UỶ BAN THƯỜNG VỤ
QUỐC HỘI
******
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ
CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 542-NQ/TVQH
|
Hà Nội, ngày 18 tháng
04 năm 1968
|
NGHỊ QUYẾT
PHÊ CHUẨN ĐIỀU LỆ QUY ĐỊNH VIỆC THI HÀNH LUẬT HÔN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH TRONG KHU TỰ TRỊ VIỆT – BẮC
ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI NƯỚC VIỆT NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Căn cứ vào điều 95 của Hiến
pháp nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa;
Căn cứ vào điều 35 của Luật hôn nhân và gia đình ngày 29-12-1959;
Theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ;
Sau khi nghe báo cáo của Ủy ban hành chính khu tự trị Việt Bắc;
Sau khi nghe báo cáo của Đoàn điều tra của Ủy ban thường vụ Quốc hội về vấn đề
thi hành Luật hôn nhân và gia đình trong khu tự trị Việt Bắc.
QUYẾT NGHỊ:
Phê chuẩn điều lệ quy định việc
thi hành Luật hôn nhân và gia đình trong khu tự trị Việt Bắc do Hội đồng nhân
dân khu thông qua ngày 03-7-1966.
|
ỦY
BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI NƯỚC VIỆT NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
CHỦ TỊCH
Trường Chinh
|
ĐIỀU LỆ
QUY ĐỊNH VIỆC THI HÀNH LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG KHU TỰ
TRỊ VIỆT BẮC
Căn cứ vào điều 95 của Hiến pháp
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và điều 35 của Luật hôn nhân và gia đình ngày
29-12-1959,
Hội đồng nhân dân khu tự trị Việt
Bắc nhận thấy rằng:
Luật hôn nhân và gia đình của nước
Việt Nam
dân chủ cộng hòa dựa trên bốn nguyên tắc cơ bản:
- Hôn nhân tự do và tiến bộ,
- Một vợ một chồng,
- Nam
nữ bình đẳng,
- Quyền lợi của phụ nữ và con
cái được bảo vệ.
Luật hôn nhân và gia đình nhằm
xây dựng những gia đình xã hội chủ nghĩa, hạnh phúc, dân chủ và hòa thuận,
trong đó mọi người đoàn kết, thương yêu nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ, là hoàn
toàn phù hợp với lợi ích trước mắt và lâu dài của các dân tộc trong khu tự trị
Việt Bắc.
Thi hành nghiêm chỉnh Luật hôn
nhân và gia đình, nhân dân các dân tộc trong khu chẳng những có thể xóa bỏ những
tàn dư của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, một trong những nguyên nhân
đã kìm hãm sự phát triển của các dân tộc miền núi từ bao đời nay, mà còn thực
hiện chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, tạo điều kiện đưa miền núi tiến kịp
miền xuôi, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống Mỹ,
cứu nước.
Vì những lẽ trên đây, nhân dân
các dân tộc trong khu tự trị Việt Bắc cần phải ra sức thi hành Luật hôn nhân và
gia đình.
Để cho việc thi hành Luật hôn
nhân và gia đình được sát với tình hình của địa phương và đạt được kết quả tốt,
Hội đồng nhân dân khu tự trị Việt Bắc quy định một số điểm cụ thể như sau:
Điều 1.
– Đối với tất cả các dân tộc trong khu tự trị Việt Bắc,
việc kết hôn phải do người con trai và người con gái hoàn toàn tự nguyện và quyết
định, không bên nào được ép buộc bên nào, không một ai được cưỡng ép hoặc cản
trở.
Cha mẹ cần quan tâm giúp đỡ con
cái trong việc xây dựng gia đình, nhưng không được nhân việc đó mà ép buộc hoặc
cản trở việc lấy vợ, lấy chồng của con cái.
Điều 2.
– Việc kết hôn giữa hai người thuộc hai dân tộc hoặc
thuộc hai tôn giáo khác nhau hoàn toàn do người con trai và người con gái quyết
định, không ai được viện lý do khác dân tộc hoặc khác tôn giáo để ngăn cản.
Điều 3.
– Không ai được vin vào việc xem “lục mệnh” hoặc một
hình thức mê tín, dị đoan nào khác mà cản trở việc tự do kết hôn.
Điều 4.
– Việc bắt cóc phụ nữ để cưỡng ép làm vợ, còn sót lại ở một
vài nơi, vi phạm nguyên tắc tự do kết hôn, xâm phạm tự do thân thể và nhân cách
của phụ nữ.
Nay nghiêm cấm tệ bắt cóc phụ nữ
để cưỡng ép làm vợ.
Điều 5.
– Việc bán vợ, bán con, bán con dâu góa, còn sót lại ở một
vài nơi, là tàn dư của chế độ nô lệ xem con người như một thứ hàng hóa.
Nay nghiêm cấm tệ bán vợ, bán
con, bán con dâu góa.
Điều 6.
