BỘ THUỶ SẢN
******
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 158/2006/TB-BTS
|
Hà Nội, ngày 19
tháng 01 năm 2006
|
THÔNG BÁO
KẾT LUẬN CỦA THỨ TRƯỞNG NGUYỄN VIỆT THẮNG TẠI HỘI NGHỊ BÀN
BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT TÔM GIỐNG CHO VỤ NUÔI NĂM 2006
Hiện tại ở Việt Nam sản phẩm tôm chiếm trên 50%
giá trị kim ngạch xuất khẩu của ngành thuỷ sản, trong đó chủ yếu là tôm nuôi.
Tuy nhiên việc nuôi tôm hằng năm thường gặp nhiều khó khăn, nhất là vào đầu vụ
luôn bị thiếu giống, dẫn đến hiện tượng tranh mua, tranh bán, tôm giống đưa vào
vùng nuôi bằng nhiều con đường khác nhau, không kiểm soát được chất lượng toàn
bộ nên nhiều lô tôm giống nhiễm bệnh vẫn được thả nuôi làm cho hiệu quả nuôi
tôm ở một số nơi chưa cao, thậm chí nhiều hộ nuôi tôm bị lỗ, ảnh hưởng tới kết
quả chung của ngành.
Bài học rút ra từ các năm trước cho thấy, viềc
quản lý chất lượng tôm giống tại nơi sản xuất, trên đường lưu thông, đến nơi
tiêu thụ có ý nghĩa hết sức quan trọng góp phần đảm bảo an toàn dịch bệnh tôm
nuôi. Đồng thời phải quản lý chặt chẽ mùa vụ nuôi tôm bởi vì một trong những
nguyên nhân làm cho tôm nuôi bị chết nhiều là do đã thực hiện nuôi liên tục 2 –
3 vụ trong 1 năm dẫn đến có thời điểm mùa khô không đủ nước cấp, nhiệt độ trong
ao đầm biến thiên lớn làm cho tôm chết. Mặt khác việc nuôi tôm liên tục trên một
diện tích sẽ làm cho môi trường vùng nuôi nhanh chóng suy thoái, là điều kiện để
phát sinh mầm bệnh và tôm nuôi bị nhiễm bệnh. Nhiều nơi khi tôm nuôi vừa mới bị
bệnh chết đã tiến hành dọn dần thả giống ngay,không có thời gian xử lý tiêu
trùng, mầm bệnh vẫn còn ẩn chứa sẽ tiếp tục lan truyền ảnh hưởng tới vụ sau.
Từ thực tế đó, quan điểm chỉ đạo của ngành là chỉ
nuôi một vụ tôm vào thời điểm thích hợp nhất. Vụ còn lại có thể cấy lúa hoặc
nuôi các đối tượng thuỷ sản khác nhằm làm sạch môi trường ao đầm nuôi và có thời
gian ngắt vụ để tiêu diệt mầm bệnh, giảm nguy cơ lan truyền.
Năm 2005 ngành Thuỷ sản và chính quyền các địa
phương đã tích cực tập trung chỉ đạo để quản lý mùa vụ nuôi tôm, môi trường
vùng nuôi, kiểm soát chất lượng giống nên đã đạt được kết quả tốt. So với các
năm trước tình hình dịch bệnh tôm nuôi giảm rất nhiều.
Để đảm bảo cho vụ nuôi tôm năm 2006 tiếp tục
giành được thắng lợi, ngày 10/01/2005 tại Hà Nội Bộ Thuỷ sản đã tổ chức hội nghị
bàn biện pháp giải quyết tôm giống. Thứ trưởng Nguyễn Việt Thắng chủ trì hội
nghị. Tham dự gồm có lãnh đạo Sở Thuỷ sản các tỉnh nuôi tôm trọng điểm phía Nam
(Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Bến Tre, Sóc Trăng, Tiền Giang, Long An), các tỉnh
sản xuất tôm giống Nam Trung bộ (Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận) và
đại diện các đơn vị thuộc Bộ Thuỷ sản (Vụ Nuôi trồng thuỷ sản, Vụ Khoa học Công
nghệ, Vụ Kế hoạch Tài chính, Cục quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y
thuỷ sản (NAFIQAVED), Viện Nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản III, Trung tâm Khuyến
ngư quốc gia, Văn phòng Bộ).
Hội nghị đã thảo luận về công tác quản lý, chỉ đạo
nuôi tôm tại các địa phương và tập trung bàn giải pháp đáp ứng đủ tôm giống tốt.
Một số vấn đè tồn tại trong quản lý tôm giống được nêu ra để có giải pháp khắc
phục, đó là :
- Việc nuôi tôm có tính chất mùa vụ, thời điểm cần
giống thả tương đối tập trung nên việc sản xuất và cung ứng giống đã gặp nhiều
khó khăn khi ta chưa chủ động được nguồn tôm bố mẹ mà phụ thuộc vào khai thác tự
nhiên hoặc phải nhập khẩu nên vào vụ sản xuất thiếu tôm bố mẹ. Phần lớn tôm bố
mẹ đưa vào sản xuất không rõ nguồn gốc, không được kiểm dịch, bị khai thác triệt
để mà chưa có biện pháp quản lý số lần sinh sản của tôm mẹ.
