bản quyền hợp lý, phí
Lixăng). Hành vi xâm phạm chính là hành vi sử dụng đối tượng quyền sở hữu trí
tuệ;
b.2) Giá chuyển giao quyền sử dụng
đối tượng sở hữu trí tuệ giả định được xác định theo phương pháp xác định số tiền
mà bên có quyền (bên nguyên đơn) và bên được chuyển giao (bên bị đơn) có thể đã
thoả thuận vào thời điểm xảy ra hành vi xâm phạm, nếu các bên tự nguyện thoả
thuận với nhau về khoản tiền đó;
b.3) Dựa trên giá chuyển giao
quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ được áp dụng trong lĩnh vực tương ứng được
nêu trong các thông lệ chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ trước
đó (như các vụ chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực
tương ứng trước đó đã được thanh toán hoặc bảo đảm trước khi xảy ra hành vi xâm
phạm, mức phí được nhiều người chấp nhận là hợp lý, được áp dụng thống nhất tại
Việt Nam...).
c) Toà án chỉ áp dụng mức bồi
thường thiệt hại theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 205 của
Luật sở hữu trí tuệ (bồi thường thiệt hại theo luật định) trong trường hợp
không thể xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất của nguyên đơn
theo các căn cứ quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 205
của Luật sở hữu trí tuệ.
c.1) Nguyên đơn phải chứng minh
là việc xác định mức bồi thường thiệt hại về vật chất trong trường hợp này
không thể thực hiện được hoặc chưa có đủ thị trường cho các hàng hoá hợp pháp để
xác định thiệt hại của nguyên đơn dựa trên mức giảm sút doanh thu bán hàng hoá
đó trước và sau khi xảy ra hành vi xâm phạm và yêu cầu Toà án áp dụng mức bồi
thường thiệt hại theo luật định. Tuy nhiên, nếu bị đơn chứng minh được rằng
nguyên đơn không trung thực trong việc chứng minh thiệt hại của họ vì nếu yêu cầu
bồi thường theo quy định tại các điểm a và b khoản 1 Điều 205 của
Luật sở hữu trí tuệ thì mức bồi thường sẽ thấp hơn mức bồi thường theo luật
định, nếu nguyên đơn viện lý do để được áp dụng mức bồi thường theo luật định
và bị đơn chứng minh được mức thiệt hại của nguyên đơn, thì Toà án không chấp
nhận yêu cầu của nguyên đơn mà có thể chấp nhận yêu cầu của bị đơn để quyết định
mức bồi thường thiệt hại.
c.2) Toà án quyết định mức bồi
thường thiệt hại về vật chất trong trường hợp quy định tại điểm
c khoản 1 Điều 205 của Luật sở hữu trí tuệ với mức bồi thường tối thiểu
không dưới năm triệu đồng và tối đa không quá năm trăm triệu đồng. Để đảm bảo
quyết định mức bồi thường hợp lý, phù hợp với từng trường hợp cụ thể, bảo vệ được
quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại, Toà án phải căn cứ vào tính chất,
mức độ của hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan cụ thể như sau:
- Hoàn cảnh, động cơ xâm phạm
(xâm phạm do cố ý, do vô ý, do bị khống chế, hoặc do bị lệ thuộc về vật chất,
tinh thần, xâm phạm lần đầu, tái phạm);
- Cách thực hiện hành vi xâm phạm
(xâm phạm riêng lẻ, có tổ chức, tự thực hiện hành vi xâm phạm, mua chuộc, lừa dối,
cưỡng ép người khác thực hiện hành vi xâm phạm);
- Phạm vi lãnh thổ, thời gian,
khối lượng, quy mô thực hiện hành vi xâm phạm (trên địa bàn một huyện của một tỉnh,
nhiều huyện của nhiều tỉnh khác nhau, thời gian dài hay ngắn, khối lượng lớn
hay nhỏ, quy mô thương mại...);
- ảnh hưởng, hậu quả của hành vi
xâm phạm (ảnh hưởng ở trong nước, quốc tế đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín,
danh tiếng của chủ thể quyền; hậu quả về vật chất đối với chủ thể quyền).
c.3) Toà án phải căn cứ vào từng
đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm để ấn định mức bồi thường thiệt
hại về vật chất theo mức nêu tại điểm c.2 tiểu mục 2.1 mục 2 này.
