BỘ
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
******
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
43/2002/QĐ-BNN
|
Hà
Nội, ngày 04 tháng 06 năm 2002
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC BAN HÀNH TIÊU CHUẨN NGÀNH
BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN
Căn cứ Nghị định số 73/CP
ngày 01 tháng 11 năm 1995 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và tổ chức bộ máy của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn;
Căn cứ Nghị định 86/CP ngày 8 tháng 12 năm 1995 của Chính phủ “Quy định phân
công trách nhiệm quản lý nhà nước về chất lượng hàng hoá”;
Căn cứ vào Quy chế lập, xét duyệt và ban hành kèm theo quyết định số
135/1999/QĐ-BNN-KHCN ngày 01 tháng 10 năm 1999;
Theo đề nghị của ông Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ và chất lượng sản phẩm,
QUYẾT
ĐỊNH:
Điều 1. Nay ban hành các tiêu chuẩn ngành sau:
1. 10 TCN
527-2002 Quy trình kỹ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch cà phê
chè.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày
ký.
Điều 3. Các ông Chánh văn phòng Bộ, Vụ trưởng Vụ
Khoa học Công nghệ và CLSP, Thủ trưởng các đơn vị liên quan chịu trách nhiệm
thi hành Quyết định này ./.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
THỨ TRƯỞNG
Bùi Bá Bổng
|
Tiêu chuẩn ngành
10
TCN 527 2002
|
QUY TRÌNH
KỸ THUẬT TRỒNG, CHĂM SÓC VÀ THU HOẠCH CÀ PHÊ CHÈ
(The technical procedure for planting, maintenance and harvesting of
Arabica Coffee)
1. PHẠM VI ÁP DỤNG.
Quy trình kỹ
thuật này áp dụng cho các vùng trồng cà phê chè ở các tỉnh phía Bắc từ đèo Hải
Vân trở ra. Riêng các tỉnh trồng cà phê chè ở phía Nam đèo Hải Vân, cần có độ
cao 800m trở lên so với mặt nước biển với các giống cà phê chè thuần chủng; độ
cao trên 400m với giống Catimor và các giống lai khác, có thời kỳ khô hạn ngắn
và nhiệt độ thấp vào sau thời kỳ thu hoạch.
2. TIÊU CHUẨN TRÍCH DẪN
- TCVN
4334-2001 (ISO 3509-1989): Cà phê và các sản phẩm của cà phê, thuật ngữ
và định nghĩa.
- 10TCN 84-87
: Quy trình kỹ thuật trồng cà phê.
- 10TCN 97-88
: Cà phê quả tươi.
- 10TCN 98-88
: Quy trình kỹ thuật chế biến cà phê.
3. MỤC TIÊU KINH TẾ KỸ THUẬT
Thời kỳ kiến
thiết cơ bản : 3 năm ( 1 năm trồng, 2 năm chăm sóc)
Năng suất
bình quân trong suốt thời kỳ kinh doanh.
+Trên đất nâu đỏ bazan và đất đá vôi : 2.0-2.5 tấn nhân/ha
+ Trên các loại đất
khác
: 1.5-2.0 tấn nhân/ha.
4. QUY TRÌNH KỸ THUẬT
4.1 trồng mới.
4.1.1 Thời vụ trồng.
Thời vụ trồng cà phê tuỳ thuộc
vào khí hậu thời tiết từng vùng, bắt đầu vào đầu mùa mưa và kết thúc trước
mùa khô 2-3 tháng.
- ở các tỉnh Tây Nguyên : Từ
15/5 đến 15/8.
- Các tỉnh Duyên hải Nam trung
bộ : Từ 15/8 đến hết tháng 10.
- Các tỉnh phía Bắc từ đèo Hải
vân : Từ 15/7 đến hết tháng 9 và có thể trồng vào tháng 3-4 nếu có cây giống.
4.1.2 Đất trồng.
Các loại đất
bazan, đất poocphia, đất đá vôi, đất granít, gnei, đất phiến thạch sét, phù sa
cổ..., có tầng đất dày trên 70cm, thoát nước tốt, mực nước ngầm nằm sâu cách mặt
đất trên 100cm; đất có độ dốc dưới 200, độ xốp trên 60%, lớp đất mặt 0-30cm, có
hàm lượng hữu cơ tối thiểu 2,5%, độ chua pHKCL 4,5-6 đều trồng được cà phê chè.
Trong thực tế thì đất bazan, đất đá vôi và độ dốc dưới 8 0 là thích hợp nhất.
Đất từ
các vườn cây bạch đàn, keo tai tượng, vườn cây ăn quả lâu năm hết nhiệm kỳ
kinh tế, vườn cà phê già cỗi hoặc bị bệnh thối rễ phải thanh lý thì phải xử lý
đất bằng các biện pháp khai hoang, cày bừa, rà rễ, gieo trồng cây phân xanh họ
đậu, cây đậu đỗ ăn hạt từ 2-3 vụ vùi thân lá vào đất để cải tạo đất, xử lý vôi,
thuốc diệt trừ nấm bệnh kiểm tra tuyến trùng, rệp sáp và các loại nấm bệnh trước
lúc trồng cà phê.
