TUYÊN BỐ
VỀ PHÁT TRIỂN VÀ TIẾN BỘ XÃ HỘI, 1969
(Được Đại Hội
đồng Liên Hợp Quốc thông qua theo Nghị quyết 2542 (XXIV) ngày 11/12/1969).
Đại
Hội đồng,
Lưu
ý rằng, trong Hiến chương các thành viên Liên Hợp Quốc đã cam kết
tiến hành những hành động chung và riêng nhằm phối hợp với Liên Hợp Quốc thúc đẩy
mức sống cao hơn, việc làm đầy đủ cùng các điều kiện về phát triển và tiến bộ về
kinh tế, xã hội;
Khẳng
định lại niềm tin vào các quyền và tự do cơ bản của con người, vào
các nguyên tắc về hòa bình, phẩm giá và giá trị của con người cũng như về công
bằng xã hội đã được nêu trong Hiến chương;
Nhắc
lại các nguyên tắc trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người,
các Công ước quốc tế về quyền con người, Tuyên bố về quyền trẻ em, Tuyên bố về
trao trả độc lập cho các nước và dân tộc thuộc địa, Công ước quốc tế về loại bỏ
mọi hình thức phân biệt chủng tộc, Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về loại bỏ mọi
hình thức phân biệt chủng tộc, Tuyên bố về thúc đẩy các tư tưởng về hòa bình
tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau trong thanh niên, Tuyên bố về loại bỏ sự phân
biệt đối xử với phụ nữ, cùng các nghị quyết có liên quan của Liên Hợp Quốc;
Ghi
nhớ các chuẩn mực về tiến bộ xã hội đã được đặt ra trong Điều lệ
các công ước, khuyến nghị và nghị quyết của Tổ chức Lao động quốc tế; Tổ chức
Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hợp Quốc; Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hóa của Liên Hợp Quốc; Tổ chức Y tế thế giới; Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc và các
tổ chức liên quan khác;
Tin
tưởng rằng, con người chỉ có thể thực hiện được đầy đủ nguyện vọng
của mình trong một trật tự xã hội công bằng, và do vậy, điều quan trọng cơ bản
là phải tăng cường sự phát triển kinh tế, xã hội ở mọi nơi, theo đó đóng góp
vào hòa bình và đoàn kết quốc tế;
Nhận
thức rằng, cả hòa bình, an ninh quốc tế và phát triển kinh tế tiến
bộ xã hội có sự gắn bó chặt chẽ và ảnh hưởng lẫn nhau;
Nhận
thức rằng, phát triển xã hội chỉ có thể được thúc đẩy thông qua
cùng tồn tại hòa bình, quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia có hệ thống
chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau;
Nhấn
mạnh sự phụ thuộc lẫn nhau của việc phát triển kinh tế và xã hội
trong tiến trình tăng trưởng và thay đổi rộng rãi, cũng như tầm quan trọng của
một chiến lược phát triển hội nhập, có tính đến mọi giai đoạn của các lĩnh vực
xã hội;
Tiếc
rằng, cho dù các quốc gia và cộng đồng quốc tế đã có những nỗ lực
nhưng tình hình xã hội thế giới vẫn chưa đạt được những tiến bộ thích đáng;
Ghi
nhận rằng, trách nhiệm đầu tiên với phát triển của các nước đang
phát triển là ở chính những quốc gia này và nhận thức về nhu cầu bức thiết phải
thu hẹp, và thậm chí, loại bỏ khoảng cách về mức sống giữa các nước phát triển
và đang phát triển về kinh tế, và vì vậy, các Quốc gia thành viên cần có trách
nhiệm tuân thủ những chính sách đối nội và đối ngoại nhằm thúc đẩy tiến bộ xã hội
trên toàn thế giới, đặc biệt là để hỗ trợ các nước đang phát triển nâng cao mức
tăng trưởng kinh tế;
Ghi
nhận tính cấp thiết phải dành những nguồn lực đang sử dụng một cách
lãng phí vào các cuộc xung đột vũ trang và hủy diệt cho công việc hòa bình và
tiến bộ xã hội;
Nhận
thức về sự đóng góp mà khoa học kỹ thuật có thể mang lại nhằm đáp ứng
nhu cầu chung của loài người;
Tin
tưởng rằng, nhiệm vụ đầu tiên của tất của các quốc gia và tổ chức
quốc tế là loại bỏ mọi tội ác và trở ngại đối với tiến bộ xã hội khỏi đời sống
xã hội đặc biệt là những tội ác như bất bình đẳng, bóc lột chiến tranh, chủ
nghĩa thuộc địa và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc;
Mong
muốn thúc đẩy tiến bộ của loài người theo những mục tiêu này và vượt
qua mọi trở ngại trong quá trình thực hiện;
Trịnh
trọng công bố bản Tuyên bố về phát triển và tiến bộ xã hội này, đồng
thời kêu gọi các quốc gia và cộng đồng quốc tế hành động, sử dụng nó như một cơ
sở chung của chính sách phát triển xã hội:
PHẦN 1: CÁC NGUYÊN TẮC
Điều 1.