Nếu trong vụ tranh chấp có nhiều
đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm, thì mức bồi thường thiệt hại
chung cho tất cả các đối tượng đó cũng không được vượt quá mức 500 triệu đồng.
2.2. Toà án quyết định bồi thường
thiệt hại về tinh thần khi nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ đã gây thiệt hại về tinh thần cho mình. Trong trường hợp nguyên đơn
không chứng minh được có thiệt hại về tinh thần, thì Toà án không chấp nhận yêu
cầu này của họ. Tuỳ từng trường hợp cụ thể, tuỳ mức độ tổn thất về tinh thần của
chủ thể quyền căn cứ vào tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và
những tổn thất khác về tinh thần do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây
ra cho chủ thể quyền mà Toà án quyết định mức bồi thường trong giới hạn từ 5
(năm) triệu đồng đến 50 (năm mươi) triệu đồng.
2.3. Khi áp dụng quy định tại Điều 205 của Luật sở hữu trí tuệ và hướng dẫn tại tiểu mục 2.1
mục 2 này của Thông tư liên tịch, nếu trong vụ tranh chấp có nhiều đối tượng của
quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm, thì mức bồi thường thiệt hại được xác định
riêng cho từng đối tượng đó. Nếu đối với đối tượng này Toà án có thể xác định
được mức bồi thường thiệt hại về vật chất theo quy định tại các điểm
a và b khoản 1 Điều 205 của Luật sở hữu trí tuệ và đối với đối tượng kia
Toà án không thể xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất theo quy định
tại các điểm a và b khoản 1 Điều 205 của Luật sở hữu trí tuệ,
thì Toà án có thể áp dụng đồng thời các căn cứ quy định tại khoản
1 Điều 205 của Luật sở hữu trí tuệ để xác định mức bồi thường thiệt hại
chung.
2.4. Về thanh toán chi phí hợp
lý để thuê luật sư.
Trong tố tụng dân sự, theo quy định
tại khoản 3 Điều 144 của Bộ luật tố tụng dân sự, chi phí
cho luật sư do người yêu cầu chịu, trừ trường hợp các bên đương sự có thoả thuận
khác.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3 Điều 205 của Luật sở hữu trí tuệ, thì chủ thể quyền sở
hữu trí tuệ có quyền yêu cầu Toà án buộc tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ phải thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư.
Chi phí hợp lý để thuê luật sư
là chi phí thực tế cần thiết, phù hợp với tính chất, mức độ phức tạp của vụ việc;
kỹ năng, trình độ của luật sư và lượng thời gian cần thiết để nghiên cứu vụ việc.
Mức chi phí bao gồm mức thù lao luật sư và chi phí đi lại, lưu trú cho luật sư.
Mức thù lao do luật sư thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng dịch vụ pháp lý
dựa trên các căn cứ và phương thức tính thù lao quy định tại Điều
55 của Luật Luật sư.
II. VỀ ÁP DỤNG
BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI (CÁC ĐIỀU 206, 207 VÀ 208 CỦA
LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ)
1. Về quyền
yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 206 của
Luật sở hữu trí tuệ).
1.1. Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ
có quyền yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi khởi kiện hoặc
sau khi khởi kiện vụ án dân sự về quyền sở hữu trí tuệ.
a) Nếu họ yêu cầu áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại các Điều từ Điều 206 đến
Điều 210 của Luật sở hữu trí tuệ, thì Toà án áp dụng các quy định tương ứng
này của Luật sở hữu trí tuệ.
b) Nếu họ yêu cầu áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời mà trong Luật sở hữu trí tuệ không có quy định và biện
pháp khẩn cấp tạm thời đó được quy định tại Chương VIII của Bộ luật tố tụng dân
sự, thì Toà án áp dụng các quy định tương ứng của Bộ luật tố tụng dân sự. Khi chủ
thể quyền sở hữu trí tuệ yêu cầu Toà án áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn
cấp tạm thời quy định tại Điều 102 của Bộ luật tố tụng dân sự,
thì Toà án phải xem xét các biện pháp khẩn cấp tạm thời được yêu cầu áp dụng có
liên quan đến lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ hay không để áp dụng cho phù hợp.
