BỘ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 2143/1999/QĐ-BKHCNMT
|
Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 1999
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC BAN HÀNH TIÊU CHUẨN VIỆT NAM
BỘ TRƯỞNG BỘ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG
- Căn cứ vào Nghị định số
22/CP ngày 22 tháng 5 năm 1993 của Chính phủ về quyền hạn và tổ chức bộ máy của
Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường;
- Căn cứ Pháp lệnh Chất
lượng hàng hoá ngày 27 tháng 12 năm 1990;
Theo đề nghị của Tổng cục
trưởng Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng;
QUYẾT ĐỊNH
Nay ban hành kèm theo
Quyết định này 22 Tiêu chuẩn Việt Nam (Danh mục kèm theo)
|
KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG
Bùi
Mạnh Hải
|
DANH MỤC
CÁC TIÊU CHUẨN VIỆT NAM
Ban
hành kèm theo Quyết định số 2143/1999/QĐ-BKHCNMT ngày 10 tháng 12 năm 1999 của
Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường
1. TCVN 6488: 1999 (ISO
6107-8: 1993)
Chất lượng nước - Thuật
ngữ - Phần 8
2. TCVN 6489: 1999 (ISO
9439: 1990)
Chất lượng nước - Đánh
giá khả năng phân huỷ sinh học hiếu khí "hoàn toàn" của các chất hữu
cơ trong môi trường nước - Phương pháp dựa trên sự phân tích cacbon dioxit được
giải phóng
3. TCVN 6490: 1999 (ISO
10359 - 2: 1994)
Chất lượng nước - Xác
định tổng florua liên kết với các chất vô cơ sau khi phân huỷ và chưng cất
4. TCVN 6491: 1999 (ISO
6060: 1989)
Chất lượng nước - Xác
định nhu cầu oxi hoá học
5. TCVN 6492: 1999 (ISO
10523: 1994)
Chất lượng nước - Xác
định pH
6. TCVN 6493: 1999 (ISO
9562: 1989)
Chất lượng nước - Xác
định các halogen hữu cơ dễ bị hấp thụ (AOX)
7. TCVN 6494: 1999 (ISO
10304-1: 1992)
Chất lượng nước - Xác
định các ion florua, clorua, nitrit, orthophotphat, bromua, nitrat và sunfat
hoà tan bằng sắc ký lỏng ion - Phương pháp dành cho nước bẩn ít
8. TCVN 6495: 1999 (ISO
11074-1: 1996)
Chất lượng đất - Từ vựng
Phần 1: Thuật ngữ và định
nghĩa liên quan đến ô nhiễm và bảo vệ đất
9. TCVN 6496: 1999 (ISO
11047: 1995)
Chất lượng đất - Xác định
cadimi, crom, coban, chì, mangan, niken và kẽm trong dịch chiết đất bằng cường
thủy - Các phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử ngọn lửa và không ngọn lửa.
10. TCVN 6497: 1999 (ISO
11269 - 2: 1989)
Chất lượng đất - Xác định
ảnh hưởng của các chất ô nhiễm lên hệ thực vật đất - ảnh hưởng của hoá chất lên
sự nảy mầm và sự phát triển của thực vật bậc cao
11. TCVN 6498: 1999 (ISO
11261: 1995)
Chất lượng đất - Xác định
nitơ tổng - Phương pháp Kendan (Kjeldahl) cải biên
12. TCVN 6499: 1999 (ISO
11263: 1994)
Chất lượng đất - Xác định
phôtpho - Phương pháp quang phổ xác định phôtpho hoà tan trong dung dịch natri
hidro cacbonat
13. TCVN 6500: 1999 (ISO
6879: 1995)
Chất lượng không khí -
Những đặc tính và khái niệm liên quan đến các phương pháp đo chất lượng không
khí
14. TCVN 6501: 1999 (ISO
10849: 1989)
Sự phát thải của nguồn tĩnh
- Xác định nồng độ khối lượng của các oxit nitơ - Đặc tính của các hệ thống đo
tự động
15. TCVN 6502: 1999 (ISO
10312: 1995)
Không khí xung quanh -
Xác định sợi amiăng - Phương pháp kính hiển vi điện tử truyền dẫn trực tiếp
16. TCVN 6503 - 1: 1999
(ISO 11042 - 1: 1996)
Tuốc bin khí - Sự phát
tán khí thải - Phần 1: Đo và đánh giá
17. TCVN 6503 - 2: 1999
(ISO 11042 - 2: 1996)
Tuốc bin khí - Sự phát
tán khí thải - Phần 2: Quan trắc giám sát phát thải tự động
18. TCVN 6504: 1999 (ISO
8672: 1993)
Chất lượng không khí -
Xác định nồng độ số sợi vô cơ trong không khí bằng kính hiển vi quang học phản
pha - Phương pháp lọc màng
19. TCVN 6553 - 1: 1999
(ISO 6184 - 1: 1985)
Hệ thống phòng nổ - Phần
1: Phương pháp xác định chỉ số nổ của bụi cháy trong không khí
20. TCVN 6553 - 2: 1999
(ISO 6184 - 2: 1985)
Hệ thống phòng nổ - Phần
2: Phương pháp xác định chỉ số nổ của khí cháy trong không khí
21. TCVN 6553 - 3: 1999
(ISO 6184 - 3: 1985)
Hệ thống phòng nổ - Phần
3: Phương pháp xác định chỉ số nổ của hỗn hợp nhiên liệu với không khí trừ hỗn
hợp bụi với không khí và khí cháy với không khí
22. TCVN 6553 - 4: 1999
(ISO 6184 - 4: 1985)
Hệ thống phòng nổ - Phần
4: Phương pháp xác định hiệu quả của hệ thống triệt nổ
LỜI NÓI ĐẦU
TCVN 6502 - 1999 hoàn
toàn tương đương với ISO 10312:1995.
TCVN 6502-1999: do Ban Kỹ
thuật tiêu chuẩn TCVN/TC 146- Chất lượng không khí biên soạn, Tổng cục Tiêu
chuẩn Đo lường, chất lượng đề nghị, Bộ Khoa học, công nghệ và Môi trường ban
hành.
KHÔNG KHÍ XUNG QUANH - XÁC ĐỊNH SỢI AMIĂNG
PHƯƠNG PHÁP KÍNH HIỂN VI ĐIỆN TỬ TRUYỀN DẪN TRỰC TIẾP
Ambient air - Determination of asbestos fibres - Direct - transfer
transmission electron microscopy method
1.
Phạm vi
1.1 Chất được xác định
Tiêu chuẩn này quy định
một phương pháp chuẩn sử dụng kính hiển vi điện tử truyền dẫn trực tiếp để xác
định nồng độ các cấu trúc amiăng trong không khí xung quanh và kèm theo phép đo
chiều dài, chiều rộng và tỷ số chiều dài so với chiều rộng của các cấu trúc
(phần tử) amiăng. Phương pháp này cho phép xác định các loại sợi amiăng hiện
có. Phương pháp này không thể phân biệt được các sợi amiăng đơn lẻ với các sợi
tương tự của khoáng amphibol nhưng không phải là amiăng.
1.2 Loại mẫu
Phương pháp này được xác
định cho các giấy lọc polycarbonate có lỗ mao quản hoặc giấy lọc este xenlulô
(hoặc hỗn hợp este của xenlulô hoặc xenluô nitrat) qua đó một thể tích không
khí xác định được hút vào. Phương pháp này phù hợp cho việc xác định amiăng ở
trong không khí cả bên ngoài và bên trong nhà.