Mọi dân tộc và mọi người đều
có quyền được sống trong phẩm giá và tự do, được hưởng thành quả của các tiến bộ xã hội, và về phần mình, phải đóng góp cho
thành quả đó, không có sự phân biệt về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ,
tôn giáo, dân tộc, nguồn gốc chủng tộc, gia đình hay địa vị xã hội, chính kiến
hay các vấn đề khác.
Điều
2.
Phát
triển và tiến bộ xã hội cần dựa trên cơ sở tôn trọng phẩm giá và giá trị của
con người, và để đảm bảo việc thúc đẩy các quyền con người và công bằng xã hội
cần:
1. Loại bỏ ngay lập
tức và triệt để mọi hình thức bất bình đẳng bóc lột các dân tộc và các cá nhân,
chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, bao gồm chủ nghĩa phát xít
và a-pác-thai, cũng như mọi chính sách và tư tưởng đối lập với các mục đích và
nguyên tắc của Liên Hợp Quốc;
2. Ghi nhận và thực hiện
có hiệu quả các quyền dân sự và chính trị cũng như quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào.
Điều
3.
Sau
đây là những điều kiện tiên quyết cho phát triển và tiến bộ xã hội:
1. Độc lập dân tộc dựa
trên quyền tự quyết dân tộc;
2. Bảo đảm nguyên tắc
không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia;
3. Tôn trọng chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia;
4. Chủ quyền vĩnh viễn
của mỗi quốc gia đối với tài nguyên và nguồn lợi tự nhiên của mình;
5. Quyền và trách nhiệm
của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và mỗi người được tự do quyết định mục tiêu phát
triển xã hội của mình, được tự đặt ra chính sách ưu tiên và được quyết định các
phương tiện và biện pháp để thực hiện phù hợp với các nguyên tắc của Hiến
chương Liên Hợp Quốc mà không chịu bất kỳ sự can thiệp nào từ bên ngoài;
6. Cùng tồn tại hòa
bình, duy trì quan hệ hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia, bất kể sự
khác biệt về hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội của các quốc gia đó.
Điều
4.
Gia
đình với tư cách là đơn vị cơ bản của xã hội và là môi trường tự nhiên cho sự
phát triển và hạnh phúc của mọi thành viên đặc biệt là trẻ em và thanh niên cần
được hỗ trợ và bảo vệ để đảm đương đầy đủ trách nhiệm của mình trong cộng đồng.
Cha mẹ có quyền tự do và có trách nhiệm quyết định về số con và khoảng cách giữa
các con.
Điều
5.
Phát
triển và tiến bộ xã hội đòi hỏi phải sử dụng đầy đủ nguồn lực con người đặc biệt
kể cả:
1. Khuyến khích
ý tưởng sáng tạo của công chúng;
2. Tuyên truyền, phổ biến
thông tin trong nước và quốc tế để mọi người nhận thức được những
thay đổi trong toàn xã hội một cách toàn diện;
3. Bảo đảm sự tham gia
tích cực của mọi nhân tố trong xã hội thông qua cá nhân hoặc tổ chức để xác định
và đi đến những mục tiêu phát triển chung, với sự tôn trọng đầy đủ các quyền tự
do cơ bản đã được thể hiện trong Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người.
