|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Số hiệu:
|
03/2005/CT-TTg
|
|
Loại văn bản:
|
Chỉ thị
|
Nơi ban hành:
|
Thủ tướng Chính phủ
|
|
Người ký:
|
Phạm Gia Khiêm
|
Ngày ban hành:
|
25/02/2005
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Số công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
03/2005/CT-TTg
|
Hà
Nội, ngày 25 tháng 2 năm 2005
|
CHỈ THỊ
VỀ TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI QUAN HỆ HÔN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
Ngày 10 tháng 7 năm 2002, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 68/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nưước
ngoài. Qua hơn hai năm triển khai thực hiện Nghị định, việc xác lập quan hệ hôn
nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nưước ngoài đã có nhiều chuyển
biến tích cực so với trước đây, phù hợp với bối cảnh mở rộng quan hệ giữa nước
ta với nước ngoài.
Tuy nhiên, việc kết hôn giữa phụ
nữ Việt Nam với
ngưười nước ngoài vẫn còn một số tồn tại sau đây:
Ở một số tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, nhiều trưường hợp kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước
ngoài, đặc biệt với người Đài Loan, đã được tiến hành một cách vội vã, không bảo
đảm nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; hoặc, phụ nữ Việt Nam vượt biên
trái phép sang chung sống như vợ chồng với công dân nước láng giềng mà không
đăng ký kết hôn.
Hoạt động kinh doanh môi giới kết
hôn nhằm mục đích trục lợi của một số tổ chức, cá nhân diễn ra dưới nhiều hình
thức trá hình, tinh vi, gây mất trật tự xã hội. Nhiều trưường hợp môi giới kết
hôn đã làm hạ thấp danh dự, nhân phẩm của phụ nữ Việt Nam,
xâm phạm nghiêm trọng thuần phong, mỹ tục của dân tộc, làm ảnh hưởng đến uy tín
quốc gia.
Phần lớn phụ nữ Việt Nam trưước
khi ra nước ngoài sinh sống cùng chồng chưa được tư vấn đầy đủ để có những hiểu
biết cần thiết về pháp luật, ngôn ngữ, phong tục, tập quán của nước sở tại; do
đó, đã gặp nhiều khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng và ổn định cuộc sống
ở nước ngoài. Một số phụ nữ Việt Nam sau khi ra nước ngoài bị rơi vào hoàn cảnh
bất hạnh nhưng chưưa được pháp luật nước sở tại bảo vệ kịp thời.
Thực trạng nêu trên xảy ra do
nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do công tác quản lý nhà nước đối với
quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài chưa được thực hiện tốt, việc
xử lý những vi phạm, tiêu cực trong lĩnh vực này chưa nghiêm, chưa kịp thời.
Để khắc phục tình trạng này,
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu
tố nước ngoài, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị:
1. Các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp cần nhận thức
sâu sắc rằng tình hình phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài là một vấn
đề liên quan đến nhiều mặt của đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, trật
tự xã hội, đối ngoại. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan
nói trên cần tăng cường thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các
cơ quan và địa phương có liên quan để có biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời tổ
chức, cá nhân sai phạm, chấm dứt ngay tình trạng môi giới kết hôn bất hợp pháp,
làm lành mạnh hoá các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, bảo đảm
thực hiện nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, góp phần xây dựng gia đình hạnh
phúc, bền vững; tôn trọng, giữ gìn những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam, góp phần bảo vệ uy tín của dân tộc Việt Nam và của Nhà nước Việt Nam
trong quan hệ quốc tế.
2. Bộ Tưư pháp
có trách nhiệm:
a) Tăng cường hướng dẫn, chỉ đạo,
kiểm tra, thanh tra các địa phương trong việc thụ lý, giải quyết các hồ sơ đăng
ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; kịp thời chấn chỉnh những
lệch lạc, tiêu cực trong công tác này. Chỉ đạo các Sở Tư pháp thực hiện nghiêm
túc quy định không chấp nhận việc nộp hồ sơ đăng ký kết hôn qua người thứ ba;
quy định xác minh, phỏng vấn các bên đương sự trong trường hợp nghi vấn hoặc có
khiếu nại, tố cáo đương sự kết hôn giả tạo, lợi dụng việc kết hôn nhằm mục đích
mua bán phụ nữ, kết hôn vì mục đích trục lợi khác hoặc xét thấy có vấn đề cần
làm rõ về nhân thân của đương sự hoặc giấy tờ trong hồ sơ đăng ký kết hôn, góp
phần loại trừ những trường hợp kết hôn không bảo đảm nguyên tắc hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ.
b) Chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại
giao và các cơ quan có liên quan xác lập cơ chế thông tin về tình hình sinh sống
của công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài và đang sinh sống ở nước
ngoài; khẩn trương nghiên cứu, đề xuất việc đàm phán, ký kết thỏa thuận với các
nước hữu quan để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam kết
hôn với người nước ngoài và đang sinh sống ở nước ngoài trên các phương diện quốc
tịch, cư trú, hôn nhân và gia đình, tài sản... phù hợp với pháp luật của Việt
Nam, pháp luật nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế.
c) Chỉ đạo việc đăng ký khai
sinh và tháo gỡ những vướng mắc về hộ tịch cho trẻ em là con chung của phụ nữ
Việt Nam và người
nước ngoài khi theo mẹ về cư trú ở trong nước.
d) Tổ chức biên soạn các tài liệu
tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài,
tài liệu hướng dẫn, tư vấn các vấn đề về hộ tịch, quốc tịch của Việt Nam và nước
ngoài nhằm giúp cho các bên kết hôn nhận thức đúng và thực hiện đúng quy định của
pháp luật.
đ) Chủ trì, phối hợp với Bộ Văn
hoá - Thông tin, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Trung ương Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam chỉ đạo việc
tuyên truyền, phổ biến sâu rộng pháp luật về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài, góp phần tạo chuyển biến cơ bản trong nhận thức của nhân dân về vấn đề
này.
e) Tăng cường năng lực của đội
ngũ cán bộ chuyên trách công tác quốc tịch, bảo đảm điều kiện cần thiết để giải
quyết kịp thời các yêu cầu xin thôi quốc tịch Việt Nam của công dân Việt Nam kết
hôn với người nước ngoài.
3. Bộ Công an
có trách nhiệm:
Chỉ đạo cơ quan công an các cấp
tiến hành các biện pháp nghiệp vụ cần thiết và thông qua quan hệ hợp tác, phối
hợp với cảnh sát quốc tế để phát hiện và xử lý nghiêm khắc các tổ chức, cá nhân
có hoạt động môi giới kết hôn bất hợp pháp. Đối với những trường hợp có dấu hiệu
cấu thành tội phạm, kiên quyết khởi tố để xử lý về hình sự.
Từ nay đến cuối quý II năm 2005,
chỉ đạo cơ quan công an một số tỉnh, thành phố trọng điểm mở đợt cao điểm rà
soát, xóa bỏ các tụ điểm giới thiệu cho người nước ngoài xem mặt phụ nữ Việt
Nam muốn kết hôn với người nước ngoài; theo dõi, phát hiện và khẩn trương đưa
ra xử lý những trường hợp môi giới kết hôn bất hợp pháp.
4. Bộ Ngoại
giao có trách nhiệm:
a) Chỉ đạo các cơ quan đại diện
Việt Nam ở nước ngoài nắm chắc tình hình về cuộc sống mọi mặt của cộng đồng phụ
nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài và đang sinh sống ở nước ngoài; phối hợp
với các cơ quan, tổ chức hữu quan của nước sở tại hướng dẫn những phụ nữ này
thành lập các tổ chức, hiệp hội thích hợp nhằm giúp đỡ họ trong việc hòa nhập với
cộng đồng nơi họ đang sinh sống, đồng thời giúp họ giữ mối liên hệ thường xuyên
với Tổ quốc, với gia đình ở Việt Nam.
b) Tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn
các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài tăng cường thực hiện các biện pháp bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ Việt Nam ở nước ngoài trong quan hệ
hôn nhân và gia đình phù hợp với pháp luật nước sở tại và điều ước quốc tế mà
Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; kịp thời có biện pháp bảo vệ và hỗ trợ những phụ
nữ này nếu bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh.
5. Bộ Kế hoạch
và Đầu tư có trách nhiệm:
Chỉ đạo các địa phương tiến hành
việc kiểm tra, phát hiện, xử lý những doanh nghiệp vi phạm quy định cấm kinh
doanh dịch vụ môi giới hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo quy định tại Nghị định
số 125/2004/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2004 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 03/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2000 hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Doanh nghiệp.
