BỘ
NÔNG NGHIỆP-TỔNG CỤC LƯƠNG THỰC
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
03-TT/LB
|
Hà
Nội, ngày 20 tháng 03 năm 1967
|
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH VIỆC CUNG CẤP LƯƠNG THỰC CHO NHÂN DÂN ĐI
XÂY DỰNG KINH TẾ MIỀN NÚI
Thực hiện chính sách vận động đồng
bào miền xuôi đi xây dựng kinh tế miền núi trong mấy năm qua đã thu được nhiều
kết quả tốt, đã có tác dụng khuyến khích hàng vạn gia đình đi xây dựng quê
hương mới; đến nay 80% đã có nhà riêng, có nơi đồng bào đã tự túc hoàn toàn,
nhiều nơi tự túc lương thực trên dưới 50%... Thành tích trên đây, như hội
nghị tổng kết xây kinh tế miền núi cuối năm 1966 đã đánh giá, là một thắng lợi
to lớn góp phần phát triển sản xuất và ổn định đời sống cho đồng bào miền xuôi
đi tham gia xây dựng kinh tế miền núi. Tuy nhiên việc vận dụng chính sách và
phương hướng sản xuất, ở một số địa phương có chỗ chưa đạt yêu cầu, có chỗ chưa
tốt, do đó có gây khó khăn cho đồng bào khi mới đến, hoặc kéo dài thời hạn cung
cấp lương thực không cần thiết, gây lãng phí lực lượng lương thực của nhà nước.
Để góp phần tiếp tục đẩy mạnh
công tác vận động đồng bào miền xuôi đi xây dựng kinh tế miền núi, Liên bộ Nông
nghiệp và Tổng cục Lương thực thấy cần hướng dẫn thêm một số điểm cụ thể về vấn
đề cung cấp lương thực cho nhân dân đi xây dựng kinh tế miền núi như sau.
I. ĐỐI TƯỢNG
ĐƯỢC CUNG CẤP LƯƠNG THỰC
Đối tượng được cung cấp lương thực
theo chính sách đối với nhân dân đi xây dựng kinh tế miền núi gồm những người
có đủ 4 điều kiện sau đây:
1. Tự nguyện ở miền xuôi xin định
cư ở miền núi, có giấy tờ di chuyển hợp lệ do Ủy ban hành chính khu phố, xã và
huyện nhận thực.
2. Đi có tổ chức, theo hình thức
xen ghép vào các hợp tác xã nông nghiệp sẵn có ở địa phương hoặc tập trung để
thành lập hợp tác xã độc lập mới. Trường hợp có những người đi riêng lẻ mà làm
ăn cá thể thì phải được Ủy ban hành chính huyện nơi đi và nơi đến công nhận.
Trường hợp lên miền núi làm một
nghề gì khác trong hợp tác xã nông nghiệp thì cũng coi như xã viên nông
nghiệp. Trường hợp lên làm một nghề gì khác không thuộc hợp tác xã nông
nghiệp thì phải do ủy ban hành chính tỉnh nơi nhận có chứng nhận sau khi đã
tham khảo ý kiến các ty lao động và ty lương thực…
3. Có kế hoạch sản xuất cụ thể
theo sự chỉ đạo của địa phương, nhằm hướng chủ yếu là lâu dài, là sản xuất nông
nghiệp.
4. Làm đầy đủ thủ tục về di chuyển
lương thực (nếu là phi nông nghiệp, thì giấy thôi cấp lương thực; nếu là nông
dân, phải có giấy chứng nhận đã bán phần lương thực còn lại cho Nhà nước và cắt
nhân khẩu ở hợp tác xã nông nghiệp nơi cư trú cũ).
II. TIÊU CHUẨN
VÀ THỜI GIAN CUNG CẤP LƯƠNG THỰC
1. Những người đi khai hoang xen
ghép được Nhà nước cung cấp lương thực từ khi mới đến cho đến vụ thu hoạch đầu
tiên theo tiêu chuẩn từ 16 đến 18kg lương thực (quy gạo) cho mỗi lao động; người
già yếu và trẻ em không tham gia sản xuất được hưởng tiêu chuẩn chung của nhân
dân phi nông nghiệp. Sau vụ thu hoạch đầu, nếu tính toán cân đối lương thực mà
vẫn chưa tự túc được lương thực thì những tháng thiếu ăn vẫn được cung cấp theo
tiêu chuẩn như lúc mới đến. Từ sau vụ thứ hai trở đi, nếu còn thiếu ăn, thì phải
bán thêm phần lương thực cho những tháng thiếu như xã viên thiếu ăn khác trong
hợp tác xã nông nghiệp, nhưng có phần chiếu cố hơn.