4. Đảm bảo cho những bộ
phận dân cư khó khăn hoặc phải ở bên lề xã hội được có cơ hội bình đẳng trong
việc hưởng thụ những tiến bộ về kinh tế và xã hội nhằm đi đến một xã hội hòa nhập
thực sự.
Điều
6.
Phát
triển xã hội đòi hỏi phải đảm bảo cho mọi người có quyền làm việc và được tự do
lựa chọn việc làm.
Phát triển và tiến
bộ xã hội đòi hỏi sự tham gia của mọi thành viên trong xã hội vào hoạt động
sản xuất và lao động xã hội một cách hữu ích và hiệu quả, phù hợp với quyền và
tự do cơ bản của con người, với các nguyên tắc về công bằng, và chức năng xã hội,
về tài sản, về các hình thức sở hữu đất đai và về phương tiện sản xuất để xóa bỏ
mọi hình thức bóc lột con người, đảm bảo quyền bình đẳng về sở hữu cho tất cả mọi
người và tạo điều kiện để đi đến sự bình đẳng thực sự giữa mọi người.
Điều
7.
Sự
tăng lên nhanh chóng về thu nhập và của cải quốc gia và việc phân phối công bằng
giữa các thành viên trong xã hội là nền tảng của mọi tiến bộ xã hội, và do vậy,
chúng phải là mối quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia và chính phủ.
Sự cải thiện về vị trí
của các quốc gia đang phát triển trong thương mại quốc tế nhờ những thành tựu đạt
được về điều kiện thuận lợi trong thương mại, về sự công bằng và giá cả ưu đãi
để các nước đang phát triển bán sản phẩm của mình là cần thiết để tăng thu nhập
quốc gia và đạt tới sự phát triển, tiến bộ xã hội.
Điều
8.
Mọi
chính phủ có vai trò tiên quyết và trách nhiệm cơ bản trong việc đảm bảo tiến bộ
xã hội và hạnh phúc cho nhân dân của mình, trong việc đưa ra các biện pháp phát
triển xã hội như là một phần của kế hoạch phát triển tổng hợp, động viên và phối
hợp cũng như tập trung mọi nỗ lực trong nước nhằm mục đích này, đề xuất những
thay đổi cơ cấu xã hội cần thiết. Đối với việc hoạch định các biện pháp phát
triển xã hội, cần xem xét đầy đủ sự đa dạng của nhu cầu ở khu vực phát triển,
đang phát triển, khu vực thành thị, nông thôn.
Điều
9.
Phát
triển và tiến bộ xã hội là mối quan tâm chung của cộng đồng quốc tế, thông qua
hành động phối hợp quốc tế để bổ sung cho nỗ lực của các quốc gia nhằm nâng cao
mức sống của nhân dân.
Tiến bộ xã hội và tăng
trưởng kinh tế đòi hỏi cần ghi nhận lợi ích chung của mọi dân tộc trong việc
thăm dò, gìn giữ, sử dụng và khai thác ở những khu vực như khoảng không ngoài
vũ trụ, đáy biển, thềm lục địa và tầng lục địa ở đó, để phục vụ mục đích hòa
bình và lợi ích của loài người. Việc này nằm ngoài giới hạn thẩm quyền của một
quốc gia và phải phù hợp với mục đích và nguyên tắc của Liên Hợp Quốc.
PHẦN
2: MỤC TIÊU
Điều
10.
Phát
triển và tiến bộ xã hội là nhằm mục đích tiếp tục nâng cao mức sống về vật chất
và tinh thần cho mọi thành viên trong xã hội, tôn trọng và phù hợp với quyền và
các tự do cơ bản của con người thông qua việc thực hiện các mục tiêu cơ bản sau
đây:
1. Đảm bảo ở mọi cấp độ
quyền làm việc, quyền thành lập công đoàn và lập hội của công nhân, quyền
thương lượng tập thể cho tất cả mọi người; thúc đẩy việc tạo nghề một cách đầy
đủ, xóa bỏ nạn thất nghiệp và vô nghề nghiệp; tạo lập điều kiện làm việc công bằng
và thuận lợi cho mọi người, kể cả việc cải thiện sức khỏe và các điều kiện an
toàn; đảm bảo thù lao công bằng không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào cho người
lao động cũng như mức lương tối thiểu đủ để đảm bảo một mức sống thích đáng; bảo
vệ người tiêu dùng.