1.3 Phạm vi đo
Phạm vi nồng độ có thể
xác định được là 50 phần tử/mm2 tới 7000 phần tử/mm2 trên
giấy lọc. Những giá trị nồng độ này là một hàm số của thể tích khí lấy mẫu.
Không có giới hạn dưới về kích thước của các sợi amiăng có thể phát hiện được.
Trong thực tế người soi kính có khả năng phát hiện các sợi amiăng rất nhỏ. Vì
thế chiều dài tối thiểu là 0,5 mm được xác định là sợi ngắn nhất được đưa ra trong các kết
quả được báo cáo.
1.4. Giới hạn phát hiện
Giới hạn phát hiện theo
lý thuyết có thể được hạ xuống không hạn chế bằng cách lọc các thể tích không
khí lớn hơn tăng dần và mở rộng sự khảo sát tiêu bản trong kính hiển vi điện
tử. Trong thực tế, giới hạn phát hiện dưới có thể đạt được cho vùng cá biệt của
tiêu bản kính hiển vi điện tử truyền dẫn (TEM) được kiểm soát bằng tổng nồng độ
các hạt lơ lửng.
Với tổng nồng độ các hạt
lơ lửng xấp xỉ 10 mg/m3
tương ứng với không khí nông thôn sạch, và giả thử lọc 4000 lít không khí thì
độ nhậy phân tích có thể đạt được là 0,5 phần tử/lít, tương đương với giới hạn
phát hiện 1,8 phần tử/lít, nếu diện tích 0,195 mm2 tiêu bản kính
hiển vi điện tử truyền dẫn được khảo sát. Nếu tổng nồng độ các hạt lơ lửng cao
hơn, thì thể tích không khí được lọc phải giảm xuống để duy trì sức tải các hạt
trên giấy lọc có thể chấp nhận được, dẫn đến việc làm tăng tương ứng độ nhậy
phân tích.
Trong trường hợp này giới
hạn phát hiện dưới có thể đạt được bằng cách tăng diện tích tiêu bản kính hiển
vi điện tử truyền dẫn được khảo sát. Để đạt được giới hạn phát hiện dưới đối
với các sợi và các bó sợi dài hơn 5 mm, và đối với các sợi tương đương khi soi kính hiển vi quang
học phản pha (PCM), độ phóng đại thấp hơn được qui định để cho phép khảo sát
nhanh hơn các diện tích lớn hơn của tiêu bản kính hiển vi điện tử truyền dẫn
khi việc khảo sát bị giới hạn bởi các kích thước này của sợi. Phương pháp phân
tích trực tiếp không thể sử dụng nếu sức tải các hạt nói chung của giấy lọc thu
mẫu vượt quá xấp xỉ 10 mg/cm2 bề mặt giấy lọc, tương ứng với gần 10% độ
che phủ giấy lọc thu được bởi các hạt. Nếu tổng số các hạt lơ lửng là chất vô
cơ lớn, thì giới hạn phát hiện có thể thấp đáng kể bằng cách dùng phương pháp
chuẩn bị gián tiếp.
2.
Tiêu chuẩn trích dẫn
TCVN 5966: 1995 (ISO
4225: 1994) Chất lượng không khí - Những vấn đề chung - Thuật ngữ.
TCVN 5967: 1995 (ISO
4226: 1993) Chất lượng không khí - Những vấn đề chung - Đơn vị đo.
ISO Cẩm nang Tiêu chuẩn
số 2: 1993 Các đại lượng và đơn vị.
ISO Cẩm nang Tiêu chuẩn
số 3: 1989 Các phương pháp thống kê.
3.
Định nghĩa
Phục vụ cho mục đích của
tiêu chuẩn này áp dụng các định nghĩa sau đây (xem TCVN 5966: 1995/ ISO 4225)
3.1. Acicular hình kim: Hình dạng của tinh thể
cực mảnh có các kích thước cắt ngang tương đối nhỏ so với chiều dài, nghĩa là
như cái kim.
3.2. Amphibol: Một nhóm chất khoáng
silicat feromagiê tạo nên đá liên quan chặt chẽ về tinh thể và thành phần có
công thức danh nghĩa như sau:
A0 hoặc 1
B2C5T8O22(OH, F, Cl)2
trong đó
A = K, Na
B = Fe2+ , Mn,
Mg, Ca, Na
C = Al, Cr, Ti, Fe3+ ,
Mg, F2+
T = Si, Al, Cr, Fe3+,
Ti
Trong một số loại
amphibol, các nguyên tố này có thể được thay thế từng phần bởi Li, Pb, hoặc Zn.
Amphibol được đặc trưng bởi một chuỗi kép liên kết ngang của tứ diện Si - O với
tỷ lệ silic: oxi 4: 11 bằng dạng dọc hoặc tinh thể lăng trụ dạng sợi và bằng sự
tách chẻ lăng trụ thành 2 chiều song song với các mặt tinh thể và giao nhau ở
góc khoảng 560 và 1240.
3.3. Amiăng amphibol: Amphibol ở dạng amiăng.
3.4. Độ nhạy phân tích: Nồng độ các phần tử
amiăng trong không khí tính được (số phần tử amiăng/lít) tương đương với việc
đếm được số phần tử amiăng trong phép phân tích. Phương pháp trong tiêu chuẩn
này không qui định độ nhậy phân tích.
3.5. Dạng amiăng: Một dạng sợi khoáng đặc
trưng mà trong đó các sợi và các dảnh sợi có độ bền kéo cao và mềm dẻo.
3.6. Amiăng: Thuật ngữ đặt cho một
nhóm chất khoáng silicat thuộc nhóm serpentin và nhóm amphibol kết tinh ở dạng
amiăng tạo cho chúng dễ dàng bị tách ra thành các sợi dài, mỏng, và bền khi bị
nghiền hoặc chế biến. Số đăng ký giao dịch với tạp chí Hoá học tóm tắt
(Chemical Abstracts) cho biết các dạng amiăng thông thường nhất là chryrotil
(12001 - 29 - 5) Crocidolit (12001 - 28 - 4) amosit (12172 - 73 - 5)
anthophylet (77536 - 67 - 5) amiăng tremolit (77536 - 68 - 6) và amiăng
actinolit (77536 - 66 - 4).
3.7. Phần tử (cấu trúc)
amiăng: Một
thuật ngữ dùng cho bất cứ nhóm sợi hoặc bó sợi amiăng nào chồng lên nhau hoặc
nối với nhau có hoặc không có các hạt khác.
3.8. Tỷ số hình dạng: Tỷ số giữa chiều dài và
chiều rộng của hạt.
3.9. Mẫu trắng: Phép đếm phần tử tiến
hành trên tiêu bản kính hiển vi điện tử truyền dẫn được chuẩn bị từ giấy lọc
trắng (không qua sử dụng) để xác định phép đo nền.
3.10. Độ dài camera: Độ dài máy chiếu tương
đương giữa tiêu bản và hình nhiễu xạ điện tử trong trường hợp không có sự hoạt
động của thấu kính.
3.11. Chrysotil: Chất khoáng dạng sợi của
nhóm serpentin có thành phần danh nghĩa
Mg3Si2O5(OH)4
Hầu hết chrysotil tự
nhiên sai khác một ít so với thành phần danh nghĩa này. Trong một vài dạng khác
nhau của chrysolit có thể xảy ra một phần nhỏ silic được thay thế bằng Al3+.
Một phần nhỏ Mg bằng Al3+, Fe2+, Fe3+, Ni2+,
Mn2+ và Co2+ cũng có thể có. Chrysotil là loại amiăng phổ
biến nhất.