2. Người đi khai hoang tập
trung, thành lập những hợp tác xã độc lập cần được phân chia thành hai loại:
a) Nếu xây dựng cơ sở ở những
vùng thưa dân, còn có nhiều ruộng thuộc chưa tận dụng hết, không tốn công khai
phá mà sớm được thu hoạch thì tiêu chuẩn và thời gian cung cấp lương thực cũng
vận dụng như đối với người đi xen ghép đã nói ở phần trên;
b) Đối với những hợp tác xã
thành lập ở các vùng hoang, ít ruộng thuộc, phải khai phá mất nhiều sức
lao động và sau một thời gian dài mới ổn định được sản xuất thì:
- Trong thời gian khai phá, số
người phải làm lao động nặng nhọc, tuỳ theo mức độ khác nhau mà cung cấp thêm mỗi
tháng 3 kg lương thực cho đến khi xong công việc khai phá ban đầu.
Ngoài thời gian khai phá, những
người này cũng như mọi người lao động khác đều hưởng theo tiêu chuẩn từ 16 đến
18kg. Người già và trẻ em được cung cấp theo chế độ phi nông nghiệp.
- Sau mỗi vụ thu hoạch, phòng
lương thực huyện và Ủy ban hành chính xã cần giúp đỡ hợp tác xã cân đối phần
lương thựuc đã sản xuất được, đặt kế hoạch và phương hướng sản xuất vụ sau, những
tháng thiếu ăn Nhà nước tiếp tục cung cấp theo tiêu chuẩn lúc đầu. Các hợp tác
xã độc lập trong điều kiện này (loại b) cần có kế hoạch từng bước tự giải quyết
vấn đề lương thực, phải phấn đấu để ít nhất là sau 2 vụ tự túc được 50%, sau 3
vụ tự túc được 70% và sau 4 vụ (2 năm) hợp tác xã tự túc được hoàn toàn về
lương thực. Sau thời gian này, nếu còn thiếu ăn, Nhà nước sẽ bán lương thực như
đối với những nông nghiệp thiếu ăn khác ở địa phương. Trừ trường hợp bị thiên
tai, địch họa nặng, thì tuỳ tình hình cụ thể mà giải quyết như chính sách chung
hiện nay.
3. Những hợp tác xã đi khai
hoang có điều kiện trồng cây công nghiệp, trồng rau, chăn nuôi, làm nghề rừng
(do ty lâm nghiệp chỉ đạo) được ủy ban hành chính tỉnh, huyện giao kế hoạch sản
suất và chỉ tiêu bán sản phẩm cho Nhà nước, thì trong thời gian đầu cũng được
cung cấp lương thực như các hợp tác xã trồng lương thực đã nói ở trên. sau khi
sản xuất đã ổn định, sản phẩm đã có thu hoạch, nếu chấp hành nghiêm chỉnh các
chính sách, thì được cung cấp lương thực như các hợp tác xã có trồng cây công
nghiệp hoặc chăn nuôi khác ở địa phương. Tuy vậy, bất cứ trong trường hợp nào
cũng phải khắc phục khó khăn tạo điều kiện trồng cây lương thực để tự túc một
phần.
4. Những người làm nghề thủ
công, đã được cung cấp lương thực theo định lượng thường xuyên, tự nguyện đi miền
núi làm nghề cũ, nếu được ủy ban hành chính tỉnh nơi nhận người cung cấp đăng
ký kinh doanh chính thức, thì tuỳ ngành nghề mà cấp lương thực như các loại phi
nông nghiệp khác.
5. Nhân dân thành thị, tự liên hệ
đi tìm lấy địa điểm, tình nguyện chuyển sang sản xuất nông nghiệp ở miền núi hoặc
gia nhập hợp tác xã với hình thức xen ghép, hay tạm thời còn làm ăn riêng lẻ
thì được cung cấp như người đi xen ghép khác với điều kiện đã làm đầy đủ thủ tục
di chuyển và được chính quyền nơi đến chấp nhận (trừ dân của 2 thành phố Hà Nội,
Hải Phòng thì giải quyết theo thông tư 178 của Nhà nước).
III. MỘT SỐ VẤN
ĐỀ CHUNG
1. Trong thời gian đầu ra đi, nếu
khẩu phần lương thực được phân phối ở hợp tác xã nông nghiệp địa phương không
còn nữa (tính theo mức chi dùng hợp lý) hoặc còn mà bán cho Nhà nước thì người
đi xây dựng kinh tế miền núi được Nhà nước cung cấp lương thực toàn phần như những
người phi nông nghiệp khác.