- Chất lượng tôm giống chưa thật tốt do chưa kiểm
soát chặt chẽ điều kiện sản xuất giống theo tiêu chuẩn ngành, các cơ sở chưa thực
hiện công bố chất lượng giống, chưa có nhãn mác, nhiều nơi giống lưu thông
không rõ nguồn gốc xuất xứ, chưa thực hiện kiểm dịch bắt buộc tại nơi sản xuất.
- Về thời vụ thả giống, hầu hết đã quản lý theo
quy định của tỉnh, tuy nhiên một số nơi giữa các cấp không thống nhất, khi cấp
huyện không cho thả thì cấp xã lại cho thả giống đã tạo điều kiện cho người bán
giống có thể mang vào bán rong làm cho không quản lý được mùa vụ chung.
- Việc kiểm tra bệnh bằng phương pháp PCR giữa
các đơn vị còn có hiện tượng kết quả không giống nhau, chưa có cơ quan nào kiểm
chứng xác nhận kết quả, tôm bố mẹ và tôm giống khi kiểm tra không bảo đảm chất
lượng chưa có chế tài xử lý.
Các đại biểu cũng đã thảo luận những nội dung cần
thiết phải tăng cường quản lý trong tổ chức sản xuất, lưu thông, cung ứng tôm
giống và kiến nghị một số vấn đề mà ngành cần quan tâm để đáp ứng với yêu cầu của
sản xuất.
Kết luận hội nghị, Thứ trưởng Nguyễn Việt
Thắng đã chỉ đạo :
1. Để có được vụ nuôi tôm 2006
đạt kết quả tốt trước hết cần đảm bảo có đủ tôm giống tốt, kịp thời vụ, giá hợp
lý. Những năm trước đây công tác kiểm dịch và kiểm tra chất lượng tôm bố mẹ,
tôm giống chưa chặt chẽ. Nhiệm vụ của chúng ta là phải sản xuất đủ giống cho
nhu cầu nuôi và thực hiện kiểm soát chất lượng, kiểm dịch 100% lượng tôm bố mẹ,
tôm giống đầu vào.
Tiếp thu những ý kiến đã thảo luận, đề nghị các
địa phương, các đơn vị chức năng của Bộ cần triển khai các biện pháp quản lý
thuộc thẩm quyền để khắc phục những hạn chế chủ quan đã được nêu trên.
2. Đối với các tỉnh nuôi tôm trọng
điểm :
Công tác quản lý nuôi tôm phải được quan tâm,
tăng cường chỉ đạo ngay từ đầu vụ. Do diễn biến thời tiết ở mỗi nơi khác nhau
nên thời vụ cũng có khác nhau, vì vậy các tỉnh cần phối hợp thông tin về mùa vụ,
kế hoạch và nhu cầu giống để điều tiết sản xuất hợp lý, tránh thả giống trùng
nhau đồng loạt sẽ gây nên thiếu giống.
Các địa phương cần tổ chức việc đăng ký nhu cầu
tôm giống theo cấp xã, cấp huyện và ký kết hợp đồng tiêu thụ giống với các tỉnh
sản xuất tôm giống Nam Trung bộ để có đủ giống tốt cho nhu cầu nuôi.
Những nơi có điều kiện sản xuất giống cần có quy
hoạch vùng sản xuất giống, khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu
tư vào sản xuất tôm giống nhằm chủ động sản xuất giống tại chỗ.
3. Đối với các tỉnh sản xuất giống
Nam Trung bộ :
Thực tế cho thấy tôm bố mẹ sống ngoài khơi sinh
sản tốt hơn, con giống khoẻ hơn, do đó chỉ sử dụng tôm khai thác xa bờ nhưng phải
được kiểm dịch chặt chẽ. Khi các cơ sở nhập tôm bố mẹ về yêu cầu bắt buộc phải
báo cáo số lượng, nguồn gốc để thực hiện kiểm dịch.