– Nguyên tắc một vợ một chồng là nguyên tắc cơ bản của
chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa. Nó phù hợp với nguyện vọng, lợi
ích và yêu cầu tiến bộ của các dân tộc trong khu tự trị Việt Bắc.
Nhân dân các dân tộc trong khu cần
thấm nhuần tính chất cách mạng sâu sắc của nguyên tắc một vợ một chồng mà ra sức
phấn đấu thực hiện triệt để nguyên tắc đó.
Điều 7.
– Luật hôn nhân và gia đình quy định con gái từ 18 tuổi
trở lên, con trai từ 20 tuổi trở lên mới được kết hôn, nhằm bảo đảm nguyên tắc
tự do kết hôn, giữ gìn sức khỏe và tương lai của giống nòi, đồng thời bảo đảm
cho người con trai và người con gái có đủ khả năng gánh vác trách nhiệm gia
đình và xã hội.
Nhân dân các dân tộc trong khu cần
thấm nhuần tính chất cách mạng sâu sắc của điều quy định đó mà ra sức phấn đấu
thực hiện nghiêm chỉnh và triệt để việc kết hôn đúng tuổi luật định.
Điều 8.
– Việc thách cưới có tính chất mua bán, vừa làm tổn
thương đến nhân cách của phụ nữ, vừa trái với nguyên tắc tự do kết hôn.
Nay nghiêm cấm tệ thách cưới,
như đòi bạc trắng, tiền mặt, của hồi môn, trâu dẫn cưới, sêu tết, v.v…
Lễ cưới hỏi, việc tổ chức ăn uống
nhân ngày cuới, việc mua sắm những vật kỷ niệm và đồ dùng để làm lễ cưới đều phải
giản dị và tiết kiệm.
Điều 9.
– Việc kết hôn phải được Ủy ban hành chính thị trấn,
xã hoặc khu phố trú quán của người con trai hoặc của người con gái công nhận và
ghi vào sổ đăng ký kết hôn. Các ủy ban hành chính thị trấn, xã hoặc khu phố có
trách nhiệm bảo đảm thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn trong địa phương mình.
Điều 10.
– Sau khi kết hôn, vợ chồng có quyền sống chung với
nhau, không ai được ngăn cản.
Nơi ở do vợ chồng lựa chọn. Vợ
chồng có thể thỏa thuận với nhau về ở gia đình nhà chồng hoặc gia đình nhà vợ.
Điều 11.
– Tục ở rễ cưỡng bách trái với nguyên tắc tự do kết
hôn, làm trở ngại lớn cho hoạt động chính trị và xã hội của người đi ở rễ.
Nay nghiêm cấm tục ở rễ cưỡng
bách.
Điều 12.
– Đàn bà góa có quyền tái giá. Khi tái giá, quyền lợi của
đàn bà góa về con cái và tài sản được bảo đảm.
Đàn bà góa khi tái giá không phải
trả lại tiền cưới cho nhà chồng cũ.
Nay nghiêm cấm việc bắt buộc đàn
bà góa phải lấy em chồng hoặc một người khác trong gia đình nhà chồng.
Điều 13.
– Vợ chồng bình đẳng về mọi mặt.
Vợ chồng đều có quyền tự do chọn
nghề nghiệp, tự do hoạt động chính trị, văn hóa và xã hội, đều có quyền sở hữu,
hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản của gia đình và có quyền thừa kế
tài sản của nhau.
Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu,
quý trọng, săn sóc nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ, nuôi dạy con cái, lao động sản
xuất, xây dựng gia đình hòa thuận và hạnh phúc. Chồng không được bạc đãi, hành
hạ vợ.
Điều 14.
– Cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu, nuôi nấng và giáo dục
con cái
Nay nghiêm cấm việc đánh chửi, bạc
đãi con cái, bất cứ là con đẻ, con dâu, con nuôi hay là con riêng.
Con trai, con gái, con đẻ, con
nuôi đều có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau.
Con cái phải kính yêu, săn sóc
và nuôi dưỡng cha mẹ.
Điều 15.
– Khi ly hôn, việc chia tài sản phải công bằng, hợp lý,
dựa vào sự đóng góp về công sức của mỗi bên, vào tình hình tài sản và tình trạng
cụ thể của gia đình và phải chú trọng bảo vệ quyền lợi của người vợ, của con
cái và lợi ích sản xuất.
Từ nay khi ly hôn, cấm đòi trả của.
Điều 16.
– Những điều quy định trong Luật hôn nhân và gia đình
ngày 29-12-1959 và những điều quy định trong bản Điều lệ này đều được áp dụng
trong khu tự trị Việt Bắc.
Điều 17.
– Ai vi phạm Điều lệ này sẽ bị xử lý theo pháp luật.
Điều 18.
- Ủy ban hành chính khu tự trị Việt Bắc ra chỉ thị cụ
thể hướng dẫn thi hành Điều lệ này.
Điều lệ này đã được Ủy ban
thuờng vụ Quốc hội phê chuẩn ngày 18 tháng 4 năm 1968.