Nếu sau khi thu hoạch nhưng hợp
tác xã nông nghiệp địa phương chưa kịp phân phối lương thực cho công lao động của
người đi xây dựng kinh tế miền núi thì:
a) Hợp tác xã nông nghiệp địa
phương đảm nhiệm bán phần lương thực đó cho Nhà nước theo giá nghĩa vụ theo sự
hướng dẫn của các sở, ty lương thực được cung cấp toàn phần.
b) Người đi xây dựng kinh tế miền
núi có điều kiện hoặc tự nguyện mang phần lương thực theo thì sẽ tính trừ vào
tiêu chuẩn cung cấp ở nơi mới đến.
2. Thời gian đi đường từ miền
xuôi đến cư trú mới, người đi xây dựng kinh tế miền núi phải tự túc về lương thực
ăn đường, trường hợp có những người thực thiếu ăn, được chính quyền địa phương
chứng nhận, thì cơ quan lương thực nơi có người ra đi cần phối hợp chặt chẽ với
địa phương để xét cung cấp phần thiếu trong thời gian đi đường với mức ăn
0,500kg một ngày.
3. Ở các hợp tác xã khai hoang độc
lập sản xuất chưa ổn định, nhưng có điều kiện phát triển, mà chỉ tiêu kế hoạch
nhân lực chưa đủ phải lấy thêm những người thì số người tiếp tục lên sau được
hưởng theo tiêu chẩn và thời gian như người đi lên lúc đầu của hợp tác xã.
Ở các cơ sở khai hoang cũ, sản
xuất đã ổn định, đã tự túc về lương thực, nếu xét thấy cần xin bổ sung thêm
nhân lực để phát triển sản xuất thì những người lên sau chỉ hưởng như người đi
xen ghép (trong điểm 1 mục II).
4. Việc sử dụng hoa màu thay gạo
được quy định như sau:
Trong thời gian còn được Nhà nước
cung cấp lương thực theo tiêu chuẩn ban đầu thì tỷ lệ màu cũng áp dụng chung đối
với người phi nông nghiệp khác (30%).
Sau khi đã chuyển sang thời kỳ tự
túc lương thực, vì đặc điểm miền núi thường sản xuất được nhiều hoa màu hơn
lúa, nên trong khẩu phần lương thực có thể sử dụng từ 40-50% hoa mầu. Trường hợp
sản xuất hoa mầu nhiều, lúa ít thì, ở những nơi có điều kiện, ngành lương thực
cố gắng trao đổi thóc gạo (dưới hình thức mua bán) lấy hoa mầu đã chế biến nhằm
đảm bảo cho mức ăn của xã viên có 50% bằng gạo.
5. Ở những hợp tác xã có làm
nghĩa vụ lương thực với Nhà nước, nay tuy nhận thêm người đến xen ghép, trong
thời gian đầu, đã được Nhà nước cung cấp lương thực toàn phần cho người mới đến
chỗ lao động và cung cấp theo tiêu chuẩn lứa tuổi cho người già và trẻ em,
không có ảnh hưởng gì đến phần làm nghĩa vụ của hợp tác xã đối với Nhà nước ,
thì mức nghĩa vụ của hợp tác xã không thay đổi. Trường hợp cá biệt, có những cơ
sở nhận thêm nhiều người, nay đã hết thời hạn Nhà nước cung cấp lương thực toàn
phần, đồng thời sản xuất gặp khó khăn, thu nhập sút kém, nếu điều hòa lương thực
thỏa đáng cho người mới đến xen ghép sẽ ảnh hưởng trực tiếp mức ăn chung, thì Ủy
ban hành chính tỉnh, thành phố xét duyệt cụ thể mà quyết định việc điều chỉnh
nghĩa vụ cho từng hợp tác xã, trong từng vụ.
IV. THỦ TỤC CẤP
PHÁT LƯƠNG THỰC
Để việc cung cấp lương thực cho
nhân dân đi xây dựng kinh tế miền núi được chuẩn bị chu đáo và quản lý chặt chẽ,
có tác dụng thiết thực phục vụ sản xuất và đời sống trong hoàn cảnh lương thực
của Nhà nước có nhiều khó khăn, người đi khai hoang cũng như các cơ quan có
trách nhiệm cần thực hiện đúng các quy định sau đây:
1. Lập kế hoạch dự trù
Ủy ban hành chính tỉnh nơi có
người đi phải lập kế hoạch dự trừ số lương thực cần cung cấp lập kế hoạch dự
trù số lương thực thực cần cung cấp trong thời gian Nhà nước phải cung cấp hoàn
toàn (6 tháng đầu) cho nhân dân tỉnh mình đi xây dựng kinh tế miền núi. Bản dự
trù cần có số người (phân tích theo lao động chính, phụ, người già, trẻ em) đi
từng đợt, thời gian đi và hình thức tổ chức (xen ghép hoặc độc lập). Dự trù này
cần được Ủy ban hành chính tỉnh tiếp nhận người xác nhận trước khi gửi lên Ủy
ban kế hoạch Nhà nước, Tổng cục Lương thực và Bộ Nông nghiệp xét duyệt.
