TỔNG
CỤC THỐNG KÊ
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
721-TCTK/NN
|
Hà
Nội, ngày 07 tháng 08 năm 1967
|
THÔNG TƯ
QUY ĐỊNH PHƯƠNG PHÁP TÍNH NĂNG SUẤT LÚA VÀ HOA MÀU LƯƠNG THỰC
BÌNH QUÂN TRÊN MỘT ĐƠN VỊ DIỆN TÍCH CANH TÁC (HÉCTA) TRONG MỘT NĂM
Mấy năm gần đây, dưới sự lãnh đạo
sáng suốt của Trung ương Đảng và Chính phủ và được sự chỉ đạo sát sao của Đảng ủy
và chính quyền các cấp, phong trào thi đua thâm canh tăng năng suất lúa và hoa
màu lương thực ở miền Bắc nước ta phát triển thêm một bước mới. Số đơn vị và địa
phương đạt năng suất cao mỗi năm đều có tăng lên. Tuy vậy, cho đến nay, phương
pháp tính năng suất lúa và hoa màu lương thực bình quân trên một đơn vị diện
tích canh tác (hécta) trong một năm chưa được nghiên cứu đầy đủ và chưa được
quy định thống nhất. Tình hình đó đã gây trở ngại cho việc kiểm tra và xác định
đúng đắn các thành tích của các đơn vị và các địa phương trong phong trào thi
đua thâm canh tăng năng suất.
Để khắc phục những thiếu sót
trên;
Để thi hành chỉ thị của Thủ tướng
Chính phủ trong phiên họp hội nghị thường vụ của Hội đồng Chính phủ ngày 21
tháng 12 năm 1966;
Sau khi đã trao đổi ý kiến và nhất
trí với Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Nông nghiệp, Ban nông nghiệp Trung ương Đảng
và Văn phòng Nông nghiệp Phủ Thủ tướng trong phiên họp ngày 17 tháng 4 năm
1967.
Tổng cục Thống kê ra thông tư
quy định phương pháp tính năng suất trong phong trào thi đua thâm canh
tăng năng suất gồm các điểm như sau:
I. XÁC ĐỊNH CÁC CHỈ TIÊU CẦN
TÍNH ĐỂ ĐÁNH GIÁ THÀNH TÍCH THÂM CANH TĂNG NĂNG SUẤT.
Trong phong trào thi đua thâm
canh tăng năng suất, đi đôi với việc đẩy mạnh tăng năng suất lúa, phải tăng
năng suất hoa màu lương thực.
Để đánh giá được thành tích thâm
canh tăng năng suất (kể cả tăng vụ), phải tính được sản lượng lúa nói riêng và
sản lượng lương thực nói chung cả năm trên một đơn vị diện tích canh tác;
Cho nên, khi kiểm tra và
xác định thành tích thâm canh tăng năng suất lúa và lương thực của mỗi đơn vị
và mỗi địa phương, cần phải kết hợp xem xét và tính toán cả hai chỉ tiêu sau
đây:
1. Năng suất lúa bình quân của
một hécta trong một năm trên toàn bộ diện tích canh tác hai vụ lúa (diện
tích canh tác hai vụ lúa bao gồm diện tích canh tác trong năm đã cấy hai vụ
lúa, 2 vụ lúa và 1 vụ màu, và 3 vụ lúa).
2. Năng suất lương thực (quy
thóc) bình quân một hécta trong năm trên toàn bộ diện tích canh tác có trồng
cây lương thực.
Chủ trương thâm canh tăng năng
suất của Đảng và Nhà nước là phấn đấu giành năng suất cao trên diện tích rộng.
Cho nên, để ngăn ngừa hiện tượng bỏ bớt diện tích xấu không cấy hai vụ để đạt
năng suất bình quân cao, khi kiểm tra năng suất lúa của các đơn vị và địa
phương, cần chú ý xem xét cả về mặt diện tích. Chỉ những đơn vị và địa phương cấy
hết diện tích ruộng hai vụ lúa ổn định (diện tích cấy hai vụ lúa đã thành tập
quán, bảo đảm ăn chắc, đã ghi vào kế hoạch, không phải là cấy cưỡng) mà đạt
năng suất bình quân cao, mới được coi là đạt chỉ tiêu phấn đấu về tăng năng suất
lúa trên diện tích ruộng hai vụ lúa. Đối với những chân ruộng cấy hai
vụ lúa chưa ổn định (thí dụ có 1 vụ cấy cưỡng), năng suất thấp, khi tính
chỉ tiêu phấn đấu tăng năng suất trên một đơn vị diện tích trong năm, có thể loại
trừ diện tích và sản lượng của những chân ruộng này ra. Nhưng việc loại trừ này
phải được cấp trên có thẩm quyền xét duyệt và công nhận đồng ý.