2. Loại trừ nạn đói và
suy dinh dưỡng, đảm bảo quyền được có chất dinh dưỡng đầy đủ.
3. Loại trừ đói nghèo,đảm
bảo cải thiện đáng kể mọi mức sống và phân phối thu nhập công bằng và bình đẳng.
4. Bảo đảm quyền đạt tới
chuẩn mực cao nhất về sức khỏe và có chế độ bảo vệ sức khỏe cho toàn bộ dân
chúng, nếu có thể thì miễn phí.
5. Xóa bỏ nạn mù chữ
và đảm bảo quyền được tham gia rộng rãi vào đời sống văn hóa, đảm bảo quyền
giáo dục bắt buộc, miễn phí ở cấp tiểu học và nền giáo dục miễn phí ở tất cả
các cấp, kéo dài thời gian đến trường của các cấp nói chung.
6. Cung cấp cho mọi
người, đặc biệt là những nhóm thu nhập thấp và các gia đình đông người các dịch
vụ công cộng và nhà ở đầy đủ.
Điều
11.
Phát
triển và tiến bộ xã hội nhằm đạt được những tiến bộ như nhau ở các mục tiêu
sau:
1. Cung cấp một hệ thống
an sinh xã hội toàn diện và các dịch vụ phúc lợi xã hội; thiết lập và cải thiện
hệ thống an sinh xã hội và hệ thống bảo hiểm cho tất cả những người ốm đau,
khuyết tật, tuổi già đang tạm thời hoặc vĩnh viễn không còn khả năng kiếm sống,
nhằm đảm bảo một mức sống thích đáng cho những người này cùng gia đình và những
người sống phụ thuộc vào họ;
2. Bảo vệ các quyền của
bà mẹ và trẻ em; quan tâm đến việc dạy dỗ và sức khỏe của trẻ em; đưa ra các biện
pháp để bảo vệ sức khỏe và phúc lợi cho phụ nữ, đặc biệt là cho các bà mẹ lao động
đang trong thời kỳ mang thai và nuôi con nhỏ, cũng như các bà mẹ mà thu nhập của
họ là nguồn sống duy nhất của gia đình; cho phép phụ nữ được mang thai, nghỉ đẻ
và hưởng trợ cấp mà không bị mất việc hay lương bổng;
3. Bảo vệ các quyền
và đảm bảo phúc lợi cho trẻ em, người già và người khuyết tật; có sự
bảo vệ cho những người gặp khó khăn về thể chất, tinh thần;
4. Giáo dục
và thúc đẩy cho thanh niên tư tưởng về công lý và hòa bình, về sự tôn
trọng và hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc; thúc đẩy sự tham gia đầy đủ của
thanh niên vào tiến trình phát triển của dân tộc;
5. Có các biện pháp
phòng vệ xã hội và loại trừ những điều kiện dẫn đến tội ác và phạm tội, nhất là
phạm tội ở tuổi vị thành niên;
6. Đảm bảo cho tất cả mọi
người nhận thức được các quyền và bổn phận của mình, được nhận sự hỗ trợ cần
thiết khi thực hiện và bảo vệ các quyền của mình mà không có bất kỳ hình thức
phân biệt đối xử nào.
Điều
12.
Phát
triển và tiến bộ xã hội tiếp tục hướng tới đạt được các mục tiêu cơ bản sau:
1. Tạo điều kiện để
phát triển kinh tế và xã hội một cách bền vững và nhanh chóng, nhất là ở các nước
đang phát triển; thay đổi quan hệ kinh tế quốc tế, có những biện pháp mới và hiệu
quả trong hợp tác quốc tế, trong đó bình đẳng về cơ hội được coi là đặc quyền
giữa các dân tộc và giữa các cá nhân trong dân tộc đó;
2. Loại bỏ mọi hình thức
phân biệt đối xử và bóc lột cùng mọi thói quen và tư tưởng đối lập với các mục
tiêu và nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc;
3. Loại bỏ mọi hình thức
bóc lột kinh tế nước ngoài đặc biệt là việc thực hiện tư bản độc quyền quốc tế
nhằm làm cho mọi người dân của mọi nước đều được hưởng thụ một cách đầy đủ những
nguồn lợi từ nguồn tài nguyên của quốc gia mình.