6. Bộ Văn hoá -
Thông tin có trách nhiệm:
Chỉ đạo định hưướng thông tin
báo chí về tình hình phụ nữ Việt Nam kết hôn với ngưười nước ngoài, nhất là với
người Đài Loan và người Hàn Quốc, nhằm bảo đảm thông tin chính xác, khách quan,
toàn diện, không nên đăng tải thông tin một chiều; đồng thời, phát huy hơn nữa
vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc đấu tranh chống tiêu
cực, tham gia phát hiện kịp thời những vi phạm trong công tác giải quyết việc
đăng ký kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài.
7. Uỷ ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm:
a) Tăng cường quản lý nhà nước
trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài trên địa bàn tỉnh,
thành phố; kiên quyết xóa bỏ các hoạt động môi giới kết hôn bất hợp pháp, chấm
dứt tình trạng kết hôn vi phạm nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, vi phạm
truyền thống văn hoá và phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải chịu trách nhiệm nếu để xảy ra hoạt động môi giới
kết hôn bất hợp pháp tại địa phương.
b) Uỷ ban nhân dân các tỉnh khu
vực biên giới có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan hữu quan tại địa phương tăng
cường kiểm soát khu vực biên giới, đẩy mạnh công tác quản lý dân cư để ngăn ngừa,
chấm dứt tình trạng công dân Việt Nam vượt biên trái phép qua biên giới để
chung sống như vợ chồng với công dân nước láng giềng mà không đăng ký kết hôn;
đẩy mạnh tuyên truyền và thực hiện việc đăng ký kết hôn ở các xã biên giới theo
quy định tại Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nưước ngoài.
c) Rà soát đội ngũ cán bộ trực
tiếp làm công tác giải quyết việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài, trên cơ sở đó tăng cường bố trí cán bộ có đủ năng lực, phẩm
chất và trình độ chuyên môn làm công tác này; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm
khắc những cán bộ có hành vi tiêu cực trong việc giải quyết việc đăng ký kết
hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài.
d) Xây dựng và chỉ đạo thực hiện
kế hoạch đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và truyền thống văn
hoá tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
về hôn nhân và gia đình tới từng làng, xóm, thôn, bản, ấp, phum, sóc.
đ) Hỗ trợ Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp
tỉnh trong việc thành lập Trung tâm Hỗ trợ kết hôn theo quy định tại Nghị định
số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình
có yếu tố nưước ngoài.
8. Đề nghị
Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam:
a) Chủ trì, phối hợp với Bộ Tư
pháp, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em hướng dẫn về tổ
chức và hoạt động của các Trung tâm Hỗ trợ kết hôn, hỗ trợ các Trung tâm này hoạt
động có hiệu quả, góp phần bảo đảm việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người
nước ngoài đúng pháp luật và lành mạnh.
b) Chỉ đạo, hướng dẫn Hội Liên
hiệp Phụ nữ cấp tỉnh trong việc thành lập Trung tâm Hỗ trợ kết hôn tại các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương theo quy định của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP
ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nưước
ngoài. Trước mắt, tập trung chỉ đạo việc thành lập và đưa vào hoạt động Trung
tâm Hỗ trợ kết hôn tại một số tỉnh có số lượng lớn phụ nữ Việt Nam kết hôn với
người nước ngoài.
9. Các Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ và Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi
hành Chỉ thị này.
Bộ Tư pháp có trách nhiệm theo
dõi, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện Chỉ thị này, kịp thời
báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Directive No.03/2005/CT-TTg of February 25, 2005 on enhancing The State Management over marriage and family relations involving foreign elements
THE
PRIME MINISTER OF GOVERNMENT
-------
|
SOCIALIST
REPUBLIC OF VIET NAM
Independence
- Freedom - Happiness
----------
|
No. 03/2005/CT-TTg
|
Hanoi,
February 25, 2005
|
DIRECTIVE ON ENHANCING THE STATE MANAGEMENT OVER MARRIAGE AND FAMILY RELATIONS
INVOLVING FOREIGN ELEMENTS On
July 10, 2002, the Government issued Decree No. 68/2002/ND-CP detailing the
implementation of a number of articles of the Marriage and Family Law on
marriage and family relations involving foreign elements. After more than two
years' implementation of the Decree, the establishment of marriage and family
relations between Vietnamese citizens and foreigners has seen many positive
changes as compared with the past, which suited the context of expanding ties
between Vietnam
and foreign countries. However,
marriages between Vietnamese women and foreigners still see some problems as
follows: In
some provinces or centrally-run cities, many cases of marriage between
Vietnamese women and foreigners, especially Taiwanese, have been conducted
hastily, ignoring the principle of voluntary and progressive marriage; or
Vietnamese women have illegally crossed borders to live like husbands and wives
with citizens of neighboring countries without making marriage registrations. Marriage
intermediation activities for self-seeking purposes by some organizations and
individuals have occurred in various disguised and sophisticated forms, thus
causing social disorder. In many cases, marriages through brokerage have
damaged the honor and dignity of Vietnamese women, seriously disrupted the
nation's fine traditions and customs, and badly affected the national
reputation. Most
Vietnamese women, before going abroad to live with their husbands, had not been
adequately advised to acquire necessary knowledge about laws, languages,