II. PHƯƠNG PHÁP TÍNH CÁC CHỈ
TIÊU.
a) Công thức tính chỉ tiêu
năng suất lúa bình quân một hécta trong năm trên toàn bộ diện tích canh tác hai
vụ là (công thức I):
Năng suất lúa
bình quân một hécta trong năm trên toàn bộ diện tích canh tác hai vụ lúa
trong năm.
|
=
|
Sản lượng vụ
chiêm trên diện tích canh tác 2 vụ lúa cộng lại với sản lượng vụ mùa trên diện
tích canh tác hai vụ lúa
|
Toàn bộ diện
tích canh tác hai vụ lúa trong năm
|
Hoặc có thể dùng công thức
sau đây (công thức II).
Năng suất bình
quân một hécta trong năm trên toàn bộ diện tích canh tác hai vụ lúa
trong năm.
|
=
|
Năng suất bình
quân một hécta vụ chiêm trên diện tích canh tác hai vụ lúa.
|
+
|
Năng suất bình
quân một hécta vụ mùa trên diện tích canh tác hai vụ lúa.
|
Công thức II là biến dạng của công thức I.
Trong công tác thực tế, dùng
công thức II có thuận lợi hơn. Vì rằng: một là, sau vụ chiêm đã được mức phấn đấu
của vụ mùa; hai là nếu chưa tính được năng suất bình quân một hécta vụ chiêm
(hoặc vụ mùa) trên diện tích canh tác 2 vụ lúa trong năm, thì có thể tạm thời lấy
năng suất bình quân một hécta vụ chiêm (hoặc vụ mùa) trên toàn bộ diện tích
gieo trồng lúa của vụ đó để tính. Muốn tính đúng theo công thức này, khi tiến
hành điều tra thống kê năng suất lúa vụ chiêm và lúa vụ mùa, ngoài việc điều
tra năng suất lúa bình quân chung, cần chú ý điều tra năng suất riêng của chân
ruộng hai vụ, vẫn xác định diện tích canh tác thực tế đã cấy hai vụ lúa trong
năm để tính tỷ trọng của diện tích này chiếm trong toàn bộ diện tịch canh tác
có cấy vụ lúa trong năm và tính mức tăng giảm của diện tích này so với diện
tích canh tác cấy 2 vụ lúa của các năm trước. Như vậy mới có có sở để đánh giá
đúng thành tích thâm canh tăng năng suất đồng thời tăng diện tích hoặc bảo đảm
không sụt diện tích co với các năm trước.
Trên diện tích ruộng cấy hai vụ
lúa, nếu có làm thêm vụ thu (thành 3 vụ lúa) thì sản lượng lúa vụ thu cũng được
tính thêm vào năng suất ruộng hai vụ lúa. Cách tính như sau:
- Trong công thức I: Năng suất
bình quân một hécta trong năm trên toàn bộ diện tích canh tác hai vụ lúa trong
năm = Sản lượng vụ chiêm trên diện tích canh tác hai vụ lúa cộng với (+) sản lượng
vụ mùa trên diện tích canh tác ba vụ lúa, chia cho (:) toàn bộ diện tích
canh tác 2 vụ lúa trong năm.
- Trong công thức II: Năng suất
bình quân một hécta trong năm trên diện tích canh tác hai vụ lúa trong năm =
Năng suất bình quân một hécta vụ chiêm trên diện tích canh tác hai vụ lúa cộng
với (+) Năng suất bình quân một hécta vụ mùa trên diện tích canh tác hai
vụ lúa cộng với (+) sản lượng lúa vụ thu tính bình quân cho một hécta diện tích
canh tác hai vụ lúa.
Chỉ tiêu “sản lượng lúa vụ thu
tính bình quân cho một hécta diện tích canh tác 2 vụ lúa” tính bằng cách lấy sản
lượng lúa vụ thu chia (:) toàn bộ diện tích canh tác hai vụ lúa. Chỉ những diện
tích nào thực tế có cấy 3 vụ lúa trong năm thì mới lấy thêm phần sản lượng vụ
thu để tính. Trong điều kiện hiện nay, việc cấy 3 vụ lúa trong năm trên cùng một
diện tích bị hạn chế. Những nơi nào có cấy 3 vụ lúa thì tính năng suất chung
trên diện tích ruộng cấy hai vụ lúa theo cách như trên đồng thời cố gắng
tính thêm năng suất riêng diện tích ruộng cấy 3 vụ lúa trong năm để
quan sát và có cơ sở đánh giá đúng hiệu quả kinh tế của việc cấy 3 vụ lúa trong
năm trên cùng một diện tích. Cách tính như sau:
Năng suất bình quân một
hécta trong năm trên diện tích canh tác 3 vụ lúa trong năm = Năng suất bình
quân một hécta vụ chiêm (+) Năng suất bình quân hécta vụ thu (+) Năng suất bình
quân một hécta diện tích canh tác vụ mùa. Các số liệu về năng suất trên đây đều
phải là năng suất bình quân một hécta trên diện tích thực tế có cấy 3 vụ lúa
trong năm, không được dùng số liệu về năng suất bình quân chung của vụ chiêm, của
vụ mùa hoặc của ruộng chỉ cấy 2 vụ lúa để tính.