Điều
13.
Phát
triển và tiến bộ xã hội nhằm đạt được những mục tiêu cơ bản cuối cùng như sau:
1. Chia sẻ công bằng
những tiến bộ của khoa học kỹ thuật giữa các nước phát triển và đang phát
triển, tăng đều đặn việc sử dụng khoa học và kỹ thuật vì lợi ích của phát triển
trong xã hội;
2. Tạo sự cân đối
hài hòa giữa tiến bộ về vật chất, khoa học, kỹ thuật và tiến
bộ về đạo đức, văn hóa, tinh thần và trí tuệ của con
người;
3. Bảo vệ và cải thiện
môi trường con người.
PHẦN
III: PHƯƠNG TIỆN VÀ BIỆN PHÁP
Dựa trên cơ sở các
nguyên tắc đã được nêu ra trong Tuyên bố này, để đạt được những mục tiêu về
phát triển và tiến bộ xã hội, đòi hỏi cần huy động mọi nguồn lực cần thiết
thông qua các hành động quốc gia và quốc tế, trong đó, đặc biệt lưu ý tới các
phương tiện và mục tiêu sau:
Điều
14.
1. Coi kế hoạch phát triển và tiến bộ xã hội như là một phần
thống nhất cân đối trong toàn bộ kế hoạch phát triển;
2. Ở nơi cần thiết,
thành lập hệ thống quốc gia để xây dựng và thực hiện các chương trình, chính
sách xã hội, thúc đẩy kế hoạch phát triển khu vực của các quốc gia liên quan,
xem xét đến những điều kiện và nhu cầu khác biệt của khu vực, đặc biệt là sự
phát triển của những khu vực kém thuận lợi và chưa phát triển so với các nước
khác;
3. Thúc đẩy các nghiên
cứu xã hội cơ bản và các nghiên cứu xã hội ứng dụng, đặc biệt là những nghiên cứu
so sánh quốc tế để lên kế hoạch và thực hiện các chương trình phát triển xã hội.
Điều
15.
1. Thông qua các biện pháp thích hợp để đảm bảo sự tham gia có
hiệu quả của mọi nhân tố trong xã hội vào việc chuẩn bị và thực hiện các kế hoạch
và chương trình quốc gia về phát triển kinh tế xã hội;
2. Thông qua các biện pháp
để làm tăng tỷ lệ dân số tham gia vào đời sống chính trị, văn hóa kinh tế, xã hội
thông qua các cơ quan quốc gia thuộc chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, hợp
tác xã, hiệp hội nông thôn, các tổ chức của người lao động và người sử dụng lao
động, các tổ chức của phụ nữ thanh niên bằng các biện pháp như các chương trình
khu vực và quốc gia vì sự tiến bộ kinh tế, xã hội và phát triển cộng đồng, nhằm
đạt tới một xã hội quốc gia thống nhất, thúc đẩy quá trình ổn định xã hội và củng
cố hệ thống dân chủ;
3. Huy động ý kiến
của công chúng, ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế để ủng hộ các nguyên tắc và mục
tiêu về phát triển và tiến bộ xã hội;
4. Tuyên truyền thông
tin xã hội, ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế để làm cho mọi người nhận thức
được toàn bộ những thay đổi của tình hình xã hội và để giáo dục người tiêu
dùng.
Điều
16.
1. Huy động ở mức tối đa tất các nguồn tài nguyên quốc gia và
sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả, thúc đẩy đầu tư sản xuất nhanh và mạnh trên
các lĩnh vực kinh tế xã hội, thúc đẩy việc làm; đưa xã hội vào tiến trình phát
triển;
2. Tăng dần việc cung
cấp lượng ngân sách cần thiết và các nguồn lực khác để làm nguồn tài
chính cho các nhân tố phát triển xã hội;
3. Đạt tới sự phân phối
công bằng thu nhập quốc gia, sử dụng hệ thống tài chính và chi tiêu của chính
phủ như một công cụ để phân phối công bằng và phân phối lại thu nhập nhằm thúc
đẩy tiến bộ xã hội;
4. Thông qua các biện
pháp nhằm ngăn ngừa thất thoát nguồn vốn ở các nước đang phát triển khi
nó làm tổn hại cho sự phát triển kinh tế, xã hội của những nước đó.