3.12. Sự phân cắt: Phá vỡ khoáng vật dọc
theo các phương tinh thể học của nó.
3.13. Mảnh phân cắt: Mảnh của tinh thể bị giới
hạn bởi các mặt phân cắt.
3.14. Đám: Một phần tử trong đó hai
hoặc nhiều sợi hoặc các bó sợi định hướng ngẫu nhiên trong một nhóm kết nối với
nhau.
3.15. Khoảng cách d: Khoảng cách giữa các mặt
phẳng gần kề đồng nhất và song song của các nguyên tử trong tinh thể.
3.16. Nhiễu xạ điện tử: Một kỹ thuật trong kính
hiển vi điện tử mà cấu trúc tinh thể của mẫu vật được khảo sát.
3.17. Năng lượng phân tán
điện tử: Mức
năng lượng mà một lớp mỏng của một chất làm phân tán các điện tử chệch khỏi các
hướng ban đầu của chúng.
3.18. Phép phân tích tia
X phân tán năng lượng: Phép đo năng lượng và cường độ của các tia X bằng cách sử
dụng một đầu dò trạng thái rắn và hệ thống máy phân tích nhiều kênh.
3.19. Tâm ảo: Là điều kiện khi diện
tích quan tâm của vật thể được đặt lên trục nghiêng ở chỗ giao nhau của chùm
tia điện tử với trục ấy và nằm trong mặt phẳng hội tụ.
3.20. Mẫu trắng hiện
trường: Một
hộp giấy lọc được mang ra vị trí lấy mẫu, mở ra và đóng lại. Giấy lọc như thế
được sử dụng để xác định số đếm phần tử nền cho phép đo.
3.21. Sợi mảnh: Một sợi đơn amiăng không
thể chia tách nữa theo chiều dài thành những thành phần nhỏ hơn mà không mất đi
các tính chất hoặc hình dạng sợi.
3.22. Sợi: Một hạt kéo dài có các
mặt song song hoặc không cách đều. Vì mục đích của tiêu chuẩn này, sợi được
định nghĩa là có tỷ số hình thể bằng hoặc lớn hơn 5 : 1 và độ dài tối thiểu 0,5
mm.
3.23. Bó sợi: Một phần tử bao gồm các
sợi song song có đường kính nhỏ hơn gắn dọc theo chiều dài của sợi.
Một bó sợi có thể thể
hiện các sợi rẽ ra ở một hoặc cả hai đầu.
3.24. Phần tử sợi: Một sợi, hoặc nhóm các
sợi kết nối với nhau, có hoặc không có các hạt khác.
3.25. Dáng vẻ: Dạng phát triển tinh thể
đặc trưng của một khoáng vật (hoặc sự kết hợp của các dạng này), kể cả các đặc
trưng bất thường khác.
3.26. Giới hạn phát hiện:
Nồng độ
phần tử amiăng trong không khí tính bằng phần tử/lít tương đương với số đếm
2,99 phần tử amiăng trong phép phân tích.
3.27. Mạng: Cấu trúc mà trong đó một
hoặc nhiều sợi hoặc các bó sợi, được áp gắn vào, hoặc bị che lấy từng phần bởi
một hạt đơn hoặc nhóm kết nối các hạt không có xơ sợi.
3.28. Chỉ số Miler: Một tập hợp gồm ba hoặc
bốn số nguyên dùng để chỉ hướng của mặt phẳng tinh thể học liên quan với các
trục tinh thể.
3.29. Sợi tương đương
PCM: Một
sợi có tỷ số hình dạng lớn hơn hoặc bằng 3: 1 dài hơn 5 mm và có đường kính trong
khoảng 0,2 mm và 3,0 mm.
3.30. Phần tử tương đương
PCM: Một
phần tử sợi có tỷ số hình dạng lớn hơn hoặc bằng 3: 1 dài hơn 5mm và có đường kính trong
khoảng 0,2 mm - 3,0 mm.
3.31. Phần tử ban đầu: Một phần tử sợi là một
thực thể riêng biệt trong hình ảnh của kính hiển vi điện tử truyền dẫn.
3.32. Sự sao chép: Qui trình làm bản sao
mỏng hoặc phiên bản của bề mặt trong khi chuẩn bị tiêu bản kính hiển vi điện
tử.
3.33. Nhiễu xạ điện tử
vùng chọn lọc: Một kỹ thuật trong hiển vi điện tử khi cấu trúc tinh thể của một vùng
nhỏ của mẫu được khảo sát.
3.34. Serpentin: Một nhóm khoáng vật dạng
đá thông thường, có công thức danh định
Mg3Si2O5(OH)4
3.35. Phần tử: Sợi đơn, bó sợi, đám hoặc
mạng.
3.36. Tinh thể kép: Sự xuất hiện các tinh thể
cùng loại kết nối với nhau theo một hướng chung đặc thù, như vậy các hướng cân
đối với nhau được liên quan theo một qui tắc nhất định.
3.37. Sợi không tách: Bó sợi amiăng đường kính
lớn không tách được ra thành các sợi mảnh thành phần hoặc các sợi.
3.38. Trục vùng tinh thể: Đường hoặc hướng tinh
thể học qua tâm của tinh thể song song với các cạnh giao nhau của các mặt tinh
thể định ra vùng tinh thể.
4.
Nguyên tắc
Mẫu bụi trong không khí
được lấy bằng cách hút một thể tích không khí xác định qua hoặc giấy lọc màng
polycarbonat kích thước lỗ mao quản cỡ lớn nhất 0,4 mm hoặc giấy lọc mạng este xenlulô
(hoặc hỗn hợp của este xenlulô hoặc xenlulô nitrat) kích thước lỗ lọc tối đa
0,45 mm bằng một cái bơm chạy
bằng acqui hoặc điện lưới. Các tiêu bản TEM được chuẩn bị từ giấy lọc
polycarbonat bằng cách ép một màng mỏng cabon vào bề mặt giấy lọc với cách bay
hơi chân không. Những diện tích nhỏ được cắt ra từ giấy lọc đã được phủ cacbon
được đỡ trên lưới của tiêu bản TEM và chất liệu lọc bị hoà tan hết nhờ qui
trình chiết bằng dung môi. Qui trình này để lại màng cacbon mỏng che kín những
khoảng trống trong lưới tiêu bản TEM và giữ mọi hạt trên giấy lọc gốc ở vị trí
ban đầu của nó. Các giấy lọc este của xenlulô được xử lý hoá học để xoá đi cấu
trúc lỗ của giấy lọc và bề mặt của giấy đã xoá bỏ cấu trúc lỗ được tro hoá trong
plasma oxi để đảm bảo rằng tất cả các hạt lộ ra. Màng cacbon mỏng được làm bay
hơi lên bề mặt giấy lọc và các diện tích nhỏ được cắt ra từ giấy lọc. Các phần
này được đỡ trên lưới tiêu bản TEM và chất liệu lọc bị hoà tan hết bởi qui
trình chiết bằng dung môi.