Đất
đã bị thoái hoá (trồng cây ngắn ngày không có hiệu quả) thì phải bón nhiều phân
hữu cơ, hoặc phải cải tạo đất bằng gieo trồng cây họ đậu có bón thêm phân hoá
học (20N- 30P2O5/ha) thân lá vùi vào đất liên tục trong 2-3 vụ.
4.1.3 Thiết kế
vườn cây
- Nếu khu đất có diện tích lớn, địa hình
ít phân cắt, cần thiết kế thành từng khoảnh 10-15 ha, chiều dài theo đường đồng
mức. Trong khoảnh chia ra thành từng lô khoảng 1ha (50x200m)
- Nếu khu đất hẹp, địa hình phân cách mạnh thì chia lô theo
đường phân cách của địa hình
- Xung quanh khoảnh nên có đường
vận chuyển rộng 4-5m.
- Giữa các lô tuỳ theo địa hình mà có các đường phân lô rộng 2-3 m theo đường đồng
mức.
4.1.4 Mật độ,
khoảng cách trồng và kích thước hố
Mật độ khoảng
cách trồng phụ thuộc vào giống cà phê và độ dốc.
Xem bảng sau:
Giống cà
phê
|
Độ
dốc dưới 8 độ
|
Độ
dốc trên 8 độ
|
Khoảng
cách
(m)
|
Mật
độ
(cây/ha)
|
Khoảng
cách
(m)
|
Mật
độ
(cây/ha)
|
Catimor và các giống thấp cây
khác.
|
2
x 1,0
|
5000
|
2
x 0,8
|
6250
|
Các giống cà phê chè cao cây
như
Typica, Bourbon
|
2,5
x1,5
|
2667
|
2,5 x 1,0
|
4000
|
Hàng cà phê
phải trồng theo đường đồng mức, kích thước hố tối thiểu là:
- Dài 40cm, rộng 40cm, sâu 50 cm đối với các giống cà phê thấp cây.
- Dài 50cm, rộng 50cm, sâu 60 cm đối với các giống cà phê cao cây.
Trên đất có độ
dốc lớn, thì hố trên các hàng đào lệch nhau tạo thành nanh sấu Khi
đào thủ công thì đất đào để phía dưới dốc, lớp đất mặt để riêng một phía, sau
này trộn với phân hữu cơ, phân lân để đưa xuống hố trồng.
4.1.5
Tiêu chuẩn cây giống.
-
Cây giống ươm bằng hạt, khi đưa ra trồng phải đạt các tiêu chuẩn sau:
-
Tuổi cây: 6- 8 tháng
-
Số cặp lá thật : 5-7 cặp lá
-
Chiều cao cây (kể từ mặt bầu) : 25-30cm
-
Thân mọc thẳng đứng
-
Màu lá xanh đậm
-
Đường kính gốc thân: 2-3mm
-
Cây không có dị tật, không bị sâu bệnh
-
Kích thước bầu: 12-13 x 20 - 23cm
Cây được đưa
ra ánh sáng hoàn toàn 10-15 ngày trước lúc trồng.
4.1.6
Trồng mới
- Trộn đều lớp
đất mặt với 5-6kg phân chuồng hoai mục, 0,2-0,3kg phân lân nung chảy rồi lấp đất
xuống hố. Công việc này phải hoàn thành trước khi trồng ít nhất 20 ngày.
- Khi trồng
phải trộn đất và phân trong hố một lần nữa, sau đó cuốc một hố nhỏ sâu 25-30cm,
rộng 15-20cm ở chính giữa hố đã được lấp trước đó. Dùng dao xén túi bầu, cắt rễ
cọc bị cong ở đáy bầu, đặt cây vào hố, điều chỉnh cây thẳng đứng và thẳng
hàng, mặt bầu đặt sâu cách mặt đất 5-6cm; ở các tỉnh miền nam và Tây nguyên đặt
mặt bầu cách mặt đất 10-15cm(trồng âm). Lấp đất từ từ, vừa lấp vừa dùng
tay nén chặt đất vào thành bầu, sau đó dùng chân dẫm nhẹ xung quanh cho
chặt, chú ý không được làm vỡ bầu, mỗi hố chỉ trồng một cây.
- Trên đất dốc
sau khi trồng xong, tiến hành tạo ổ gà ở quanh gốc , nén chặt thành để tránh đất
lấp cây cà phê, ổ gà rộng hơn hố cà phê.
Trồng dặm
kịp thời những cây bị chết, cây yếu, trồng dặm vào đầu mùa mưa và chấm dứt trước
kết thúc mùa mưa 01 tháng. Khi trồng dặm chỉ cần móc đất và trồng lại trên hố
cũ. Cây giống trồng dặm cũng phải chọn cây tốt đủ tiêu chuẩn.
4.1.7 Trồng
cây đai rừng, cây che bóng, cây trồng xen.
4.1.7.1
Đai rừng chắn gió.