1.2. Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ
có quyền yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong các trường hợp
quy định tại khoản 1 Điều 206 của Luật sở hữu trí tuệ; cụ
thể như sau:
a) Đang có nguy cơ xảy ra thiệt
hại không thể khắc phục được cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ. Thiệt hại là hậu
quả tất yếu của hành vi xâm phạm sắp xảy ra và khi thiệt hại xảy ra thì không
thể khắc phục được cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ nếu không áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời đó.
b) Hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ hoặc chứng cứ liên quan đến hành vi xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ có nguy cơ bị tẩu tán hoặc bị tiêu huỷ nếu không được bảo vệ kịp thời.
- Tẩu tán là việc phân tán nhanh
hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc chứng cứ liên quan đến
hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đi nhiều nơi để dấu.
- Tiêu huỷ là việc làm cho hàng
hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc chứng cứ liên quan đến hành
vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị biến dạng hoặc bị mất hẳn đi, không để lại
dấu vết.
1.3. Khi yêu cầu Toà án áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ phải nêu rõ yêu cầu của
mình thuộc trường hợp nào quy định tại khoản 1 Điều 206 của Luật
sở hữu trí tuệ. Nếu đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, đồng
thời với việc nộp đơn khởi kiện thì đơn khởi kiện phải được làm theo đúng quy định
tại Điều 164 của Bộ luật tố tụng dân sự.
1.4. Trong trường hợp đơn khởi
kiện đã có các nội dung để xác định việc thụ lý đơn khởi kiện và giải quyết vụ
án là thuộc thẩm quyền của mình, nhưng cần phải sửa đổi, bổ sung một số nội
dung khác, thì Toà án thụ lý giải quyết đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời ngay theo quy định tại khoản 3 Điều 117 của Bộ luật tố
tụng dân sự và hướng dẫn tại mục 6 Nghị quyết số
02/2005/NQ-HĐTP ngày 27-4-2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao hướng dẫn thi hành một số quy định tại Chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp
tạm thời” của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện
và thụ lý vụ án được thực hiện theo quy định tại Điều 169 và Điều
171 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Toà án có thẩm quyền ra quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là Toà án có thẩm quyền thụ lý đơn khởi kiện
và giải quyết vụ án theo quy định tại các Điều 33, 34, 35 và 36
của Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn tại mục 1 Phần I của
Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31-3-2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những
quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân sự.
1.5. Toà án quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ trước
khi nghe ý kiến của bên bị áp dụng biện pháp đó.
2. Về các biện
pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 207 của Luật sở hữu trí tuệ).
2.1. Toà án áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 1 Điều 207 của Luật sở
hữu trí tuệ và các biện pháp khác theo quy định tại Điều
102 của Bộ luật tố tụng dân sự khi đương sự có yêu cầu.
2.2. Đương sự có thể đồng thời
yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều
207 của Luật sở hữu trí tuệ và tại Điều 102 của Bộ luật tố
tụng dân sự hoặc chỉ yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy
định tại Điều 207 của Luật sở hữu trí tuệ hoặc tại Điều 102 của Bộ luật tố tụng dân sự;
2.3. Hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện sản xuất, kinh doanh
hàng hoá đó bị áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời được lưu giữ, quản lý
trong khi chờ quyết định của Toà án về vụ tranh chấp.
Nguyên đơn có nghĩa vụ ứng trước
chi phí lưu giữ, bảo quản...hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện sản xuất,
kinh doanh hàng hoá đó.
Khi quyết định về vụ tranh chấp
theo yêu cầu của nguyên đơn Toà án buộc bị đơn hoàn trả các chi phí đó như các
chi phí quy định tại điểm a khoản 1 Điều 204 của Luật sở hữu
trí tuệ và hướng dẫn tại tiểu mục 1.6 mục 1 Phần II này.