Các lưới tiêu bản TEM từ
một trong hai phương pháp chuẩn bị được kiểm tra ở cả độ phóng đại cao và thấp
để kiểm tra xem chúng có phù hợp cho phép phân tích không trước khi thực hiện
đếm số lượng các phần tử trên các khe hở của lưới được chọn một cách ngẫu
nhiên. Trong phép phân tích TEM, nhiễu xạ điện tử được sử dụng để kiểm tra cấu
trúc tinh thể của sợi và thành phần nguyên tố của nó được xác định bằng phép
phân tích tia X phân tán năng lượng (EDXA). Vì một số lý do, không thể nhận
dạng mỗi sợi một cách rõ ràng, và các sợi được phân loại theo các kỹ thuật dùng
để nhận dạng chúng. Một mã đơn giản được sử dụng để ghi lại cách thức được phân
loại đối với mỗi sợi. Qui trình phân loại trên cơ sở kiểm tra lần lượt về hình
thái học, mẫu nhiễu xạ điện tử cho vùng đã chọn, và các phép phân tích định
tính và định lượng bằng ED, và sự khẳng định amphibol chỉ được làm nhờ phân
tích định lượng bằng EDXA và phân tích định lượng bằng ED dọc trục tinh thể.
Ngoài các sợi riêng rẽ,
mẫu không khí xung quanh thường chứa nhiều khối Sợi phức tạp hơn có hoặc không
có các hạt khác kèm theo. Một vài hạt là hợp phần của các sợi amiăng với các
khoáng chất khác. Các sợi riêng lẻ và các phần tử phức tạp hơn được quy cho là
"các phần tử amiăng". Một hệ thống mã được sử dụng để ghi lại loại
phần tử sợi và cung cấp mô tả tối ưu của mỗi phần tử phức tạp này. Hai mã loại
bỏ yêu cầu giải thích dữ liệu đếm phần tử từ người soi kính và cho phép đánh
giá mà không đòi hỏi kiểm tra lại các tiêu bản TEM. Một vài mức độ của phép
phân tích được qui định, các mức độ cao hơn tạo ra sự tiếp cận tỉ mỉ hơn để
nhận diện các sợi. Qui trình cho phép một chuẩn cứ tối thiểu cần thiết để nhận
diện sợi được xác định trên cơ sở của sự hiểu biết trước đây hoặc không cần mẫu
riêng. Sau đó mọi cố gắng được làm để đạt được chuẩn cứ tối thiểu này cho mỗi
sợi và mức độ của kết quả được ghi lại cho mỗi sợi. Chiều dài và độ rộng của
tất cả các phần tử và sợi đã phân loại được ghi lại. Số phần tử amiăng tìm thấy
trên diện tích đã biết của mẫu kính hiển vi, cùng với thể tích không khí tương
đương được lọc qua diện tích này được sử dụng để tính toán nồng độ các phần tử
sợi amiăng trong không khí/lít không khí.
5.
Ký hiệu của đơn vị và các chữ viết tắt
5.1. Ký hiệu đơn vị (xem TCVN 5967: 1995/ISO
4226 và ISO Handbook số 2)
eV = Electron von;
kV = kilovon;
l/min = lít/phút;
mg = microgam (10-6
gram);
mm = micormet (10-6
met);
nm = nanomet (10-9
met).
W = oat;
5.2. Chữ viết tắt
DMF Dimethylformamid
DE Nhiễu
xạ điện tử
EDXA Phép
phân tích tia X phân tán năng lượng
FWHM Toàn
bộ chiều rộng, tối đa một nửa
HEPA Hạt
hiệu suất cao tuyệt đối
MEC Hỗn
hợp este của xenlulô
PC Polycacbonat
PMC Kính
hiển vi quang học tương phản pha
SAED Nhiễu
xạ điện tử ở diện tích được chọn lựa
SEM Kính
hiển vi điện tử quét
STEM Kính
hiển vi điện tử truyền dẫn
TEM: Kính
hiển vi điện tử truyền dẫn
UICC Hội
chống Ung thư quốc tế.
6.
Thuốc thử
Trong khi phân tích (trừ
những qui định khác), chỉ sử dụng các hoá chất loại phân tích đã được công nhận
và nước (6.1).
Cảnh báo: sử dụng các
thuốc thử phải phù hợp với các qui định về an toàn và sức khoẻ tương ứng.
6.1. Nước, không có sợi
Phải sử dụng nguồn cấp
nước mới chưng cất, không có sợi hoặc các nguồn nước khác không có sợi, không
có pyrogen (không có sunfua).
6.2 Chloroform, loại phân tích được chưng
cất trong bình thuỷ tinh, bảo quản với 1% (thể tích/thể tích) etanol.
6.3. 1- Methyl 2
pyrrolidone
6.4. Dimethylformamide
6.5. Axit axêtic băng
6.6. Axêton
7.
Các thiết bị
7.1. Lấy mẫu không khí -
Thiết bị và vật tư tiêu hao
7.1.1. Hộp đựng giấy lọc
Phải sử dụng các thiết bị
quan trắc hiện trường, bao gồm hộp 3 bộ phận đường kính 25 mm - 50 mm có chụp
mà hình chiếu nhỏ hơn 2 cm trước bề mặt giấy lọc sẽ được dùng để lấy mẫu. Hộp
phải được cài đặt giấy lọc polycacbonat lỗ mao quản tối đa 0,4 mm hoặc hỗn hợp este
xenlulô hoặc xenlulô nitrat với cỡ lỗ tối đa 0,45mm. Giấy lọc phải được đỡ bằng giấy
lọc este xenlulô cỡ lỗ lọc 5mm hoặc bằng giấy lọc xenlulô nitrat, và được đỡ bằng miếng
đệm xenlulô. Khi đã đặt giấy lọc vào, phải dùng băng xenlulô đàn hồi hoặc băng
dính để tránh sự dò khí. Phải chú ý để đảm bảo rằng các giấy lọc được kẹp chặt
trong cụm sao cho không xảy ra tình trạng rò khí ra xung quanh giấy lọc.
Các giấy lọc đại diện từ
lô giấy lọc phải được phân tích như được qui định trong phần 9.7 để xem sự có
mặt của các phần tử amiăng trước khi bất kỳ giấy lọc nào được sử dụng để thu
mẫu không khí.
7.1.2. Bơm lấy mẫu
Bơm lấy mẫu phải có tốc
độ dòng đủ đạt được độ nhậy phân tích mong muốn. Tốc độ bề mặt qua giấy lọc
phải nằm giữa khoảng 4,0 cm/s và 25,0 cm/s. Bơm lấy mẫu được sử dụng phải tạo
được dòng khí ổn định qua giấy lọc, và phải duy trì tốc độ dòng thể tích ban
đầu trong phạm vi dao động ± 10% trong suốt giai đoạn lấy mẫu. Một máy bơm dòng khí
không đổi hoặc được kiểm soát bằng lỗ giới hạn đáp ứng được những yêu cầu này.
Phải sử dụng ống mềm để nối hộp giấy lọc với bơm lấy mẫu.
Cần có phương tiện để
hiệu chuẩn tốc độ dòng của mỗi bơm.
7.1.3. Giá đỡ
Phải dùng một giá để giữ
hộp giấy lọc ở độ cao mong muốn để lấy mẫu và tách rời khỏi ảnh hưởng do rung
của bơm (7.1.2).
7.1.4. Lưu lượng kế có
khoảng biến đổi được
Cần một lưu lượng kế có
phạm vi khoảng từ 1 lít/phút -10 lít/phút để hiệu chuẩn hệ thống lấy mẫu không
khí.
Lưu lượng kế phải được
làm sạch trước khi dùng để tránh mang sợi amiăng nhiễm bẩn từ lưu lượng kế sang
mẫu đang được lấy.