- Đai rừng chắn gió thẳng
góc, hoặc lệch 600 so với hướng gió chính, rộng 6-9m. Khoảng cách đai rừng tuỳ
theo kích thước của khoảnh. Có thể trồng hai hàng cây muồng đen (Cassia seamia
Lamk) hàng cách hàng 2m, cây cách cây 2m hoặc 3 hàng cây bạch đàn (Eucalyptus
sp), cây tràm hoa vàng (Acacia auriculiformis), cây keo tai tượng (Acacia
mangium) hàng cách hàng 1m, cây cách cây 1-2 m trồng nanh sấu, ngoài đai rừng
chính còn có các đai rừng phụ trồng thẳng góc với đai rừng chính, một
hàng cây keo tai tượng, tràm hoa vàng hoặc cây ăn quả.
- Thiết kế
đai rừng kết hợp thiết kế lô khoảnh. Nếu có điều kiện thì trồng đai rừng trước
lúc trồng cà phê 1-2 tháng. Trên đỉnh đồi nên trồng cây rừng dày đặc để hạn chế
xói mòn.
4.1.7.2
Cây che bóng.
- Cây che
bóng lâu dài dùng các loại sau đây:
Cây muồng
đen: khoảng cách trồng 20 x 20 m/cây.
Cây keo giậu
(Leucaena glauca Benth), cây muồng lá nhọn (Cassiatora) khoảng cách trồng 10 x
10 m/cây.
Các loại cây
này được gieo trồng vào bầu và chăm sóc cẩn thận, khi đạt độ cao 30-40cm mới
đem ra trồng. Vị trí trồng cây che bóng là ở trên hàng, giữa hai cây cà phê.
Cây che bóng được trồng đồng thời với lúc trồng cà phê. Có thể dùng cành bánh tẻ
của cây muồng lá nhọn trưởng thành cắm trực tiếp vào đất trong vụ mưa.
Khi cây che
bóng phát triển tốt, phải thường xuyên rong tỉa bớt cành ngang, tán cây che bóng
cách tán cà phê ít nhất 2 - 3m ở thời kỳ đầu và 4m trở lên ở thời kỳ kinh
doanh.
Cà phê trong
vườn hộ gia đình, sử dụng cây na, vải, nhãn, chuối, đu đủ, quế, hoè, mận,
mơ…..trồng xen hoặc trồng xung quanh vườn, khoảng cách trồng 20x15m/cây để tăng
thu nhập kết hợp với làm cây che bóng, nhưng phải bón phân đầy đủ và rong tỉa
cành ngang, tạo hình thích hợp theo từng loại cây
- Cây che
bóng tạm thời: Cây cốt khí (Tephrosia candida DC), muồng hoa vàng (Casia
surattensis Burm), đậu công (Flemingia congesta) là những cây che bóng chắn
gió tạm thời, thích hợp cho cà phê kiến thiết cơ bản. Hạt gieo vào đầu mùa mưa
giữa hai hàng cà phê, khoảng cách 2-3 hàng cà phê gieo một hàng cây che bóng,
khi cây phát triển tốt, cành chen tán cà phê thì rong tỉa cành lá ép xanh vào gốc
cà phê.
4.1.7.3 Trồng
xen cây họ đậu.
Vườn cà phê
chè ba năm đầu, cây chưa giao tán nên trồng xen cây đậu đỗ ăn hạt và cây phân
xanh họ đậu giữa hai hàng cà phê để tăng thêm thu nhập, bảo vệ cải tạo đất
và cung cấp sinh khối hữu cơ chất lượng cao cho cây.
Các cây đậu đỗ
ăn hạt như lạc, đậu hồng đào, đậu tương, đậu đen......gieo vào đầu hoặc giữa vụ
mưa, phải bón phân và chăm sóc theo yêu cầu của cây, sau khi thu hoạch củ, hạt
xong thì tủ thân lá vào gốc cà phê hoặc đào rãnh vùi vào đất.
Các cây phân
xanh họ đậu như muồng hoa vàng, đậu công, đậu chiều (Cajanus flavus DC); đậu
mèo ngồi (Indigofera tinetoria), trinh nữ không gai (Mimosa invisa var inermis)
gieo vào các tháng trong vụ mưa, khi ra hoa thì cắt thân lá vùi vào đất, một
năm có thể cắt thân lá 2-3 lần.
Các cây trồng
xen phải cách gốc cà phê 40-50cm, không gieo xen cây cốt khí, ngô, sắn,
lúa vào vườn cà phê.
4.2 CHĂM
SÓC
4.2.1 Làm cỏ.
Trong giai đoạn
kiến thiết cơ bản, cà phê chưa giao tán, chỉ làm cỏ sạch dọc hàng cà phê
với chiều rộng lớn hơn tán cà phê, chừa lại băng cỏ giữa hai hàng cà phê để chống
xói mòn đất, mỗi năm làm cỏ 4-5 lần và phát ngọn cỏ không được để cỏ cao
bằng cà phê.
Trong giai đoạn
cà phê kinh doanh cần làm cỏ sạch toàn bộ diện tích, làm 3-4 lần trong năm. Tất
cả thân lá cỏ và các tàn dư thực vật có trong vườn cà phê đều được chôn vùi vào
đất để tăng độ xốp và cung cấp dinh dưỡng cho cây.