Khi người đi đến cơ sở mới đã bắt
đầu có thu hoạch, theo chính sách Nhà nước chỉ còn cung cấp cho những tháng thiếu
thì Ủy ban hành chính nơi nhận người, căn cứ vào tình hình thu hoạch, kế hoạch
sản xuất và chính sách chung để lập dự trrù xin lương thực của Nhà nước cho từng
loại hợp tác xã theo từng đợt.
2. Lập bản kê khai số người thực
tế khi mới đến.
Các hợp tác xã khai hoang độc lập
cũng như xen ghép cần lập danh sách số người thực tế có mặt ở nơi sản xuất (có
phân biệt người lao động và người già, trẻ em) được Ủy ban hành chính xã, huyện
xác nhận trước khi gửi đến phòng lương thực địa phương để mua lương thực. Bản
kê khai đính kèm đầy đủ các giấy tờ cần thiết như giấy thôi cấp lương thực, giấy
chứng nhận đã bán phần lương thực cho Nhà nước (nếu có).
3. Chế độ báo cáo.
Sau mỗi vụ thu hoạch, phòng nông
nghiệp (khai hoang), phòng lương thực và Ủy ban hành chính xã cần giúp đỡ các hợp
tác xã khai hoang làm cân đối lương thực, thống kê rõ:
- Diện tích, năng suất, sản lượng
của từng loại cây trồng;
- Danh sách những người hiện có
trong hợp tác xã (lao động và trẻ em, người già);
- Kế hoạch sản xuất vụ sau;
- Số lương thực cần đề nghị Nhà
nước cấp thêm hoặc trao đổi mầu.
Bản cân đối phải được Ủy ban
hành chính huyện xác nhận, phòng lương thực và phòng nông nghiệp (khai hoang)
có trách nhiệm thẩm tra tình hình sản xuất và đời sống của các hợp tác xã để đảm
bảo việc cung cấp lương thực cho đúng chính sách chế độ hiện hành.
Phòng lương thực phải định kỳ xuống
kiểm tra tình hình sử dụng lương thực ở các hợp tác xã khai hoang, hoặc ở những
nơi có đồng bào đi xây dựng kinh tế miền núi để cải tiến việc phục vụ đồng bào
được tốt.
Việc thực hiện chính sách cung cấp
lương thực đối với đồng bào đi xây dựng kinh tế miền núi có tác dụng rất quan
trọng đối với toàn bộ cuộc vận động. Trong mấy năm qua Nhà nước đã có nhiều cố
gắng về mặt này, nên đã ổn định đời sống, động viên nhân dân sản xuất, đưa
phong trào nhân dân đi xây dựng kinh tế miền núi đạt kết quả tốt.
Tuy nhiên, trong tình hình cả nứoc
có chiến tranh, lương thực còn nhiều khó khăn, việc thực hiện chính sách cung cấp
lương thực cần làm tốt hơn để phục vụ đắc lực cho cuộc vận động, vừa không lãng
phí lực lượng lương thực của Nhà nước. Mặt khác các cấp, các ngành liên quan cần
giáo dục động viên quần chúng, làm cho mọi người thấy rõ trách nhiệm nặng nề của
hậu phương lớn mà ra sức phát triển sản xuất, nhanh chóng tự giải quyết vần đề
lương thực, giảm dần mức cung cấp của Nhà nước.
Đề nghị Ủy ban hành chính các cấp
nắm vững tinh thần và những quy định cụ thể của thông tư để vận dụng cho phù hợp
với tình hình thực tế của địa phương.
Các ty lương thực và cơ quan phụ
trách khai hoang cần phối hợp chặt chẽ, cùng nắm vững tình hình, chủ yếu là
tình hình sản xuất và cân đối lương thực của hợp tác xã khai hoang giúp Ủy ban
hành chính thành phố, tỉnh hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các cấp thực hiện tốt
những quy định trong thông tư này.
KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ NÔNG NGHIỆP
THỨ TRƯỞNG
Lê Trung Đình
|
KT. TỔNG CỤC
TRƯỞNG
TỔNG CỤC LƯƠNG THỰC
TỔNG CỤC PHÓ
Trịnh Xuân Tiến
|