traditions and customs of host countries, and have, therefore, met with
numerous difficulties in integrating themselves into community and stabilizing
their life in foreign countries. The
above-said situation is attributable to many reasons, including poor State
management over marriage and family relations involving foreign elements and
instrict and untimely handling of violations and negative acts in this domain. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. 1. The
ministries, the ministerial-level agencies, the Government-attached agencies
and the People's Committees of all levels should be aware that the situation of
marriages between Vietnamese women and foreigners constitutes an issue related
to many aspects of the economic, cultural and social life, as well as social
security and order and external relations. Within the ambit of their respective
functions and tasks, the said agencies should enhance the performance of their
function of State management over marriage and family relations involving
foreign elements, closely and effectively coordinate with concerned agencies
and localities in taking measures to prevent and promptly handle violating
organizations and individuals, put an end to the illegal marriage brokerage,
make healthy the marriage and family relations involving foreign elements, and
ensure the observance of the principle of voluntary and progressive marriage,
thus contributing to building happy and stable families, observing and
preserving the fine traditions and customs of the Vietnamese nation, and
contributing to protecting the reputation of the Vietnamese nation and the
Vietnamese State in international relations. 2. The
Ministry of Justice has the responsibilities: a) To
enhance the guidance, direction, examination and inspection of localities in
the work of accepting and handling dossiers for registration of marriages
between Vietnamese citizens and foreigners; and promptly redress deviations and
negative phenomena in this work. To direct provincial/municipal Justice
Services in seriously observing regulations on non-acceptance of marriage
registration dossiers filed through third parties; to promulgate regulations on
verification and interviewing of involved parties in case of suspicion or
complaint or denunciation about sham marriages, or taking advantage of
marriages for women trafficking or marriages for other self-seeking purposes,
or in cases where they deem it necessary to further clarify personal
identifications of involved parties or papers in marriage registration
dossiers, thus contributing to precluding cases where marriage fails to comply
with the principle of voluntary and progressive marriage. b) To
assume the prime responsibility for, and coordinate with the Ministry of
Foreign Affairs and the concerned agencies in formulating a mechanism of
information on the current life of Vietnamese citizens who have married foreigners
and are living in foreign countries; expeditiously studying and proposing the
negotiation and conclusion of agreements with concerned countries to protect
the legitimate rights and interests of Vietnamese citizens, who have married
foreigners and are living in foreign countries, in terms of nationality,
residence, marriage and family, property, etc., in accordance with Vietnamese
law, laws of host countries, international laws and practices. c) To
direct the registration of births and resolution of problems related to civil
status of children of Vietnamese women and foreigners when they, together with
their mothers, return to reside in Vietnam. d) To
organize the compilation of documents for propagation and dissemination of law
provisions on marriage and family relations involving foreign elements,
documents providing guidance and consultations on nationality and civil status
of Vietnam
and foreign countries so as to help the marital parties correctly understand
and implement provisions of law. e) To
assume the prime responsibility for, and coordinate with the Ministry of
Culture and Information, the Central Committee of Vietnam Women Union, the
Central Committee of Ho Chi Minh Communist Youth Union and the Central
Committee of Vietnam Peasants' Association in directing the dissemination and
popularization of law provisions on marriage and family relations involving
foreign elements, thus contributing to creating a substantial improvement in
people's awareness about this domain. f) To
raise the capability of the contingent of full-time officials in charge of
nationality work, and ensure necessary conditions for promptly settling
applications for relinquishment of Vietnamese nationality by Vietnamese
citizens who wish to marry foreigners. 3. The
Ministry of Public Security has the responsibilities: ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. From
now till the end of the second quarter of 2005, to direct the police offices in
some key provinces and centrally-run cities in launching intensive campaigns to
scrutinize and eliminate rendezvous places where Vietnamese women who wish to
marry foreigners are recommended to foreigners; to watch for, detect and
promptly handle cases of illegal marriage brokerage. 4. The
Ministry of Foreign Affairs has the responsibilities: a) To
direct foreign-based Vietnamese representations in firmly grasping all aspects
of life of the community of Vietnamese women married to foreigners and
currently living in foreign countries; to coordinate with the concerned
agencies and organizations of host countries in guiding these women in setting