Nếu có quá
nhiều cỏ tranh, cỏ gấu, cỏ gừng, cỏ trai.... thì dùng thuốc Round up, Spark,
Nufarm nồng độ 4-6 lít thuốc pha với 400-500 lít nước phun cho 1ha,
phun vào lúc cỏ còn non, sinh trưởng mạnh.
4.2.2 Tạo bồn,
tạo bậc thang dần.
Cách tạo bồn đơn giản là
lấy đất quanh gốc, đắp thành bờ ở phía ngoài mép tán, nén chặt thành bờ, chỗ lấy
đất không được sâu quá 15cm và được lấp đầy dần bằng cỏ, các tàn dư thực vật và
đất phía trong gốc tự trôi xuống. Hàng năm bồn được mở rộng theo tán cà phê cho
đến khi đạt kích thước 1-1,5m, thành bồn cao khoảng 10-15cm; việc vét đất làm bồn
được tiến hành vào đầu mùa mưa và phải tránh làm tổn thương bộ rễ cà phê.
Đất có độ dốc
trên 80 cần phải tạo bậc thang dần, công việc này được thực hiện từ
khi đào hố, chuẩn bị đất trồng và suốt trong quá trình chăm sóc làm cỏ cà
phê. Mỗi lần làm cỏ cần có ý thức dùng thân cỏ, cành cây cứng, đá tảng.... xếp
thành hàng về phía dưới, rồi san dần đất phía trên dốc đưa xuống làm liên tục
hai ba năm đầu sẽ thành bậc thang hẹp tương đối hoàn chỉnh.
4.2.3 Bón
phân
4.2.3.1
Bón phân hữu cơ
Phân chuồng
hoai mục được bón định kỳ 3-4 năm một lần với lượng 5-10kg/gốc. Nếu không có
phân chuồng có thể bổ sung các nguồn phân hữu cơ khác, hoặc bằng các loại phân
xanh.
Phân chuồng
và các loại phân hữu cơ bón theo rãnh vào đầu hay giữa mùa mưa, rãnh đào một
phía dọc theo thành bồn, rộng 15-20cm sâu 20-25cm, đưa phân xuống rãnh, lấp đất.
Các năm sau rãnh đào về phía khác.
4.2.3.2
Bón phân hoá học
a. Liều lượng
Định lượng phân hoá học bón
cho cà phê hàng năm theo bảng dưới đây:
Lượng phân nguyên chất
(kg/ha/năm)
Tuổi
cà phê
|
N
|
P2
05
|
K20
|
Trồng mới
|
40
- 50
|
150
- 180
|
30
- 30
|
Chăm sóc 1
Chăm sóc 2
|
70
- 95
160-
185
|
80-
90
80
- 90
|
50
- 60
180
- 210
|
Kinh doanh chu kỳ 1
|
255
- 280
|
90
- 120
|
270
- 300
|
Cưa đốn phục hồi
( bón nuôi chồi)
|
115
- 140
|
150
- 180
|
120
- 150
|
Kinh doanh chu kỳ 2
|
255
- 280
|
90
- 120
|
270
- 300
|
Ghi
chú : Khi dùng các loại phân đơn hoặc phân hỗn hợp NPK, thì căn cứ vào tỷ lệ
nguyên chất của các loại phân để tính cho đủ lượng bón.
b. Cách bón
- Với cà phê
trồng mới: Khoảng 20-25 ngày sau khi trồng thì tiến hành bón thúc phân đạm và
kali. Chia đều lượng phân trên bón làm 2 lần trong mùa mưa. Toàn bộ phân lân
bón lót vào hố trước lúc trồng.
- Với các tuổi cà phê khác: 100%
lân bón lần 1, rãi đều xung quanh trong phạm vi tán cà phê. Phân đạm và kali
bón 4 lần theo bảng sau:
THỜI KỲ VÀ TỶ
LỆ BÓN PHÂN KHOÁNG BÓN TRONG NĂM
Loại
phân
|
Tỷ
lệ bón (%)
|
Lần
1
tháng
2-3
|
Lần
2
tháng
4-5
|
Lần
3
Tháng
6-7
|
Lần
4
tháng
9-10
|
Đạm
Lân
Kali
|
20
100
20
|
30
-
30
|
30
-
30
|
20
-
20
|
- Dùng dạng đạm
sunfat amôn để bón lần 1, các tỉnh phía Nam bón lần 1 kết hợp với tưới nước.
- Đào rành
xung quanh tán cà phê cách gốc 10-30cm, rộng 10-15cm, sâu 5cm, rải đều phân rồi
lấp đất.
- Ngoài lượng
phân quy định trên : để đảm bảo cho vườn cây bền vững, năng suất cao ổn định
thì 2-3 năm có thể bón vôi 1 lần với lượng 500-1000kg vôi/ha, bón vào đầu vụ
mưa, rải đều trong phạm vị tán cây.
ở giai đoạn kinh doanh hàng năm có thể
bón thêm 10-15kg ZnSO4 và 10-15kg H3BO4 , trộn đều với đạm, kali bón hoặc phun
trực tiếp lên lá với nồng độ 0,5 %..