Điều
17.
1. Thông qua các biện pháp để thúc đẩy quá trình công nghiệp
hóa, đặc biệt ở các nước đang phát triển, có sự quan tâm thích đáng đến các
nhân tố xã hội, vì lợi ích của toàn thể dân chúng thúc đẩy sự phát triển của một
tổ chức và hệ thống pháp lý thích hợp để đi đến sự tăng trưởng không ngừng và
đa dạng của các ngành công nghiệp; có những biện pháp để vượt qua những tác động
xã hội tiêu cực do quá trình công nghiệp hóa và phát triển đô thị đem lại, kể cả
quá trình tự động hóa, duy trì sự cân đối hợp lý giữa phát triển thành thị và
nông thôn, đặc biệt đưa ra những biện pháp để đảm bảo điều kiện sống lành mạnh
hơn, nhất là ở các trung tâm công nghiệp lớn;
2. Có kế hoạch thống
nhất để giải quyết những vấn đề về đô thị hóa và phát triển đô thị;
3. Có chương trình
phát triển tổng hợp để nâng cao mức sống cho cư dân nông thôn và tạo điều kiện
thuận lợi cho mối liên hệ thành thị-nông thôn và việc phân bố dân cư để thúc đẩy
sự phát triển cân đối của quốc gia và tiến bộ xã hội;
4. Có biện pháp giám
sát thích hợp việc sử dụng đất đai vì lợi ích xã hội.
Để đạt được những mục
tiêu về phát triển và tiến bộ xã hội một cách công bằng, cần phải thực hiện các
phương tiện và biện pháp sau:
Điều
18.
1. Thông qua các biện pháp lập pháp, hành pháp và các biện
pháp khác để đảm bảo thực hiện đầy đủ không chỉ các quyền dân sự và chính trị
mà còn cả các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cho tất cả mọi người mà không có
bất kỳ sự phân biệt đối xử nào;
2. Thúc đẩy cải cách
thể chế và xã hội trên cơ sở dân chủ thúc đẩy thay đổi cơ bản để loại bỏ mọi
hình thức phân biệt đối xử và bóc lột nhằm đạt đến mức độ tiến bộ kinh tế, xã hội
cao, kể cả cải cách về đất đai, theo đó quy định về quyền sở hữu và sử dụng đất
là để phục vụ tốt nhất các mục tiêu về phát triển kinh tế và công bằng xã hội;
3. Thông qua các biện
pháp để nâng cao và làm phong phú sản lượng nông nghiệp, không kể đến việc
thông qua thực hiện cải cách ruộng đất một cách dân chủ, nhằm đảm bảo cung cấp
thực phẩm đầy đủ và cân đối, phân phối công bằng cho toàn bộ dân chúng, cải thiện
tiêu chuẩn dinh dưỡng;
4. Với sự hỗ trợ của
Chính phủ, thông qua các biện pháp để giới thiệu các chương trình nhà ở giá thấp
ở cả thành thị và nông thôn.
5. Phát triển
và mở rộng hệ thống giao thông, liên lạc đặc biệt ở các nước
đang phát triển.
Điều
19.
1. Cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho toàn thể dân chúng, cung
cấp cơ sở vật chất phòng và chữa bệnh thích hợp cùng các dịch vụ y tế phúc lợi
phù hợp cho tất cả mọi người;
2. Ban hành và thiết lập
các biện pháp lập pháp và quy định hành chính để thực hiện các chương trình tổng
hợp về kế hoạch an toàn xã hội và dịch vụ phúc lợi xã hội và để cải thiện và phối
hợp với các dịch vụ hiện hành;
3. Thông qua các biện
pháp và quy định về dịch vụ phúc lợi xã hội cho người lao động nhập cư và gia
đình của họ, phù hợp với các điều khoản trong Công ước số 97 của Tổ chức Lao động
quốc tế và các văn kiện quốc tế khác liên quan đến người lao động nhập cư;
4. Thiết lập các biện
pháp thích hợp để phục hồi thể chất và tinh thần cho người khuyết tật, nhất là
đối với trẻ em và thanh niên, để họ có thể trở thành thành viên có ích trong xã
hội. Những biện pháp này bao gồm quy định về điều trị và dụng cụ kỹ thuật, giáo
dục, hướng nghiệp và định hướng xã hội, đào tạo và lựa chọn việc làm cũng như
các biện pháp hỗ trợ cần thiết khác. Nhờ đó, tạo ra những điều kiện xã hội để
người khuyết tật không bị phân biệt đối xử do khuyết tật của mình.