7.2. Phòng thí nghiệm
chuẩn bị tiêu bản
Amiăng, đặc biệt là
chrysotil, có mặt với những lượng rất khác nhau trong các hoá chất phòng thí
nghiệm. Nhiều vật liệu xây dựng cũng chứa số lượng amiăng đáng kể hoặc các sợi
khoáng khác có thể gây nhiễu phép phân tích nếu chúng tình cờ được đưa vào
trong khi chuẩn bị tiêu bản. Một điều quan trọng là phải bảo đảm rằng, sự nhiễm
bẩn các tiêu bản kính hiển vi điện tử truyền dẫn do bất cứ sợi amiăng nào từ
bên ngoài phải được giảm đến mức thấp nhất trong khi chuẩn bị mẫu. Vì thế mà
tất cả các bước chuẩn bị tiêu bản phải thực hiện trong một môi trường mà sự
nhiễm bản mẫu là nhỏ nhất. Yêu cầu cơ bản của phòng thí nghiệm chuẩn bị mẫu là
xác định mẫu trắng phải thu được kết quả đáp ứng các yêu cầu đã chỉ ra trong
phần 9.7. Thiết bị tối thiểu được coi là phù hợp với sự chuẩn bị tiêu bản kính
hiển vi điện tử truyền dẫn là tủ nút dòng chảy với áp lực dương. Tuy nhiên, đã
xác định được rằng tiến hành công việc trong khi chuẩn bị tiêu bản dường như là
quan trọng hơn việc các phương tiện thao tác trong sử dụng được giữ sạch sẽ. Sự
chuẩn bị các mẫu chỉ được thực hiện sau khi các giá trị mẫu trắng có thể chấp
nhận đã được chứng minh.
Chú thích 1 - Khuyên rằng
các hoạt động liên quan đến sự thao tác các mẫu amiăng xốp không nên thực hiện
trong cùng một khu vực như chuẩn bị tiêu bản kính hiển vi điện tử truyền dẫn
bởi vì khả năng nhiễm bẩn các tiêu bản kính hiển vi điện tử truyền dẫn.
7.3. Thiết bị để phân
tích
7.3.1. Kính hiển vi điện
tử truyền dẫn
Phải sử dụng loại TEM
hoạt động ở điện thế tăng 80 kV tới 120 kV với độ phân giải tốt hơn 1 nm và
phạm vi độ phóng đại xấp xỉ x 300 đến x 100 000.
Khả năng thu được độ
phóng đại màn hình trực tiếp khoảng x 100 000 là cần thiết để kiểm tra hình
thái học của sợi, độ phóng đại này có thể thu được bằng sự phóng đại quang học
bổ sung ảnh màn hình qua cách dùng hai mắt kính nếu như không thể thu được một
cách trực tiếp. Nó cũng đòi hỏi là màn hình để nhìn của kính hiển vi được hiệu
chuẩn sao cho chiều dài và chiều rộng hình ảnh sợi xuống đến 1mm vẫn có thể đo
được mỗi khi tăng lên 1 mm, không phụ thuộc vào hướng của hình ảnh. Yêu cầu này
thường được đáp ứng thông qua sử dụng màn huỳnh quang có các bước hiệu chuẩn ở
dạng vòng tròn như trình bày ở hình 1.
Hình 1 - Ví dụ về ghi dấu hiệu chuẩn lên màn hình TEM (Tham khảo)
Để góc Bragg nhỏ hơn 0,01
rad, thì kính hiển vi điện tử truyền dẫn phải có khả năng thực hiện nhiễu xạ
điện tử từ diện tích 0,6 mm2 hoặc nhỏ hơn được chọn từ hình ảnh hội tụ ở độ
phóng đại màn hình x 20 000. Yêu cầu tính năng này xác định sự phân biệt tối
thiểu giữa các hạt mà các hình nhiễu xạ điện tử độc lập có thể thu được từ mỗi
hạt. Nếu SAED được sử dụng, hiệu suất của một thiết bị cụ thể thường được tính
toán bằng phương trình sau
trong đó
A là diện tích SAED hiệu
dụng tính bằng mm2;
D là đường kính tính bằng
mm của khẩu độ SAED;
M là độ phóng đại của vật
kính;
Cs là hệ số quang sai cầu
tính bằng mm của vật kính;
q là góc Bragg yêu cầu tối
đa, tính bằng rad.
Không thể giảm vô hạn
diện tích SAED hiệu dụng bằng cách sử dụng các thiết bị có khẩu độ SAED nhỏ dần
vì có giới hạn cơ bản được ấn định bởi hệ số quang sai cầu của vật kính.
Nếu phép phân tích ED
trục tinh thể được thực hiện, thì TEM phải lồng thêm một giá có thước đo góc
cho phép tiêu bản TEM
a) xoay tròn 3600
kết hợp với độ nghiêng ít nhất + 300 tới - 300 xung quanh
một trục trong mặt phẳng của tiêu bản; hoặc
b) độ nghiêng ít nhất +
300 tới - 300 xung quanh hai trục vuông góc trong mặt
phẳng của tiêu bản
Phép phân tích được tiến
hành rất thuận lợi nếu thước đo góc cho phép nghiêng vào trung tâm mặc dù điều
này không phải là cơ bản. Nếu EDXA và ED dọc trục tinh thể là cần trên cùng sợi
thì thước đo góc phải là loại cho phép độ nghiêng tiêu bản và sự thu nhận của
quang phổ EDXA không làm thay đổi bộ phận giữ tiêu bản.
TEM phải có một hệ thống
thấu kính tụ quang và chiếu sáng có khả năng ghép một đầu dò điện tử đường kính
< 250 nm.
Chú thích 2 - Khuyên dùng
một bẫy chống nhiễm bẩn xung quanh tiêu bản nếu tính năng được yêu cầu của dụng
cụ vẫn có thể đạt được.
7.3.2. Máy phân tích tia
X phân tán năng lượng
TEM phải được trang bị
cùng với máy phân tích tia X phân tán năng lượng có khả năng đạt được độ phân
giải tốt hơn 180 eV (FWHM) trên NnKa. Vì tính năng của sự kết hợp đơn lẻ TEM với các thiết bị
EDXA phụ thuộc vào một số yếu tố hình học, tính năng cần thiết của sự kết hợp
giữa TEM và máy phân tích tia X được xác định theo cường độ tia X được đo thu
được từ sợi đường kính nhỏ, sử dụng đường kính chùm tia điện tử đã biết. Các
đầu dò tia X trạng thái rắn kém nhậy nhất ở vùng năng lượng thấp, và vì thế
phép đo Na trong crocidolit phải là chuẩn cứ tính năng. Sự kết hợp kính hiển vi
điện tử và máy phân tích tia X sẽ thu được, trong các điều kiện phân tích hàng
ngày, một tốc độ đếm pic hợp thành Naka trừ đi nền lớn hơn 1 lần đếm/giây (cps) từ 1 sợi
crocidolite UICE đường kính 50nm hoặc nhỏ hơn, khi được chiếu bởi một đầu dò
điện tử đường kính 250 nm hoặc nhỏ hơn ở thế năng tăng tốc 80 kV. Tỷ số pic/nền
đối với phép thử tính năng này sẽ vượt quá 1,0.
Máy EDXA phải cung cấp
giá trị để trừ nền, nhận dạng các pic nguyên tố và sự tính toán các diện tích
pic đã trừ nền.
7.3.3. Máy tính
Các tính toán số học lặp
lại nhiều lần là cần thiết và điều này có thể được thực hiện một cách thuận
tiện bằng các chương trình máy vi tính tương đối đơn giản. Để phân tích các
phép đo mẫu ED trục tinh thể thì máy tính có bộ nhớ phù hợp là cần để chứa các
chương trình liên quan phức tạp hơn.