4.2.4 Tưới nước.
Ở Tây Nguyên
vào mùa khô cần tưới khoảng 3-4 đợt, mỗi đợt tưới cách nhau 20-25 ngày, lượng
nước tưới tuỳ thuộc vào tuổi cây: Năm trồng mới và hai năm chăm sóc tiếp theo cần
tưới 200-300m3/ha/1 lần tưới.
Các năm kinh
doanh cần 400-500m3/ha/1 lần tưới; Riêng đợt tưới đầu cho cà phê kinh doanh là
vào thời điểm mầm hoa đã phát triển đầy đủ (cuối tháng 1) và phải tưới lượng nước
600m3/ha/đợt đầu.
Cà phê trồng ở các tỉnh phía Bắc:
(Từ đèo Hải Vân trở ra) không cần tưới , những nơi có điều kiện thuận lợi nên
tưới vào những thời điểm khô hạn kéo dài.
4.2.5 Tạo hình
- Cắt bỏ những chồi vượt mọc
từ gốc hoặc từ nách lá trên thân kịp thời. Không để thêm thân phụ,
trường hợp thân chính bị gẫy thì để một chồi vượt to khoẻ thay thế.
- Cắt bỏ cành tăm, cành
vòi voi, cành chùm, những cành nhỏ ở phía giáp thân, cành bị sâu bệnh, cành
khô, cành thứ cấp mọc hướng vào trong hoặc hướng xuống dưới, cành mọc sát thân
chính ở đốt 1,2,3 trên cành cơ bản. Tỉa thưa bớt cành thứ cấp nếu thấy quá dày,
cắt ngắn những cành già cỗi không có khả năng ra quả vụ tiếp, cắt bỏ cành cơ bản
chạm sát mặt đất và cành mọc sát nhau.
Các
công việc cắt cành tạo tán phải làm thường xuyên và phải đặc biệt chú ý cắt tỉa
cành sau khi đã thu hoạch xong.
- Các giống
Bourbon, Typica, Mundo Novo hãm ngọn lần 1 ở độ cao 1,4m sau 2-3 năm các cành
cơ bản phát sinh cành thứ cấp và cành dưới già cỗi thì chọn một chồi vượt
to khoẻ gần đỉnh tán để nuôi tầng thứ hai và hãm ngọn ở độ cao cả cây
1,6m-1,8m.
Các giống thấp
cây, tán bé, khả năng phát triển chiều cao hạn chế như Caturra, Catuai, Catimor
thì hãm ngọn một lần ở độ cao
1,8m.
Cần chú ý vặt bỏ các chồi vượt mọc
lên sau khi hãm ngọn.
4.2.6 Cưa đốn
phục hồi ( trẻ hoá vườn cây).
Vườn cà phê
già không còn khả năng cho năng suất cao, không có hiệu quả kinh tế thì tiến
hành cưa đốn phục hồi, chuyển sang chu kỳ kinh tế 2.
- Thời vụ cưa
đốn : tháng 2,3 ở phía Bắc; tháng 3,4 ở Tây Nguyên thường là sau khi thu hoạch
xong hoặc đầu mùa mưa.
- Dùng cưa
cưa thân, để lại đoạn gốc cách mặt đất 20-25cm bề mặt cắt phải phẳng và vát một
góc 450 không hướng về hướng tây, sau đó chuyển toàn bộ thân chính ra khỏi vườn.
Rong tỉa cành cây che bóng để cho ánh sáng lọt vào khoảng 60-70%.
- Đào bỏ các
gốc chết, bón 5-10kg phân chuồng và 0,2- 0,3kg lân nung chảy/hố trồng dặm vào
mùa mưa năm đó hoặc năm tiếp theo.
- Rải đều
500-1000kg vôi/ha, cuốc xới toàn bộ đất giữa hai hàng gốc cà phê để trộn vôi
vào đất và làm tơi xốp đất.
- Sau khi cưa
1-2 tháng, giữ lại 4-5 chồi to khoẻ phân bố đều trên thân gốc để giữ lại. Khi
chồi này cao khoảng 20-30cm chỉ giữ lại một gốc 2 chồi để tạo thân, thường
xuyên loại bỏ tất cả các chồi vượt phát sinh.
- Đầu
mùa mưa tiến hành bón phân theo định lượng và phương pháp bón như đã trình bầy ở
trên.
- Tiến hành
gieo xen cây phân xanh họ đậu và cây đậu đỗ ăn hạt vào giữa hai hàng cà phê.
Thân lá ép xanh, bón 5-10kg phân chuồng/gốc.
- Chiều cao hãm ngọn ở chu kỳ này là 1,6-1,7m và tiến hành
các biện pháp tạo hình tỉa cành như chu kỳ đầu.
4.2.7 Biện
pháp kỹ thuật hạn chế tác hại của sương muối.
1. Những vùng
thường hay xuất hiện sương muối cần phải chú ý các biện pháp sau đây:
- Không trồng cà
phê trên các địa bàn có tần suất sương muối dày (dưới 8 năm bị một lần), không
trồng cà phê trên các sườn đồi đón gió lạnh và các thung lũng sâu.