Điều
20.
1. Được quyền tự do gia nhập công đoàn một cách dân chủ, đầy đủ;
mọi người lao động đều được tự do lập hội, bao gồm quyền được thương lượng tập
thể và quyền đình công; ghi nhận quyền được thành lập các tổ chức khác của người
lao động cho phép tổ chức công đoàn tham gia ngày càng nhiều vào sự phát triển
kinh tế, xã hội; mọi thành viên trong tổ chức công đoàn được tham gia có hiệu
quả vào việc quyết định các vấn đề kinh tế, xã hội có ảnh hưởng đến lợi ích của
họ.
2. Cải thiện điều kiện
sức khỏe và an toàn lao động cho người lao động thông qua các biện pháp lập
pháp và kỹ thuật thích hợp và cung cấp những điều kiện vật chất tiên quyết để
thực hiện các biện pháp này, kể cả giới hạn về giờ làm việc.
3. Thông qua các biện
pháp thích hợp để phát triển mối quan hệ cân đối về công nghiệp.
Điều
21.
1. Đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức bao gồm cán bộ hành
chính, điều hành, chuyên môn và kỹ thuật cho phát triển xã hội và cho toàn bộ kế
hoạch, chính sách phát triển nói chung;
2. Thông qua các biện
pháp để tăng cường việc mở rộng và cải thiện tổng thể ngành giáo dục kỹ thuật và
dạy nghề, đào tạo và đào tạo lại theo hướng miễn phí ở các cấp;
3. Nâng cao cấp độ
giáo dục chung; phát triển và mở rộng phương tiện thông tin quốc gia, sử dụng đầy
đủ và hợp lý các phương tiện thông tin cho nền giáo dục thường xuyên trong dân
chúng, khuyến khích các phương tiện đó tham gia vào các hoạt động phát triển xã
hội; sử dụng một cách hữu ích thời gian nhàn rỗi, nhất là đối với trẻ em và trẻ
vị thành niên;
4. Đưa ra các biện
pháp và chính sách quốc gia và quốc tế để tránh nạn chảy máu chất xám và
ngăn ngừa những ảnh hưởng có hại do nó mang lại.
Điều
22.
1. Có chính sách phát triển phối hợp và đưa ra biện pháp để
tăng cường chức năng thiết yếu của gia đình với tư cách là một đơn vị của xã hội;
2. Khi cần thiết, hình
thành và thiết lập các chương trình về dân số trong khuôn khổ chính
sách về dân số của quốc gia và như là một phần của dịch vụ
phúc lợi y tế. Chương trình đó bao gồm giáo dục, đào tạo con người và cung cấp
cho các gia đình kiến thức và phương tiện cần thiết để giúp họ thực hiện quyền
quyết định số lượng con cái và khoảng cách giữa các con một cách tự do và có
trách nhiệm;
3. Tạo phương tiện
chăm sóc trẻ thích hợp vì lợi ích của trẻ và của bố mẹ đang làm việc. Để đạt được
những mục tiêu về phát triển và tiến bộ xã hội, cuối cùng đòi hỏi phải thực hiện
các phương tiện và biện pháp sau:
Điều
23.