2.4. Hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện sản xuất, kinh doanh
hàng hoá đó mà đang ở trên tàu biển hoặc các phương tiện vận tải khác thì chỉ
được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với các đối tượng này mà không áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với phương tiện đó. Hàng hoá, nguyên liệu,
vật liệu, phương tiện sản xuất, kinh doanh hàng hoá đó được bốc dỡ ra khỏi
phương tiện vận chuyển và đưa vào nơi bảo quản.
3. Về biện pháp
bảo đảm (Điều 208 của Luật sở hữu trí tuệ)
3.1. Tuỳ theo yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà
người yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải cung cấp cho Toà
án các chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 203 của Luật sở hữu
trí tuệ và khoản 1 Điều 117 của Bộ luật tố tụng dân sự
để chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó.
3.2. Thực hiện biện pháp bảo đảm.
Người yêu cầu Toà án áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời không phân biệt theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ
hay quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, phải thực hiện biện pháp bảo đảm tương
ứng. Tuỳ từng trường hợp cụ thể, Toà án buộc người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời thực hiện biện pháp bảo đảm như sau:
a) Thực hiện biện pháp bảo đảm
trong trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 1 Điều 207 của Luật sở hữu trí tuệ.
Người yêu cầu áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời phải nộp khoản bảo đảm bằng một trong các hình thức quy định
tại khoản 2 Điều 208 của Luật sở hữu trí tuệ; cụ thể như
sau:
a.1) Nộp khoản tiền bằng 20% giá
trị hàng hoá cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Toà án yêu cầu người yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nêu rõ số lượng, chủng loại hàng hoá cần
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, dự kiến, ước tính giá trị hàng hoá đó để
xác định giá trị hàng hoá cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời làm cơ sở cho
việc ấn định khoản tiền bảo đảm.
Giá trị hàng hoá cần áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời được xác định tại thời điểm xảy ra hành vi xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ; dựa trên các căn cứ theo thứ tự ưu tiên quy định tại khoản 2 Điều 28 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP.
Nếu không thể xác định được giá
trị hàng hoá cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (đã áp dụng mọi biện pháp
cần thiết như: ước tính giá trị, thẩm định giá, định giá... mà vẫn không thể
xác định được giá trị hàng hoá đó), thì Toà án quyết định khoản tiền bảo đảm phải
nộp tối thiểu là hai mươi triệu đồng. Tuy nhiên cần lưu ý là điểm
a khoản 2 Điều 208 của Luật sở hữu trí tuệ chỉ quy định giới hạn mức tối
thiểu của khoản bảo đảm đối với trường hợp không thể xác định được giá trị của
hàng hoá cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà không giới hạn mức tối đa đối
với khoản bảo đảm. Do đó, nếu qua dự kiến và tạm tính, xem xét các tình tiết của
vụ án mà thấy rằng thiệt hại thực tế có thể xảy ra và cao hơn mức bảo đảm tối
thiểu là 20 triệu đồng, thì Toà án có thể ấn định mức bảo đảm cao hơn mức tối
thiểu 20 triệu đồng, để người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải
nộp, tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.
a.2) Chứng từ bảo lãnh của ngân
hàng hoặc tổ chức tín dụng khác (không phân biệt chứng từ bảo lãnh của ngân
hàng hoặc tổ chức tín dụng trong nước hay nước ngoài có giá trị bằng 20% giá trị
hàng hoá cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc ít nhất bằng 20 triệu đồng).
Chứng từ bảo lãnh có thể là: thư bảo lãnh, hợp đồng bảo lãnh được xác lập theo
quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định
khác.
b) Thực hiện biện pháp bảo đảm
trong trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều 207 của Luật sở hữu trí tuệ.
Theo quy định tại khoản
2 Điều 207 của Luật sở hữu trí tuệ, chủ thể quyền có quyền yêu cầu Toà án
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác theo quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự. Do đó, khi quyết định áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy
định tại Điều 102 của Bộ luật tố tụng dân sự, thì Toà án
căn cứ vào quy định tại Điều 120 của Bộ luật tố tụng dân sự
và hướng dẫn tại mục 8 của Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP
ngày 27-4-2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành
một số quy định tại Chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của Bộ luật tố
tụng dân sự, xác định trường hợp cụ thể nào phải thực hiện biện pháp bảo đảm để
buộc người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải thực hiện biện pháp
bảo đảm.