- Vùng trồng
cà phê nhất thiết phải có đai rừng chắn gió lạnh, trồng rừng phòng hộ. Được
chắn ở phía đón gió và cần phải tạo lập các đai rừng quanh đồi cà phê hoặc các
lô khoảnh cà phê.
- Phải có hệ thống cây che bóng chắn gió tầng cao và tầng thấp ngay trong vườn
cà phê, hệ thống này dày hơn các vùng không có sương muối.
- Che tủ gốc
cà phê tốt bằng các tàn dư hữu cơ, các phụ phế phẩm nông nghiệp (thân ngô, rơm
rạ...) . Khi có dự báo sương muối nếu có điều kiện thì tưới nước cho cà phê hoặc
hun khói ở đầu hướng gió.
2. Khi vườn
cà phê bị sương muối thì phải xử lý các biện pháp sau đây:
- Nhanh chóng cưa đốn loại bỏ thân cũ, cưa càng sớm càng tốt, độ cao gốc để lại
tái sinh 7-10cm chỉ thực hiện với cà phê kinh doanh và cà phê đang chăm sóc năm
thứ 2 trở lên.
- Bón vãi đều 500-1000kg vôi; 1000kg phân lân nung chảy; Cuốc, xới xáo sâu
5-10cm toàn bộ mặt đất giữa hai hàng cà phê trộn lấp phân. Gieo trồng xen cây
phân xanh họ đậu, đậu đỗ ăn hạt, thân lá vùi ép xanh cho cà phê.
- Khi chồi cao 20-30cm loại bỏ hết chồi xấu, để lại 3-4 chồi
to khoẻ phân bố quanh gốc và cuối cùng chỉ để một gốc 1-2 chồi làm thân chính.
- Bón phân và chăm sóc như cà phê cưa đốn phục hồi.
4.2.8
Phòng trừ sâu bệnh hại
4.2.8.1
Sâu hại
a. Sâu đục thân mình trắng
(sâu Bore Xylotrechus quadripes).
Gây hại chủ yếu trên cây cà phê từ năm thứ ba trở đi. Sâu trưởng thành là một
loài xén tóc dài từ 8-10mm, đẻ trứng vào các kẽ nứt của vỏ cây, sâu non có màu
trắng dài 2-2,5mm, sâu non đục các đường lằn vòng vèo ngoài vỏ, sau đó ăn vào
phần gỗ làm chết cây cà phê.
Phòng trừ:
Thu gom các cây đã bị sâu hại đem đốt, trồng cây che bóng với mật độ phù hợp.
Theo dõi các đợt trưởng thành ra rộ của sâu và phòng trừ ở giai đoạn trứng và
sâu non bằng một số loại thuốc sau:
- Supracid 40EC 0,25%+ dầu diezel 0,5%.
- Hoặc Diazinol 50EC 0,25% + dầu diezel 0,5% phun lên phần thân cây.
Dùng hỗn hợp
sau đây quét lên phần hoá gỗ của thân cây và của cành lớn.:
Supracid hay Sumithion : 1-2 phần
Phân trâu bò
tươi
: 5 phần
Đất
sét
: 10 phần
Nước
lã
: 15 phần
Thường phòng
trừ vào các đợt sâu đẻ trứng rộ tháng 4,5,10,11.
b. Sâu tiện vỏ (Dihammus
cervinus Battes)
Sâu trưởng
thành là một loại xén tóc, đẻ trứng ở phần gốc sát mặt đất. Sâu tiện vỏ đặc biệt
gây hại trên cây cà phê chè ở năm thứ 1và 2 của KTCB. Sâu non có màu trắng,
gặm phần vỏ và một phần gỗ ở gốc sát mặt đất quanh thân làm cây héo vàng rồi chết.
Phòng trừ
:
- Dùng các loại
thuốc và nồng độ như với sâu đục thân mình trắng, phun hoặc quét lên thân cây
vào tháng 4 đến tháng 5 hàng năm ở giai đoạn KTCB.
c. Rệp vảy xanh (Coccus
viridis), rệp vẩy nâu (Saissetia Hemisphaerica)
Gây hại trên
các lá non và chồi non, chích hút nhựa làm rụng lá và kéo theo nấm muội đen. Kiến
là côn trùng giúp rệp phát tán.
Phòng trừ:
Làm sạch cỏ, cắt bỏ cành sát
mặt đất để hạn chế kiến làm lây lan rệp. Không trồng các cây ký chủ của rệp như
sắn, cam, ổi, quýt, xoài, chè trong vườn cà phê.
Dùng các thuốc
Supracide, Diazinol, Pyrinex, Bi 58 nồng độ 0,15-0,2% phun lên cây có rệp. Cây
bị nặng phun hai lần cách nhau một tuần.
d. Rệp sáp (Pseudococcus spp)
Rệp sáp có
hình bầu dục, trên thân phủ một lớp sáp trắng xám mịn, gây hại ở nhiều bộ phận
khác nhau: Cuống quả, chùm quả, chùm hoa, phần non của cây và dưới rễ gây thối
quả, cháy lá và chết cây.