1. Việc đặt ra mục tiêu về tăng trưởng kinh tế đối với các nước
đang phát triển trong chính sách phát triển của Liên Hợp Quốc cần phải đủ cao để
đạt đến tỷ lệ tăng trưởng có tính bền vững;
2. Cung cấp viện trợ lớn
hơn để hướng tới tương lai tốt đẹp hơn. Các nước có nền kinh tế phát triển thực
hiện mục tiêu viện trợ tối thiểu là 1% tổng sản phẩm quốc nội theo giá thị trường;
giảm kỳ hạn vay cho các nước đang phát triển bằng tỷ lệ vay lãi suất thấp và gia
hạn hoàn trả nợ, đảm bảo các nước vay nợ sẽ dựa trên tiêu chí kinh tế xã hội một
cách chặt chẽ mà không chịu bất kỳ sự xem xét chính trị nào;
3. Cung cấp hỗ trợ về vật
chất, tài chính và kỹ thuật, bao gồm cả song phương và đa
phương, ở chừng mực nhiều nhất có thể và trong thời gian thích hợp, phối hợp chặt
chẽ với nguồn viện trợ quốc tế để đạt được các mục tiêu xã hội trong chương
trình phát triển quốc gia;
4. Cung cấp cho các nước
đang phát triển sự hỗ trợ về vật chất, tài chính, kỹ thuật và điều kiện thuận
lợi để khai thác trực tiếp nguồn tài nguyên và của cải quốc gia của những nước
này nhằm giúp cho nhân dân các nước đó được hưởng lợi nhiều nhất từ nguồn tài
nguyên thiên nhiên của mình;
5. Mở rộng thương mại
quốc tế dựa trên nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử, điều chỉnh địa
vị của các nước đang phát triển trong nền thương mại quốc tế bằng cơ chế thương
mại công bằng, một hệ thống ưu đãi, không phân biệt đối xử và không đòi hỏi đặc
quyền để các nước đang phát triển xuất khẩu sang các nước phát triển, thiết lập
và thực hiện những thỏa thuận hàng hóa chung và toàn diện, đồng thời các tổ chức
quốc tế cũng hỗ trợ nguồn vốn dự trữ hợp lý.
Điều
24.
1. Tăng cường hợp tác quốc tế để đảm bảo trao đổi thông tin,
kiến thức và kinh nghiệm quốc tế liên quan đến phát triển và tiến bộ xã hội;
2. Mở rộng tối đa hợp
tác quốc tế về kỹ thuật, khoa học và văn hóa, đồng thời trao đổi kinh nghiệm giữa
các nước có hệ thống kinh tế xã hội khác nhau và mức độ phát triển khác nhau
trên cơ sở đôi bên cùng có lợi, tuân thủ chặt chẽ và tôn trọng nguyên tắc chủ
quyền quốc gia;
3. Tăng cường sử dụng
khoa học kỹ thuật để phát triển kinh tế xã hội, tổ chức chuyển giao và trao đổi
công nghệ, bao gồm cả bí quyết và bản quyền cho các nước đang phát triển.
Điều
25.
1. Thiết lập các biện pháp pháp lý và hành chính, bao gồm cả
việc bảo vệ và cải thiện môi trường con người ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế;
2. Sử dụng
và khai thác phù hợp với cơ chế quốc tế về nguồn tài nguyên ở
các khu vực môi trường như không gian ngoài vũ trụ, đáy biển, đáy đại dương và
tầng lục địa ở đó, việc này phải nằm ngoài giới hạn thẩm quyền của một quốc gia
nhằm bổ sung cho nguồn tài nguyên sẵn có của các quốc gia đạt tới sự phát triển
và tiến bộ xã hội ở tất cả các nước, bất kể vị trí địa lý đặc biệt quan tâm đến
lợi ích và nhu cầu của các nước đang phát triển.
Điều
26.
Quốc
gia xâm lược phải đền bù cho những thiệt hại mang tính xã hội hoặc kinh tế bằng
hình thức bồi thường hoặc đền bù do hành động xâm lược hoặc chiếm đóng lãnh thổ
bất hợp pháp của nước đó.
Điều
27.
1. Đạt tới giải trừ quân bị triệt để và rộng khắp, chuyển dần
nguồn kinh phí này sang sử dụng cho phát triển kinh tế, xã hội, cho phúc lợi của
mọi người ở mọi nơi, đặc biệt là cho lợi ích của các nước đang phát triển;
2. Thông qua các biện
pháp tích cực để giải trừ quân bị bao gồm nghiêm cấm hoàn toàn việc
thử nghiệm vũ khí hạt nhân, nghiêm cấm phát triển sản xuất và tàng trữ vũ khí
hóa học và sinh học, ngăn ngừa ô nhiễm đại đương và nguồn nước ngầm do chất thải
nguyên tử gây nên.