III. VỀ QUYỀN
VÀ NGHĨA VỤ CHỨNG MINH CỦA ĐƯƠNG SỰ (ĐIỀU 203 CỦA LUẬT SỞ HỮU
TRÍ TUỆ)
1. Các tranh
chấp dân sự về quyền sở hữu trí tuệ là một trong các loại tranh chấp dân sự thuộc
thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân theo quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự. Do đó, nguyên đơn, bị đơn có quyền và nghĩa vụ chứng minh theo quy định tại
Điều 79 của Bộ luật tố tụng dân sự và quy định tại Điều 203 của Luật sở hữu
trí tuệ.
1.1. Do tính chất đặc thù của
quyền sở hữu trí tuệ, tuỳ từng loại tranh chấp và yêu cầu cụ thể, nguyên đơn thực
hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh như sau:
a) Nguyên đơn chứng minh mình là
chủ thể quyền sở hữu trí tuệ bằng một trong các chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 203 của Luật sở hữu trí tuệ và quy định tại Điều 24 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP.
b) Đối với trường hợp tranh chấp
phát sinh do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, để chứng minh quyền sở hữu
trí tuệ của mình bị xâm phạm, nguyên đơn phải cung cấp các chứng cứ về hành vi
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy
định tại khoản 3 Điều 203 của Luật sở hữu trí tuệ và quy định
tại Điều 25 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP.
c) Khi xem xét có hay không có
hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ mà nguyên đơn khai trong đơn khởi kiện,
Toà án căn cứ vào quy định tại các Điều 28, 35, 126, 127, 129
và 130 của Luật sở hữu trí tuệ quy định về các hành vi xâm phạm quyền tác
giả, quyền liên quan và quyền sở hữu công nghiệp. Đồng thời phải áp dụng các
quy định tại Chương II từ Điều 5 đến Điều 15 của Nghị định số
105/2006/NĐ-CP để xác định yếu tố xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Do đặc thù
của quyền sở hữu trí tuệ, trong một số trường hợp cá nhân, tổ chức sử dụng đối
tượng sở hữu trí tuệ mà không bị coi là xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Vì vậy,
Toà án tuỳ đối tượng sở hữu trí tuệ cụ thể mà căn cứ vào quy định tại các Điều 25, 26, 32 và 33, các khoản 2 và 3 Điều 125, 133 và 134 của
Luật sở hữu trí tuệ để xác định có hay không có hành vi xâm phạm.
1.2. Theo quy định tại khoản 4 Điều 203 của Luật sở hữu trí tuệ, thì đối với vụ kiện
về xâm phạm quyền đối với sáng chế là quy trình sản xuất sản phẩm, thì nghĩa vụ
chứng minh thuộc về bị đơn. Bị đơn phải chứng minh sản phẩm của mình được sản
xuất theo một quy trình khác với quy trình được bảo hộ trong các trường hợp quy
định tại các điểm a và b khoản 4 Điều 203 của Luật sở hữu trí
tuệ. Toà án yêu cầu bị đơn xuất trình chứng cứ chứng minh họ không xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế của nguyên đơn.
2. Nguyên đơn
có quyền yêu cầu Toà án ra quyết định buộc bên kiểm soát chứng cứ phải đưa ra
chứng cứ đó theo quy định tại khoản 5 Điều 203 của Luật sở
hữu trí tuệ và quy định tại Điều 94 của Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn tại mục 8 Phần IV của
Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP
ngày 17-9-2005 của Hội đồng thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
về “Chứng minh và chứng cứ”.
3. Nguyên đơn
phải chứng minh thiệt hại đã xảy ra đối với mình; phải xuất trình các chứng cứ
chứng minh thiệt hại thực tế đã xảy ra (các loại thiệt hại, trong mỗi loại thiệt
hại bao gồm các tổn thất gì....) và nêu cụ thể các căn cứ xác định mức bồi thường
thiệt hại theo quy định tại Điều 205 của Luật sở hữu
trí tuệ.