Phòng trừ:
Trên lá, quả:
Phun Supracide 40 EC 0,15% hoặc Dimecron 100DD 0,15-0,2%, Diazinol 50EC 0,15%
Dưới rễ: Tưới
vào gốc bằng một trong các loại thuốc trên, pha nồng độ 0,2% + 1% dầu hoả, lượng
dùng 1lít dung dịch/gốc.
đ. Nhện đỏ (Red spider mite)
Xuất hiện và gây
hại vào mùa khô, nhện đỏ chích hút dịch cây từ lá làm cho mặt lá thường gồ ghề,
các lá non và lá bánh tẻ sau khi bị hại thường có màu nâu hung như bị cháy nắng.
Lá bị hại rất dễ rụng.
Phòng trừ :
Trồng cây che
bóng, bón phân hữu cơ đủ sẽ hạn chế phát triển của nhện đỏ.
Dùng một
trong các loại thuốc sau để phun: Folidol E 605 0,1-0,2%; Diazinol dạng sữa có
nồng độ 0,1-0,2%.
e. Sâu hồng
(Zeuzera coffea )
Đục vào phần
ngọn của thân và cành ở thời kỳ kiến thiết cơ bản, thường mỗi cây chỉ có 1 con
sâu non gây hại.
Phòng
trừ : Bẻ cành đã bị hại (héo khô) chẻ cành diệt sâu kịp thời.
g. Mọt đục
cành (Xyleborus morstatti) Mọt đục lỗ nhỏ bên dưới cành non làm cành héo
dần và chết, mọt phát triển mạnh vào mùa khô, phòng trừ bằng cách cắt đốt kịp
thời những cây bị hại.
h. Mọt đục quả:
(Stephanoderes hampei)
Gây hại ở
giai đoạn quả chín, đục lỗ từ núm quả chín vào trong đẻ trứng sau đó phá hoại hạt.
Mọt còn phá hoại quả và nhân khô trong kho khi độ ẩm trên 13%.
Phòng trừ: Thu hái các quả
ra trái vụ, nhặt quả rụng để tiêu diệt nguồn sâu (bằng cách đốt).
Dùng thuốc
hoá học Supracide 0,15%, Thiodan 0,25% phun phòng trừ ở giai đoạn quả xanh chuyển
sang chín, phun hai lần cách nhau 3-4 tuần
i. Mối (
Termes spp)
Mối làm tổ
trong đất, mối ăn dần vỏ cây từ gốc lên, lâu ngày làm chết cây .
Phòng
trừ : Làm đất kỹ trước khi trồng để phá các tổ mối. Khi thấy xuất hiện mối trên
vườn cà phê phải đào đất tìm diệt mối chúa. Dùng thuốc Basudin dạng sữa 50% nồng
độ 0,1-0,2% phun hoặc quét lên thân cây.
k. Bọ hũ (Maladera orientalis)
Trưởng thành
còn được gọi là con bọ hung nâu, sâu non có màu trắng xám, đầu và răng có màu
nâu luôn nằm cong hình chữ C, sâu non gặm ăn phần thân nằm dưới mặt đất gây chết
cây ở thời kỳ KTCB, trưởng thành ăn các lá cây vào ban đêm.
Phòng trừ:
làm cỏ, xới xáo đất có tác dụng diệt và hạn chế tác hại của sâu non.
Diệt
sâu non bằng việc rắc thuốc Basudin vào gốc cà phê (10g/gốc), diệt sâu trưởng
thành bọ hũ bằng thuốc Bi 58 nồng độ 0,15%.
4.2.8.2 Bệnh
hại
a. Bệnh gỉ sắt (Hemileia
vastatrix)
Bệnh gây hại
trên lá cà phê làm rụng lá và mất năng suất. Các giống Bourbon, Caturra,
Typica....bị nặng hơn các giống khác. Nấm ký sinh tạo thành các vết bệnh hình
tròn với lớp bột phấn màu vàng nhạt sau đó là màu da cam ở dưới mặt lá. Bệnh
thường xuất hiện vào tháng 10,11,12 và tháng 3,4 năm sau.
Phòng trừ:
Sử dụng những giống kháng bệnh, tăng cường bón phân hữu cơ, vệ sinh đồng ruộng
(chôn vùi lá, tàn dư thực vật). Trường hợp cây bị bệnh quá nặng tàn rụi toàn bộ
lá có thể ghép thay thế bằng một giống cà phê kháng bệnh (TN1, TN2, TH1). Loại
bỏ cây con bị bệnh ngay từ vườn ươm.
Phun một
trong các loại thuốc hoá học sau đây: Anvil 5SC 0,2%; Sumieight 12,5WP
0,05%, Baylenton 0,1%, Boocdo 1% phun 2 lần cách nhau 3 tuần, 0,5 lít dung dịch/cây
vào đầu mùa bệnh.
b. Bệnh khô
cành khô quả (Die Back)
Làm khô cành
khô quả, khô lá thành từng mảng trên phiến lá. Bệnh có nguyên nhân cây thiếu chất
dinh dưỡng hoặc bị nấm Colletotrichum coffeanum gây nên.