7.3.4 Máy tro hoá plasma
Để chuẩn bị các tiêu bản
TEM từ các giấy lọc MEC một máy tro hoá plasma với năng lượng tần số radio công
suất 50 W hoặc cao hơn, phải được sử dụng để tro hoá bề mặt của các giấy lọc
MEC đã xóa bỏ lưới lọc. Máy tro hoá phải được cung cấp dòng oxi được kiểm soát
và phải được điều chỉnh, nếu cần thiết, dùng một cái van để kiểm soát tốc độ
của đường dẫn khí vào sao cho sự nạp khí nhanh không gây nhiễu loạn các hạt
trên bề mặt của giấy lọc sau bước tro khắc hoá.
Chú thích 3 - Khuyên rằng
các giấy lọc nên được gắn với nguồn oxi và đường nạp không khí.
7.3.5. Máy phủ chân không
Một máy phủ chân không có
thể tạo ra chân không tốt hơn 0,013 Pa phải được sử dụng để lắng đọng chân
không cacbon trên các giấy lọc màng.
Cần giá đỡ mẫu để cho
tiêu bản kính hiển vi bằng thuỷ tinh được xoay liên tục trong qui trình tẩm
phủ.
Chú thích 4 - Một cơ cấu
cho phép tiêu bản quay ở độ nghiêng một góc xấp xỉ 450 trong qui
trình tẩm phủ được khuyến nghị áp dụng. Một bẫy lạnh nitơ lỏng ở trên bơm
khuếch tán có thể sử dụng để giảm thiểu khả năng nhiễm bẩn bề mặt giấy lọc do
dầu từ hệ thống bơm. Máy phủ chân không cũng có thể được sử dụng để lắng màng
mỏng bằng vàng hoặc bằng vật liệu chuẩn khác, khi cần coi như là một sự hiệu
chuẩn nội bộ của các mô hình ED trên các tiêu bản TEM.
7.3.6. Máy phun phủ
Một máy phun phủ có đối
catot bằng vàng được sử dụng để lắng vàng lên tiêu bản TEM như một sự hiệu
chuẩn tổ hợp của các mô hình nhiễu xạ điện tử. Một số chất liệu hiệu chuẩn khác
cũng được chấp nhận. Kinh nghiệm chỉ ra rằng máy phun phủ cho phép kiểm soát
tốt hơn độ dày của vật liệu hiệu chuẩn.
7.3.7 Đĩa rửa dung môi
(Đĩa rửa Jaffe)
Mục đích của đĩa rửa
Jaffe là cho phép hoà tan chất lọc polyme trong lúc để lại nguyên vẹn màng mỏng
cacbon bay hơi để giữa các sợi và các hạt khác từ bề mặt giấy lọc.
Một đĩa mẫu rửa thích hợp
cho các dung môi và chất liệu lọc khác nhau được chỉ ra ở hình 2. Nói chung
hoặc chloroform hoặc 1- methyl - 2 - pyrrolidon được sử dụng để hoà tan giấy
lọc polycacbonat và dimethylformamid hoặc axêton được sử dụng để hoà tan MEC
hoặc giấy lọc xenlulô nitrat. Tốc độ bay hơi cao hơn của chloroform và axêtôn
đòi hỏi dùng đĩa chứa được từ 10 - 50 ml dung môi được sử dụng, và có thể cần
thiết bổ xung thêm trong quá trình thực hiện. Dimethylformamid và 1 - methyl -
2 - pyrrolidon có áp suất bay hơi thấp hơn và thể tích dung môi nhỏ hơn nhiều
có thể nên được sử dụng. Khuyến nghị rằng tất cả các đĩa rửa được sử dụng trong
tủ hốt, và khi các tiêu bản không được đưa vào hoặc lấy ra thì nắp đĩa petri
phải đậy lại trong khi hoà tan dung môi. Đĩa rửa phải được làm sạch trước khi
sử dụng cho mỗi một nhóm tiêu bản.
7.3.8. Máy rửa ngưng tụ
Để sự hoà tan nhanh hơn
chất lọc polyme hoặc nếu gặp khó khăn khi hoà tan chất lọc polyme thì sử dụng
máy rửa ngưng tụ bao gồm một bình cổ hẹp bộ phận ngưng tụ và bộ cột làm lạnh,
có lớp vỏ đun nóng và phương tiện để kiểm soát nhiệt độ. Một bộ rửa phù hợp chỉ
ra ở hình 3, sử dụng hoặc axêton, hoặc chloroform làm dung môi, tuỳ theo loại
giấy lọc.
7.3.9. Máy làm ấm tiêu
bản hoặc lò làm nóng tiêu bản
Sử dụng hoặc máy làm ấm
tiêu bản TEM hoặc là lò để đốt nóng các tiêu bản trong khi chuẩn bị các tiêu
bản TEM từ MEC hoặc giấy lọc xenlulô nitrat. Nó đòi hỏi duy trì nhiệt độ 65 -
700C.
7.3.10. Thùng siêu âm
Sử dụng một thùng siêu âm
để làm sạch các dụng cụ dùng cho công việc chuẩn bị tiêu bản TEM.
7.3.11. Phiên bản lưới
cacbon
Một phiên bản lưới cacbon
có khoảng 2000 đường song song/mm phải được sử dụng để hiệu chuẩn độ phóng đại
của TEM.
7.3.12. Các lưới tiêu bản
chuẩn cho EDXA
Các lưới tiêu bản TEM
được chuẩn bị từ sự phân tán các vật liệu hiệu chuẩn là cần để hiệu chỉnh hệ
thống EDXA. Một vài vật liệu hiệu chuẩn là riebeckit, chrysotil, haloysit,
phlogopit, wollastonit và bustamit. Chất được dùng để hiệu chuẩn hệ thống EDXA
đối với Na phải được chuẩn bị bằng cách dùng lưới TEM bằng vàng.
7.3.13. Máy làm nhọn
thanh cacbon
Sử dụng những thanh
cacbon có chỗ thắt hoặc tương đương cho phép cacbon được bay hơi lên các giấy
lọc với sự đun nóng ít nhất.
Hình 2 - Ví dụ về thiết kế dụng cụ rửa dung môi (Dụng cụ rửa Jaffe)
(Tham khảo)
Hình 3 - Ví dụ về thiết kế dụng cụ rửa ngưng tụ (Tham khảo)
7.3.14. Micropipet đầu
dùng một lần
Một micropipet đầu dùng
một lần có thể chuyển một thể tích xấp xỉ 30 ml là cần thiết cho công việc chuẩn
bị các lưới tiêu bản TEM từ các giấy lọc MEC.
7.4. Các vật tư tiêu hao
7.4.1. Lưới kính hiển vi
điện tử bằng đồng
Lưới TEM bằng đồng có mắt
200 lưới được khuyến nghị. Lưới mà có các ô lưới cùng kính thước như vậy đáp
ứng yêu cầu đã chỉ ra ở phần 9.6.2 phải được chọn.
Để dễ tái định vị của
từng ô lưới riêng biệt vì mục đích đảm bảo chất lượng, nên sử dụng lưới có đánh
số hoặc đánh dấu theo vần chữ cái các ô lưới.
7.4.2. Lưới kính hiển vi
điện tử bằng vàng
Lưới TEM bằng vàng có mắt
200 lưới được khuyến nghị để gắn các tiêu bản TEM, khi các phép đo Na được yêu
cầu trong qui trình nhận dạng sợi. Các lưới có các ô lưới đồng kích thước như
vậy chúng đáp ứng yêu cầu chỉ ra ở phần 9.6.2 phải được chọn để thuận lợi cho
đặt lại vị trí của ô lưới riêng biệt vì mục đích đảm bảo chất lượng, nên sử
dụng các lưới có đánh số hoặc theo vần chữ cái của các ô lưới.