IV. QUYẾT ĐỊNH
CỦA TOÀ ÁN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP DÂN SỰ (ĐIỀU 202 CỦA LUẬT
SỞ HỮU TRÍ TUỆ)
Toà án áp dụng các biện pháp dân
sự theo quy định tại Điều 202 của Luật sở hữu trí tuệ để
giải quyết các vụ án dân sự về quyền sở hữu trí tuệ.
Tuỳ trường hợp cụ thể Toà án có
thể áp dụng một hoặc nhiều hoặc tất cả các biện pháp dân sự đồng thời cùng lúc
trong quá trình giải quyết một vụ án dân sự về quyền sở hữu trí tuệ.
1. Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm
1.1. Theo yêu cầu của người khởi
kiện, Toà án quyết định buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ chấm
dứt ngay hành vi xâm phạm (ví dụ: buộc người có hành vi xâm phạm quyền tác giả
chấm dứt việc sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả; buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu chấm dứt việc sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng
hoá, dịch vụ trùng với hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn
hiệu đó...).
1.2. Toà án có thể quyết định buộc
người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ chấm dứt hành vi xâm phạm trong
bản án hoặc trong quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định
tại Điều 206, khoản 2 Điều 207 của Luật sở
hữu trí tuệ và quy định tại khoản 12 Điều 102 và Điều 115
của Bộ luật tố tụng dân sự.
1.3. Trong bản án, quyết định,
Toà án phải nêu cụ thể các quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm và các hành vi xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ. Đồng thời, Toà án cũng phải quy định rõ những việc
người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải thực hiện và không được thực
hiện để thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Toà án.
1.4. Theo quy định tại khoản 1 Điều 123 của Bộ luật tố tụng dân sự, thì quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu lực thi hành ngay.
Do đó, nếu người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc chấm dứt hành vi
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ khiếu nại quyết định đó, thì trong thời hạn khiếu
nại, giải quyết khiếu nại theo quy định tại các Điều 124 và
125 của Bộ luật tố tụng dân sự, họ vẫn phải thi hành quyết định đó.
Đối với trường hợp Toà án quyết
định trong bản án việc buộc chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ mà bản
án đó bị kháng cáo, kháng nghị, thì theo quy định tại khoản 1
Điều 254 của Bộ luật tố tụng dân sự “Những phần của bản án, quyết định sơ
thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp
pháp luật quy định cho thi hành ngay”.
Do đó, cần căn cứ vào quy định cụ
thể của văn bản quy phạm pháp luật cho thi hành ngay phần bản án, quyết định sơ
thẩm bị kháng cáo, kháng nghị và quy định nêu trên của Bộ luật tố tụng dân sự để
tuyên trong bản án, quyết định là: “Quyết định buộc chấm dứt hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ được thi hành ngay mặc dù bị kháng cáo, kháng nghị”.
2. Buộc xin lỗi, cải chính công
khai
2.1. Toà án quyết định trong bản
án, quyết định về việc buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải
xin lỗi, cải chính công khai nhằm khôi phục danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng...
cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm.
Ví dụ: Người có hành vi xâm phạm
quyền tác giả đã sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm làm cho công chúng
hiểu lầm về tác giả gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Việc buộc xin lỗi, cải chính
công khai nhằm mục đích bảo vệ quyền nhân thân của tác giả quy định tại khoản 4 Điều 19 của Luật sở hữu trí tuệ (bảo vệ sự toàn vẹn của
tác phẩm) và khôi phục danh dự, uy tín cho tác giả.
Trong trường hợp các đương sự
thoả thuận được với nhau về nội dung, cách thức xin lỗi, cải chính công khai và
chi phí thực hiện việc xin lỗi, cải chính đó mà thoả thuận đó không trái pháp
luật, đạo đức xã hội, thì Toà án công nhận sự thoả thuận của họ.
2.2. Trong trường hợp các bên
không thoả thuận được với nhau về nội dung, cách thức thực hiện việc xin lỗi, cải
chính công khai và chi phí thực hiện, thì Toà án căn cứ vào tính chất hành vi
xâm phạm và mức độ, hậu quả do hành vi đó gây ra quyết định về nội dung, thời
lượng xin lỗi, cải chính công khai và chi phí thực hiện. Việc xin lỗi, cải
chính công khai có thể được thực hiện trực tiếp tại nơi có địa chỉ chính của
người bị thiệt hại hoặc đăng công khai trên báo hàng ngày của cơ quan trung
ương, báo địa phương nơi có địa chỉ chính của người bị thiệt hại trong ba số
liên tiếp.
3. Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự
Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự
được Toà án quyết định áp dụng đối với người có hành vi vi phạm nghĩa vụ đối với
chủ thể quyền sở hữu trí tuệ. [không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ đã thoả thuận theo hợp đồng và phải chịu trách nhiệm dân sự đối với chủ thể
quyền sở hữu trí tuệ (người có quyền)].
Khi áp dụng biện pháp này cần
căn cứ vào các quy định tương ứng tại các mục 2 và 3 Chương XVII, Phần thứ ba của
Bộ luật dân sự năm 2005.
4. Buộc bồi thường thiệt hại
4.1. Người có hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ mà gây thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần cho
chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, thì phải bồi thường.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được xác định theo các căn cứ
quy định tại khoản 1 Điều 604 của Bộ luật dân sự và hướng
dẫn tại mục 1 Phần I của Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP
ngày 08-7-2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
4.2. Do Bộ luật dân sự có quy định
về nguyên tắc bồi thường thiệt hại, xác định thiệt hại và cách thức bồi thường
thiệt hại khác với quy định của Luật sở hữu trí tuệ; do đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 5 của Luật sở hữu trí tuệ khi giải quyết yêu cầu
về bồi thường thiệt hại phải áp dụng các quy định tại các Điều
204 và 205 của Luật sở hữu trí tuệ, các Điều 16, 17, 18,
19 và 20 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP và hướng dẫn tại mục
I Phần A của Thông tư liên tịch này.
5. Buộc tiêu huỷ hoặc phân phối
hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu,
vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với Điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng
khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.
5.1. Toà án xem xét quyết định
buộc tiêu huỷ hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích
thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện nêu trên mà
không phụ thuộc vào việc chủ thể quyền có yêu cầu hay không có yêu cầu.
5.2. Việc buộc tiêu huỷ hoặc buộc
phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại phải căn cứ vào
quy định tại khoản 5 Điều 202 của Luật sở hữu trí tuệ, các
Điều 30 và 31 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP.
Ví dụ: Công ty X. sử dụng trái
phép nhãn hiệu mì chính “AJINOMOTO” của Công ty A. đang được người tiêu dùng ưa
chuộng trên thị trường để gắn vào sản phẩm mì chính của mình để bán trên thị
trường. Công ty A. đã khởi kiện Công ty X. yêu cầu Toà án buộc Công ty X. phải
chấm dứt hành vi sử dụng trái phép nhãn hiệu “AJINOMOTO”, tiêu huỷ số nhãn hiệu
đã được in ấn nhưng chưa sử dụng và xử lý số mì chính mang nhãn hiệu
“AJINOMOTO” giả mạo. Toà án căn cứ vào quy định tại khoản 5 Điều
202 của Luật sở hữu trí tuệ và Điều 30 của Nghị định số
105/2006/NĐ-CP quyết định buộc Công ty X. tiêu huỷ số nhãn hiệu giả mạo bị
thu giữ, loại bỏ nhãn hiệu “AJINOMOTO” ra khỏi hàng hoá mì chính và quyết định
phân phối số mì chính đó cho Cơ sở nuôi dưỡng trẻ em mồ côi của huyện B. sử dụng
vì mục đích nhân đạo.
5.3. Khi quyết định buộc tiêu huỷ
hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất,
kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, Toà án phải quyết định trách
nhiệm của người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chịu chi phí cho
việc tiêu huỷ đó.