Phòng
trừ: Trồng cây che bóng hợp lý và tăng cường dinh dưỡng cho cây, cắt đoạn cành
bị bệnh đã khô để đốt. Khi bệnh xuất hiện dùng các loại thuốc có gốc đồng như:
Boocdo 1%, Benlate 0,2%, Deroral 0,1%, Carbenzim 0,2%; Tilt 0,1% phun 2-3 lần
cách nhau 15 ngày.
c. Bệnh nấm hồng ( Do nấm
Corticium salmonicolor)
Bệnh chủ yếu
gây hại trên cành, phần trên của tán cây. Bệnh thường xuất hiện trong các tháng
mưa, ẩm. Vết bệnh ban đầu là những chấm trắng nằm mặt dưới của cành, sau
hồng dần lan khắp chu vi cành và gây chết cành.
Phòng trừ:
Phát hiện kịp thời để cắt cành bị bệnh. Dùng các thuốc Validacin 2%; Anvil 0,2%
phun 2-3 lần cách nhau 15 ngày, phun tập trung vào quả và cành.
d. Bệnh lỡ cổ rễ (do
Rhizoctonia solani)
Gây hại phổ
biến trên cây cà phê con trong vườn ươm và cây ở giai đoạn KTCB, trồng trên đất
có thành phần cơ giới nặng. Cây bị thối toàn phần hoặc một phần cổ rễ khiến cây
sinh trưởng chậm, vàng lá và có thể chết cây.
Phòng
trừ: Không để đất xung quanh gốc bị đóng váng và đọng nước, tránh gây vết
thương vùng cổ rễ. Nhổ, đốt các cây bị bệnh nặng.
Cây bị bệnh
nhẹ có thể dùng một số loại thuốc sau: Benlate 0,5%, Validacin 3% tưới 2-3 lần
cách nhau 15 ngày.
đ. Bệnh vàng
lá thối rễ (do tuyến trùng và nấm).
Là loại bệnh nguy hiểm có thể
gây chết hàng loạt. Bệnh do sự phối hợp tấn công của tuyến trùng (Pratylenchus
coffeae) và các nấm (Fusarium oxysporum, Fusarium solani, Rhizoctonia
bataticola). Bệnh làm cho cây sinh trưởng chậm, ít cành thứ cấp và chồi vượt,
lá chuyển màu vàng, rễ tơ và cổ rễ bị thối. Cà phê kiến thiết cơ bản thường bị
nghiêm trọng trong mùa mưa, rễ cọc bị thối.
Phòng bệnh
:
Hiện tại chưa
có thuốc đặc trị, phải tuân thủ các quy định sau đây:
- Thường
xuyên kiểm tra vườn cây, phát hiện kịp thời cây bị bệnh nặng đào cây đốt, tưới
thuốc Benlate C hay Bendazol nồng độ 0,5%, 5 lít dung dịch/hố tưới 2 lần cách
nhau 15 ngày cho các cây xung quanh vùng bệnh.
- Bón phân đầy
đủ cân đối, tăng cường bón phân hữu cơ và vôi.
- Hạn chế xới
xáo trong vườn cà phê đã bị bệnh để tránh làm tổn thương bộ rễ.
- Đối với vườn cà phê già
cỗi, vườn bị bệnh sau khi thanh lý không được trồng lại ngay mà phải tiến hành
rà rễ và luân canh bằng các cây trồng ngắn ngày hoặc các cây phân xanh, cây đậu
đỗ ít nhất 2-3 năm trước khi trồng lại cà phê.
5 THU
HOẠCH
5.1 KỸ THUẬT
THU HOẠCH
Thu hoạch những quả đúng tầm
chín trên cây, thu hái bằng tay, hái từng quả, không được tuốt, vặn cành, làm
gãy cành. Thu hoạch nhiều lần trong một vụ để thu hết quả chín, phải ngừng thu
hái trước và sau khi hoa nở 3-5 ngày.
5.2 YÊU CẦU KỸ THUẬT CỦA SẢN
PHẨM THU HOẠCH.
Sản phẩm thu hoạch phải đạt
trên 95% quả chín và tỷ lệ tạp chất không quá 0,5%; Đợt thu hoạch cuối vụ
cũng phải đạt tỷ lệ quả chín trên 85%, tạp chất không quá 1% và không chiếm quá
10% tổng sản lượng toàn vụ.
5.3 BẢO QUẢN QUẢ CÀ
PHÊ CHÍN.
Quả cà phê sau lúc thu
hoạch trong vòng 12 giờ phải được chuyên chở về cơ sở chế biến để xát vỏ ngay
trong ngày. Bao bì đựng cà phê quả và phương tiện vận chuyển phải sạch, không
nhiễm phân bón, hoá chất hoặc bùn cống rãnh …Nếu vận chuyển hay chế biến
không kịp thời thì bảo quản cà phê quả trên nền xi măng, nền gạch, khô ráo
thoáng mát, đổ thành từng đống nhỏ, có chiều dày không quá 40cm.