Để có cơ sở tính đúng năng suất
lúa theo các công thức trên đây, hàng năm cần kết hợp với điều tra kết thúc
gieo cấy vụ mùa là vụ lúa cuối cùng trong năm mà xác định diện tích thực tế có
cấy hai vụ lúa trong năm và diện tích thực tế có cấy 3 vụ lúa trong năm.
b) Công thức tính chỉ tiêu
năng suất lương thực bình quân một hécta trong năm trên toàn bộ diện tích trồng
cây lương thực trong năm là:
Năng suất lương thực bình quân
một hécta trong năm
|
=
|
Tổng sản lượng
thực cả năm
quy ra thóc
|
Toàn bộ diện
tích canh tác trồng cây lương thực trong năm
|
Tổng sản lượng lương thực cả năm
quy ra thóc tức là sản lượng lúa vụ chiêm, vụ mùa và vụ thu (nếu có) cộng với
(+) sản lượng các loại hoa màu lương thực như ngô, khoai lang, sắn và các loại
khoai khác thu hoạch trong năm, quy ra thóc. Công thức quy màu ra thóc đang được
nghiên cứu để quy định lại cho thích hợp hơn và sẽ có thông tư hướng dẫn sau.
Toàn bộ diện tích canh tác trồng
cây lương thực trong năm bao gồm diện tích canh tác cấy lúa và trồng các loại
hoa màu lương thực nói trên, trong đó bao gồm cả những diện tích canh tác chủ yếu
trồng cây lương thực có trồng xen gối vụ cây công nghiệp, nhưng không bao gồm
những diện tích canh tác chủ yếu trồng cây công nghiệp có trồng xen gối lương
thực.
III. NGUỒN SỐ LIỆU SỬ DỤNG ĐỂ
TÍNH.
Để đánh giá thành tích thâm canh
tăng năng suất, số liệu dùng để tính là số liệu điều tra thống kê điển hình về
năng suất. Nhưng số liệu điều tra thống kê phải được xác minh là tương đối phù
hợp với thực tế thì mới sử dụng được. Để xác minh số liệu điều tra thống kê, một
mặt phải kiểm tra việc chấp hành phương án điều tra quy định, mặt khác phải đối
chiếu số liệu điều tra thống kê với số liệu về sản lượng thực thu của hợp tác
xã. Số liệu điều tra thống kê chỉ cao hơn số liệu sản lượng thực thu bằng một tỷ
lệ hao hụt hợp lý mới được công nhận là đúng đắn. Nếu số liệu điều tra thống kê
đối chiếu với số liệu sản lượng thực thu có chênh lệch lớn thì phải tổ chức
xác minh cả số liệu điều tra thống kê và số liệu sản lượng thực thu để điều
chỉnh lại cho chính xác trước khi sử dụng. Như vậy, việc đánh giá thành
tích thâm canh tăng năng suất mới nhất trí với việc tính cân đối lương
thực và làm nghĩa vụ lương thực ở từng đơn vị và từng địa phương. Bắt đầu từ vụ
chiêm năm 1967, Thủ tướng Chính phủ đã có chủ trương tiến hành điều tra thống
kê điển hình về năng suất ở tất cả các hợp tác xã. Cần tổ chức thực hiện tốt
phương án điều tra đã quy định. Đồng thời cần tích cực thực hiện chế độ ghi
chép ban đầu về sản lượng thu hoạch ở các hợp tác xã và hướng dẫn các hợp tác
xã, các xã và huyện thực hiện chế độ báo cáo thống kê sản lượng thực thu. Những
nơi chưa có điều kiện điều tra thống kê điển hình về năng suất ở tất cả các hợp
tác xã mà phải sử dụng số liệu về năng suất của vùng thì cần cố gắng kiểm tra
tình hình thực tế để đối chiếu và xác định năng suất
cho từng hợp tác xã, tránh tình trạng coi hàng loạt hợp tác xã đạt hoặc
vượt chỉ tiêu năng suất theo số liệu điều tra điển hình của một hợp tác xã được
chọn là đại diện.