C. PHỐI HỢP
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Trong quá trình giải quyết các
tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Toà án, Viện
kiểm sát với Cục Bản quyền tác giả (Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch), các Sở
Văn hoá - Thông tin, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ), các Sở Khoa
học và Công nghệ nơi thụ lý vụ án, Trung tâm Internet Việt Nam (Bộ Thông tin và
Truyền thông) để thực hiện các việc sau đây:
1. Khi có vấn đề chuyên môn
trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ mà Toà án đã có văn bản yêu cầu trao đổi ý
kiến, thì Cục Bản quyền tác giả, Sở Văn hoá - Thông tin, Cục Sở hữu trí tuệ, Sở
Khoa học và Công nghệ, Trung tâm Internet Việt Nam có trách nhiệm trả lời về
các vấn đề mà Toà án yêu cầu.
2. Khi tiến hành việc truy tố, xét
xử các vụ án hình sự mà thấy có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, Viện kiểm
sát, Toà án cần thông báo cho Cục Bản quyền tác giả, Sở Văn hoá-Thông tin, Cục
Sở hữu trí tuệ, Sở Khoa học và Công nghệ, Trung tâm Internet Việt Nam để các cơ
quan này thực hiện theo dõi, thống kê tình hình hoạt động kết quả bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ tại Toà án nhân dân trong phạm vi chức năng của mình.
3. Trong quá trình xử lý xâm phạm,
giải quyết tranh chấp, nếu thấy hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đủ yếu tố
cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự, thì các cơ quan chức năng
thông báo và chuyển tài liệu có liên quan cho Viện kiểm sát nhân dân có thẩm
quyền xem xét, quyết định việc xử lý về hình sự.
D. HIỆU LỰC
THI HÀNH CỦA THÔNG TƯ
1. Thông tư này có hiệu lực sau
mười lăm ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Thông tư này thay thế Thông tư
liên tịch số 01/2001/TANDTC-VKSNDTC-BVHTT ngày 05-12-2001 của Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Văn hoá-Thông tin hướng dẫn áp dụng một
số quy định của Bộ luật dân sự trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến
quyền tác giả tại Toà án
nhân dân.
2. Các vụ án trước đây đã được
giải quyết theo đúng các quy định của pháp luật mà bản án, quyết định của Toà
án đã có hiệu lực pháp luật thì không áp dụng hướng dẫn tại Thông tư này để
kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm, trừ trường hợp có những căn cứ khác.
3. Đối với những vụ án về tranh
chấp quyền sở hữu trí tuệ phát sinh trước ngày 01-01-2006 (ngày Bộ luật dân sự
năm 2005 có hiệu lực), thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự năm 1995, các
văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật dân sự năm
1995 về sở hữu trí tuệ để giải quyết.
4. Đối với những vụ án về tranh
chấp quyền sở hữu trí tuệ phát sinh từ ngày 01-01-2006 đến trước ngày 01-7-2006
(ngày Luật sở hữu trí tuệ có hiệu lực), thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự
năm 2005, các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật
dân sự năm 2005 về sở hữu trí tuệ để giải quyết.
Trong quá trình áp dụng hướng dẫn
tại Thông tư này, nếu có vướng mắc hoặc phát sinh những vấn đề mới, thì Toà án
các cấp cần báo cáo bằng văn bản để Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tư
pháp có sự giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung kịp thời.
KT.
CHÁNH ÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
PHÓ CHÁNH ÁN
Đặng Quang Phương
|
KT.
VIỆN TRƯỞNG
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
PHÓ VIỆN TRƯỞNG
Khuất Văn Nga
|
KT.
BỘ TRƯỞNG
BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
THỨ TRƯỞNG
Trần Chiến Thắng
|
KT.
BỘ TRƯỞNG
BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Quân
|
KT.
BỘ TRƯỞNG
BỘ TƯ PHÁP
THỨ TRƯỞNG
Đinh Trung Tụng
|
Nơi nhận:
- Toà án nhân dân tối cao (để sao gửi
cho các TAND địa phương và các đơn vị chức năng để thực hiện và các cơ quan
có thẩm quyền để báo cáo);
- Viện kiểm sát nhân dân tối
cao; (để
sao gửi
- Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch;
cho các đơn vị
- Bộ Khoa học và Công nghệ;
và cơ quan trực thuộc
- Bộ Tư
pháp;
để thực hiện)
- Văn phòng Chính phủ (hai bản để đăng Công báo);
- Lưu: TANDTC, VKSNDTC, BVHTT&DL, BKH&CN, BTP.
|
|