7.4.3. Điện cực thanh
cacbon
Các thanh cacbon tinh
chất về mặt quang phổ phải được sử dụng trong máy bay hơi chân không (7.3.5)
trong khi tẩm phủ giấy lọc bằng cacbon.
7.4.4. Các dụng cụ kính
hiển vi điện tử thông thường và vật dụng khác
Các kẹp đầu nhọn, cán dao
mổ và lưỡi, các phiến kính kính hiển vi, băng dính có vỏ hai mặt, vải mỏng, dây
vàng, sợi vonfram và các dụng cụ thông thường khác được yêu cầu.
7.4.5. Các mẫu amiăng đối
chứng
Để chuẩn bị các tiêu bản
TEM đối chứng của các khoáng amiăng cơ bản thì phải là các mẫu amiăng. Bộ UICC
của các khoáng là phù hợp cho mục đích này.
8.
Thu thập mẫu không khí
Độ nhậy phép phân tích
mong muốn là một thông số phải được đặt ra cho phép phân tích trước khi thu
thập mẫu. Nó được định nghĩa như là nồng độ phần tử tương ứng với sự phát hiện
một phần tử trong phép phân tích.
Đối với phương pháp chuẩn
bị tiêu bản TEM của các phương pháp truyền dẫn trực tiếp, thì độ nhậy của phép
phân tích là hàm số của thể tích không khí đã lấy, diện tích hiệu dụng của giấy
lọc thu mẫu và diện tích tiêu bản TEM trên đó các phần tử được đếm. Nếu tổng số
các mức độ bụi trong không khí là cao, cần thiết ngừng lấy mẫu trước khi đạt
được thể tích yêu cầu được lấy. Nếu xảy ra trường hợp này, độ nhậy phân tích
yêu cầu chỉ có thể đạt được bằng cách đếm các phần tử trên nhiều ô lưới hoặc
bằng nồng độ có lựa chọn của phần tử amiăng khi dùng kỹ thuật chuẩn bị tiêu bản
TEM gián tiếp. Chọn tốc độ lấy mẫu và thời gian lấy mẫu để có độ nhậy phân tích
yêu cầu như đã mô tả chi tiết ở bảng 1. Trước khi các mẫu không khí được thu
thập, phải phân tích các giấy lọc chưa qua sử dụng như mô tả trong phần 9.7 để
xác định số phần tử amiăng trung bình cho các giấy lọc trắng.
Các mẫu không khí phải
được thu thập bằng cách sử dụng các hộp giấy lọc (7.1.1). Trong lúc lấy mẫu hộp
giấy lọc phải được đỡ trên một giá (7.1.3) cách xa các rung động của bơm
(7.1.2). Hộp phải giữ quay mặt xuống dưới ở độ cao xấp xỉ 1,5 - 2m trên mức mặt
đất hoặc sàn nhà và phải nối với bơm bằng một ống mềm.
Đo tốc độ dòng lấy mẫu ở
phần trước hộp, cả lúc đầu và cuối giai đoạn lấy mẫu. Dùng một lưu lượng kế đã
hiệu chuẩn (7.1.4) gắn tạm thời với đầu vào của hộp. Giá trị trung bình của hai
phép đo này được sử dụng để tính tổng thể tích không khí đã lấy mẫu.
Các chương trình cơ bản
để quan trắc các nguồn amiăng trong không khí của môi trường được mô tả ở phụ
lục G. Sau khi lấy mẫu phải đậy nắp hộp lại và đóng gói hộp với mặt giấy lọc
hướng lên trên để đưa về phòng thí nghiệm. Các giấy lọc trắng hiện trường cũng
phải đưa vào như đã qui định ở phần 9.7 và tuân theo qui trình phân tích cùng
với các mẫu.
Chú thích
5) Trong bảng 1, một diện
tích giấy lọc thu được 3,85 mm2 được giả thiết, và các ô lưới TEM
được cho là 85mm2. Giới hạn phát hiện được xác định khi giới hạn tin
cậy trên của phân bố Poisson là 95% cho một số đếm 0 phần tử. Trong trường hợp
không có nền, giá trị này bằng 2,99 lần độ nhạy phân tích. Các nền mà khác 0
trong khi phân tích các giấy lọc trắng sẽ giảm giới hạn phát hiện.
6) Độ nhạy phân tích S,
được biểu diễn bằng số phần tử/lít, được tính toán bằng cách sử dụng phương
trình sau
trong đó
Af là diện
tích hoạt động tính bằng milimét vuông của giấy lọc lấy mẫu;
Ag là diện tích trung
bình tính bằng milimet vuông các ô lưới được kiểm tra;
k là số ô lưới đã kiểm
tra;
V là thể tích không khí
đã lấy mẫu, tính bằng lít.
Bảng 1 - Các ví dụ về số ô lưới tối thiểu đòi hỏi để đạt được độ nhậy
phân tích đặc biệt và giới hạn phát hiện
Độ nhậy phân tích phần tử/l
|
Giới hạn phát hiện phần tử/l
|
Thể tích không khí lấy mẫu (I)
|
500
|
1000
|
2000
|
3000
|
4000
|
5000
|
0,1
|
0,30
|
1 066
|
533
|
267
|
178
|
134
|
107
|
0,2
|
0,60
|
533
|
267
|
134
|
89
|
67
|
54
|
0,3
|
0,90
|
356
|
178
|
89
|
60
|
45
|
36
|
0,4
|
1,2
|
267
|
134
|
67
|
45
|
34
|
27
|
0,5
|
1,5
|
214
|
107
|
54
|
36
|
27
|
22
|
0,7
|
2,1
|
153
|
77
|
39
|
26
|
20
|
16
|
1,0
|
3,0
|
107
|
54
|
27
|
18
|
14
|
11
|
2,0
|
6,0
|
54
|
27
|
14
|
9
|
7
|
6
|
3,0
|
9,0
|
36
|
18
|
9
|
6
|
5
|
4
|
4,0
|
12
|
27
|
14
|
7
|
5
|
4
|
4
|
5,0
|
15
|
22
|
11
|
6
|
4
|
4
|
4
|
7,0
|
21
|
16
|
8
|
4
|
4
|
4
|
4
|
10
|
30
|
11
|
6
|
4
|
4
|
4
|
4
|
9.
Qui trình để phân tích
9.1 Khái quát
Các kỹ thuật sử dụng để
chuẩn bị các tiêu bản TEM khác với các giấy lọc polycacbonat và este xenulô.
Phương pháp chuẩn bị được sử dụng phải là một trong hai mục 9.3 hoặc 9.4 tuỳ
thuộc vào loại giấy lọc màng sử dụng để lấy mẫu không khí. Làm sạch hộp mẫu
trước khi chúng được mở ra. Việc chuẩn bị máy bay hơi cacbon, tiêu chuẩn cho
các lưới tiêu bản có thể chấp nhận được và yêu cầu đối với xác định mẫu trắng
là giống nhau đối với hai kỹ thuật chuẩn bị. Sự kiểm tra TEM, việc đếm các phần
tử nhận dạng sợi và báo cáo kết quả không phụ thuộc loại giấy lọc hoặc kỹ thuật
chuẩn bị được sử dụng. Khả năng đáp ứng tiêu chuẩn mẫu trắng phụ thuộc vào độ
sạch của thiết bị và các dụng cụ khác.
Quan tâm đến tất cả các
phụ kiện như là các tiêu bản kính hiển vi và đồ thuỷ tinh là các nguồn tiềm
năng nhiễm bẩn amiăng. Cần rửa tất cả các đồ thuỷ tinh trước khi sử dụng chúng.