Về cách tính năng suất theo số
liệu điều tra thống kê điển hình về năng suất, cần áp dụng thống nhất phương
pháp đã hướng dẫn của Tổng cục Thống kê, tức là, để tính năng suất các điểm gặt
thống kê nhân với (X) diện tích của hợp tác xã đã trừ bờ để tìm ra sản lượng của
hợp tác xã; sau đó; lấy sản lượng của hợp tác xã chia cho (:) diện tích của hợp
tác xã không trừ bờ. Như vậy, khi tính sản lượng là tính trên diện tích thực có
gieo trồng (đã trừ bờ), nhưng khi tính năng suất thì phải tính kể cả bờ (bờ thửa),
vì bờ là một bộ phận không thể tách rời của ruộng đất, nó góp phần tạo nên năng
suất ruộng đất. Và như vậy, năng suất của hợp tác xã sẽ tính theo số liệu
điều tra thống kê phải thấp hơn năng suất các điểm gặt thống kê bằng một tỷ lệ
ngang với tỷ lệ diện tích bờ đã trừ. Để tính năng suất của xã, trước hết cộng
(+) sản lượng của các hợp tác xã và của nông dân cá thể trong xã lại để tìm ra
sản lượng của xã; sau đó lấy sản lượng của xã chia cho (:) diện tích của
xã không trừ bờ. Để tính năng suất của huyện, trước hết cộng (+) sản lượng của
các xã trong huyện lại để tìm ra sản lượng của huyện; sau đó lấy sản lượng
của huyện chia cho (:) diện tích của huyện không trừ bờ. Để tính năng suất của
tỉnh, trước hết cộng (+) sản lượng của các huyện trong tỉnh lại để tìm ra sản
lượng của tỉnh; sau đó lấy sản lượng của tỉnh chia cho (:) diện tích của tỉnh
không trừ bờ.
VI. TỔ CHỨC XÉT DUYỆT VÀ CÔNG
NHẬN
Việc xét duyệt và công nhận các
đơn vị và địa phương (hợp tác xã, xã và huyện ) đạt và vượt chỉ tiêu phấn đấu về
tăng năng suất do các Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố đảm nhiệm. Chi cục
thống kê tỉnh, thành phố có trách nhiệm hướng dẫn cho các đơn vị, địa
phương và các ngành có liên quan nắm vững phương pháp tính toán, hướng dẫn cho
các hợp tác xã, xã và huyện thực hiện việc ghi chép ban đầu và làm báo cáo thống
kê về sản lượng thực thu, đồng thời thong qua các công tác điều tra thống kê điển
hình về năng suất mà phát hiện những đơn vị và địa phương có khả năng đạt năng
suất cao, báo cáo sơ bộ với Ủy ban hành chính. Dưới dự lãnh đạo của Ủy ban hành
chính tỉnh, thành phố, chi cục thống kê và các ngành có liên quan như ty nông
nghiệp, ban công tác nông thôn của Đảng, ty lương thực, Ủy ban kế hoạch phối hợp
lực lượng tiến hành kiểm tra thực tế, xác minh số liệu, lập danh sách những hợp
tác xã, xã và huyện đạt và vượt chỉ tiêu phấn đấu tăng năng suất trình Ủy ban
hành chính tỉnh xét duyệt và công nhận. Đối với những tỉnh, thành phố có khả
năng đạt hoặc vượt chỉ tiêu phấn đấu về thâm canh tăng năng suất, Tổng cục thống
kê cùng các ngành có liên quan ở Trung ương tổ chức lực lượng tiến hành kiểm
tra thực tế, xác minh số liệu trình thủ tướng Chính phủ xét duyệt
và công nhận (theo Quyết định số 112-CP ngày 22 tháng 7 năm 1964 của Hội đồng
Chính phủ về việc xét duyệt, công nhận và công bố hoàn thành kế hoạch nhà nước
và Thông tư số 71-TTg/CN ngày 22 tháng 7 năm 1964 của Thủ tướng Chính phủ quy định
tạm thời về nội dung xét duyệt và công nhận hoàn thành kế hoạch Nhà nước kèm
theo quyết định trên).
Tổng cục Thống kê yêu cầu Ủy ban
hành chính các tỉnh, thành phố sau khi nhận được thông tư này, tổ chức phổ biến
cho các ngành có liên quan và các huyện, cho đến các ban quản trị hợp tác xã
nông nghiệp. Cần làm cho mọi người quán triệt nội dung thông tư này, bảo đảm
cho việc tính năng suất để đánh giá thành tích thâm canh tăng năng suất lúa và
hoa màu lương thực của các đơn vị và địa phương được tiến hành chặt chẽ, theo
quy định thống kê và đạt mức độ chính xác cao. Như vậy cũng là góp phần vào việc
đẩy mạnh phong trào thi đua thâm canh tăng năng suất để giải quyết tốt vấn đề
lương thực nhằm phục vụ sản xuất và chiến đấu chống Mỹ, cứu nước thắng lợi.
|
TỔNG CỤC TRƯỞNG
TỔNG CỤC THỐNG KÊ
Nguyễn Đức Dương
|