up appropriate organizations or societies to help themselves integrate into the
communities where they live, and maintain their regular contacts with their
home country and families. b) To
continue directing and guiding the foreign-based Vietnamese representations in
intensifying the application of measures to protect the legitimate rights and
interests of Vietnamese women in foreign countries in marriage and family
relations in compliance with laws of host countries and international
agreements which Vietnam has signed or acceded to; to promptly take measures to
protect and assist these women when they fall into miserable plights. 5. The
Ministry of Planning and Investment has the responsibilities: To
direct localities in conducting the inspection, detection and handling of
enterprises which violate the provisions on prohibition of provision of
brokerage services of marriage involving foreign elements of the Government's
Decree No. 125/2004/ND-CP dated May 19, 2004 amending and supplementing a
number of articles of Decree No.03/2000/ND-CP dated February 3, 2000 guiding
the implementation of a number of articles of the Enterprise Law. 6. The
Ministry of Culture and Information has the responsibilities: To
direct press information on the situation of Vietnamese women who have married
foreigners, especially Taiwanese and South Koreans, in order to ensure
accurate, objective and comprehensive information, and to avoid the publication
of one-way information; and at the same time, to further promote the role of
the mass media in fighting negative acts and promptly detecting violations in
the registration of marriages between Vietnamese women and foreigners. 7. The
People's Committees of the provinces or centrally-run cities have the
responsibilities: ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. marriage
brokerage activities, thus putting an end to the situation of marriages
violating the principle of voluntary and progressive marriage, fine traditions
and customs of the Vietnamese nation. The presidents of provincial-level
People's Committees must bear responsibility for the occurrence of illegal
marriage brokerage activities in their respective localities. b) The
People's Committees of the border provinces shall have to direct concerned
agencies in their localities in enhancing the control in border areas and
stepping up the management of population in order to prevent and put an end to
the situation that Vietnamese citizens illegally cross borders to live with
citizens of neighboring countries as spouses without marriage registrations;
step up the propagation about and making of marriage registrations in border
communes according to the provisions of the Government's Decree No.
68/2002/ND-CP dated July 10, 2002 detailing the implementation of a number of articles
of the Marriage and Family Law on marriage and family relations involving
foreign elements. c) To
rearrange the contingent of officials personally engaged in the work of
registration of marriages between Vietnamese citizens and foreigners, thereby to
arrange fully capable and professionally qualified officials for this work; to
promptly detect and stringently handle officials who commit negative acts in
the registration of marriages between Vietnamese citizens and foreigners. d) To
elaborate and direct the implementation of the plans to step up propagation,
dissemination and education of laws and fine cultural traditions of the
Vietnamese nation in marriage and family to each village or hamlet. e) To
support the provincial-level Women Union chapters in establishing marriage
assistance centers under the Government's Decree No. 68/2002/ND-CP dated July
10, 2002 detailing the implementation of a number of articles of the Marriage
and Family Law on marriage and family relations involving foreign elements. 8. The
Central Committee of Vietnam
Women Union is requested to: a)
Assume the prime responsibility for, and coordinate with the Ministry of
Justice, the Ministry of Home Affairs, the Ministry of Finance and the
Population, Family and Children Committee in guiding the organization and
operation of the marriage assistance centers and supporting them to efficiently
operate, thus contributing to guaranteeing that marriages between Vietnamese
citizens and foreigners are compliant with law and healthy. b)
Direct and guide the provincial-level Women Union chapters in establishing
marriage assistance centers in the provinces or centrally-run cities under the
Government's Decree No. 68/2002/ND-CP dated July 10, 2002 detailing the
implementation of a number of articles of the Marriage and Family Law on
marriage and family relations involving foreign elements. In the immediate
future, direction should focus on the establishment and putting into operation
of marriage assistance centers in some provinces where Vietnamese women wishing
to marry foreigners are in large numbers. 9. The
ministers, the heads of the ministerial-level agencies, the heads of the
Government-attached agencies and the presidents of the People's Committees of
the provinces or centrally-run cities shall have to implement this Directive. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. FOR
THE PRIME MINISTER
DEPUTY PRIME MINISTER
Pham Gia Khiem
Directive No.03/2005/CT-TTg of February 25, 2005 on enhancing The State Management over marriage and family relations involving foreign elements
1.163
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
inf[email protected]
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|