Việc sản xuất tôm giống của các cơ sở phải được
quản lý đảm bảo tuân thủ các điều kiện quy định của pháp luật. Các địa phương cần
đưa các cơ sở tôm giống váo trong khu sản xuất giống tập trung để tạo được số
lượng giống hàng hoá lớn, ở đó có phòng kiểm định chất lượng giống sẽ kiểm soát
được số làn sinh sản của tôm mẹ, kiểm dịch tại nơi sản xuất và công bố chất lượng
theo quy định công bố chất lượng hàng hoá. Những cơ sở sản xuất tôm giống chưa
thực hiện đầy đủ các biện pháp quản lý chất lượng cần đưa lên phương tiện thông
tin đại chúng, trang website chuyên ngành để người sử dụng biết trước khi quyết
định mua. Các hộ sản xuất cần được tổ chức thành các tổ, nhóm, hiệp hội sản xuất
giống và nuôi để thực hiện quản lý cộng đồng có trách nhiệm, giữ cho môi trường
nuôi bền vững, sản phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
Công tác quản lý cần hạn chế sử dụng biện pháp
hành chính mà tăng cường hàm lượng khoa học, áp dụng kỹ thuật nuôi tiến bộ để
có năng suất cao, giảm hệ số sử dụng giống và bền vững môi trường, áp dụng quy
trình sản xuất giống sạch bệnh để hướng cho thị trường lựa chọn những cơ sở có
chất lượng tốt. Thông qua các Hội nghề nghiệp, đội sản xuất, khuyến ngư cơ sở
v.v… tổ chức ký két hợp đồng tiêu thụ giống chất lượng cao với các địa phương
nuôi tôm để phân phối chỉ tiêu, có kế hoạch chuẩn bị, sản xuất giống có trách
nhiệm và tiêu thụ được sản phẩm.
Việc xây dựng các khu sản xuất giống tập trung
đã được triển khai trước hết ở 6 tỉnh theo Quyết định 112/2004/QĐ-TTg của Thủ
tướng chính phủ, những tỉnh khác có điều kiện thuận lợi và thấy cần thiết (như
Bình Thuận) thì có văn bản để Bộ tiếp tục trình bổ sung.
Các địa phương cần củng cố, xây dựng hệ thống
chi cục Bảo vệ nguồn lợi, chi cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y
thuỷ sản có đủ năng lực để giao nhiệm vụ cho các đơn vị đó thực hiện kiểm dịch
giống.
4. Đối với các đơn vị chức năng
thuộc Bộ Thuỷ sản :
-Vụ Nuôi trồng thuỷ sản phối hợp với các tỉnh trọng
điểm nuôi tôm và các tỉnh sản xuất tôm giống Nam Trung Bộ hình thành phương thức
tổ chức đăng ký nhu cầu và ký kết hợp đồng tiêu thụ tôm giống.
- Vụ Khoa học Công nghệ :
+ Kết hợp với các Viện nghiên cứu xác định hình
thái ban đầu của tôm bố mẹ theo nguồn gốc các vùng (tôm bố mẹ ở mỗi vùng biển
có hình thái, màu sắc đặc trưng, kích cỡ khác nhau) để phổ biến tuyên truyền
giúp cho cơ sở nhận biết và lựa chọn những tôm tốt cho sản xuất giống, gấp rút
rà soát điều chỉnh các Tiêu chuẩn ngành về tôm sú bố mẹ, về tôm giống, trại sản
xuất tôm giống.
+ Phối hợp với NAFIQAVED xây dựng tiêu chuẩn về
Phòng kiểm dịch chất lượng giống để các cơ sở đủ điều kiện theo tiêu chuẩn được
công nhận và cấp phép hoạt động theo hướng xã hội hoá dịch vụ kiểm định, xây dựng
quy trình kiểm dịch tôm giống và phương pháp xử lý khi vi phạm;
+ Phối hợp với các Viện nghiên cứu tổ chức tập
huấn, đào tạo nâng cao năng lực của đội ngũ kiểm dịch viên để có thể sử dụng được
phương tiện máy móc hiện đại và cho kết quả kiểm tra chính xác;
+ Phối hợp với Trung tâm Khuyến ngư Quốc gia,
Nafiqaved tổ chức khảo sát để xây dựng chương trình nhập công nghệ kiểm tra bệnh
bằng phương pháp PCR – nguyên con từ Trường đại học Trung Sơn – Trung Quốc, đây
là công nghệ tiến bộ, kiểm tra nhanh để phục vụ nhanh cho sản xuất;
- Cục quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh thú
y thuỷ sản sớm hoàn thiện và trình Bộ ban hành Quy chế kiểm dịch thuỷ sản và sản
phẩm thuỷ sản, danh mục các bệnh thuỷ sản phải kiểm dịch xuất nhập khẩu.
- Trung tâm Khuyến ngư quốc gia phối hợp với các
địa phương tăng cường công tác khuyến ngư về nhận biết chất lượng tôm giống cho
nông ngư dân bằng phương pháp kiểm tra nhanh gây sốc foocmol, nhiệt, độ mặn
v.v…
Văn phòng Bộ Thuỷ sản xin thông báo kết luận của
Thứ trưởng Nguyễn Việt Thắng tại hội nghị bàn biện pháp giải quyết tôm giống
cho vụ nuôi tôm năm 2006 để các Sở Thuỷ sản các tỉnh thành phố ven biển, các
đơn vị thuồc Bộ biết và thực hiện.
|
TL. BỘ TRƯỞNG
KT. CHÁNH VĂN PHÒNG
PHÓ VĂN PHÒNG
Đinh Ngọc Anh
|