Rửa tất cả các dụng cụ hoặc đồ thuỷ tinh mà tiếp xúc với giấy lọc lấy mẫu không
khí hoặc chuẩn bị tiêu bản TEM cả trước khi sử dụng và trong khi xử lý các mẫu
cá nhân. Nơi nào có thể thì sử dụng các dụng cụ dùng một lần.
9.2 Làm sạch hộp mẫu
Các sợi amiăng có thể
dính vào mặt ngoài của hộp lấy mẫu không khí và các sợi này có thể vô tình
chuyển vào mẫu trong khi xử lý. Để ngăn ngừa khả năng nhiễm bẩn này, và sau khi
đảm bảo rằng hộp được gắn chặt, lau bề mặt bên ngoài của mỗi hộp lấy mẫu trước
khi hộp được đặt vào thiết bị sạch hoặc tủ hút dòng chảy.
9.3 Chuẩn bị trực tiếp
các tiêu bản TEM bằng các giấy lọc polycacbonat
9.3.1 Chọn diện tích giấy
lọc để tẩm phủ cacbon
Dùng một phiến kính kính
hiển vi sạch để đỡ các phần đại diện giấy lọc polycacbonat trong khi bay hơi
cacbon. Dùng băng dính tráng hai mặt để gắn phần giấy lọc lên phiến kính. Chú ý
không làm căng các giấy lọc polycacbonat trong khi xử lý. Dùng kẹp mới làm sạch
lấy giấy lọc polycacbonat từ hộp lấy mẫu và đặt lên phiến kính kính hiển vi
thuỷ tinh sạch thứ hai được sử dụng làm bề mặt để cắt. Dùng một con dao mổ có
chiều cong sạch cắt giấy lọc bằng cách di dao từ một điểm ấn dao xuống giấy
lọc. Lặp lại quá trình này nếu cần thiết. Một vài phần giấy lọc như vậy có thể
gắn trên cùng phiến kính kính hiển vi. Dao mổ và kẹp phải được rửa sạch và làm
khô trước khi xử lý từng giấy lọc. Đánh dấu các phần giấy lọc bằng cách viết
liên phiến kính.
9.3.2 Phủ cacbon các phần
giấy lọc
Đặt phiến kính giữ phần
giấy lọc lên thiết bị nghiêng xoay tròn khoảng 10 - 12 cm từ nguồn bay hơi, và
hút chân không buồng máy bay hơi (7.3.5) đến chân không £ 0,013 Pa. Sự bay hơi của
cacbon phải được thực hiện trong các vụ nổ rất ngắn cách nhau vài giây cho phép
điện cực nguội đi. Nếu sự bay hơi cacbon quá nhanh, các mảnh giấy lọc
polycacbonat sẽ bắt đầu quăn và liên kết ngang trên bề mặt giấy lọc sẽ xuất
hiện. Liên kết ngang này sinh ra một lớp polyme tương đối khó hoà tan trong các
dung môi hữu cơ và nó không có khả năng chuẩn bị các tiêu bản TEM phù hợp. Yêu
cầu độ dày cacbon phụ thuộc vào kích thước các hạt trên giấy lọc và độ dày
thích hợp là từ 30 nm - 50 nm. Nếu màng cacbon quá mỏng, các hạt lớn sẽ làm vỡ
màng trong các giai đoạn sau của quá trình chuẩn bị và sẽ có rất ít ô lưới hoàn
thiện và không bị hỏng trên tiêu bản. Quá dày màng cacbon sẽ dẫn đến hình ảnh
TEM thiếu độ tương phản và khả năng thu được các mẫu ED sẽ bị nghi ngờ. Độ dày
màng cacbon phải làm mỏng tới mức tối thiểu có thể trong khi vẫn giữ nguyên
phần lớn ô lưới tiêu bản TEM.
9.3.3 Sự chuẩn bị của đĩa
rửa Jaffe
Đặt vài mảnh vải mỏng
trong suốt như trong hình 2, lên cầu bằng thép không gỉ (7.1.3) và đổ vào đĩa
rửa (xem 7.3.7) dung dịch chloroform (6.2) hoặc 1-methyl-2-pyrrolidon (6.3) tới
một mức mà ở đó bề mặt dung môi tiếp xúc với mặt dưới của lưới, làm cho thấm
đẫm miếng vải mỏng.
9.3.4 Đặt các tiêu bản
vào đĩa rửa Jaffe
Sử dụng lưỡi dao mổ cong
cắt 3 mảnh vuông 3 mm2 giấy lọc polycacbonat đã phủ cacbon tạo phần
giấy lọc đã phủ cacbon. Chọn 3 ô vuông đại diện cho trung tâm và ngoại vi của
bề mặt hoạt động của giấy lọc. Đặt mỗi hình vuông giấy lọc, mặt cacbon lên trên
lưới tiêu bản TEM và đặt lưới và giấy lọc lên miếng vải mỏng đã đẫm dung môi
trong đĩa rửa Jaffe. Đặt 3 lưới tiêu bản từ mỗi mẫu lên cùng miếng vải mỏng
(trong đĩa Jaffe). Bất cứ số mảnh vải mỏng riêng rẽ nào cũng có thể được đặt
vào trong cùng đĩa rửa Jaffe. Đậy máy rửa Jaffe bằng nắp đậy và để đĩa cứng yên
một chỗ ít nhất là 8 giờ.
Chú thích 7 - Người ta
thấy rằng một số giấy lọc polycacbonat sẽ không hoà tan hoàn toàn trong máy rửa
Jaffe ngay cả khi tiếp xúc với chloroform trong ba ngày. Vấn đề này càng nghiêm
trọng nếu bề mặt của giấy lọc bị nóng quá trong khi bay hơi cacbon. Có thể khắc
phục vấn đề polyme giấy lọc không hoà tan còn dư lại bằng một vài cách:
a) rửa ngưng tụ các lưới
dùng chloroform làm dung môi sau khi xử lý ban đầu bằng đĩa rửa Jaffe, thường
có thể loại bỏ rất nhiều chất lọc còn dư trong một giai đoạn khoảng 30 phút. Để
thực hiện qui trình này, chuyển mảnh vải mỏng đỡ lưới tiêu bản tới cột lạnh của
máy rửa ngưng tụ (7.3.8) mà nó đạt được các điều kiện làm việc ổn định. Chạy
máy rửa khoảng 30 phút sau khi lồng lưới vào.
b) sử dụng
1-methyl-2-pyrrolidon trong đĩa rửa jaffe cho thấy là một dung môi hiệu quả hơn
chloroform đối với các giấy lọc polycabonat. Dung dịch này hiệu quả hơn nếu
không dùng giấy trong và các lưới được đặt trực tiếp lên mạng lưới thép không
rỉ của đĩa rửa Jaffe. Thời gian hoà tan từ 2 - 6 giờ là phù hợp. Sau khi hoà
tan hoàn tất, nhấc lưới thép không rỉ ra khỏi đĩa rửa Jaffe và để lưới khô,
1-methyl-2-pyrrolidon bay hơi rất chậm. Nếu đòi hỏi làm khô lưới nhanh hơn thì
chuyển cầu thép không rỉ vào một đĩa petri khác và thêm nước (6.1) cho đến khi
bề mặt nước tiếp xúc với mặt dưới của lưới. Sau khoảng 15 phút lưới ra và để
lưới khô. Nếu cần giữ lại các loại hạt hoà tan được đặt trong nước trên các
lưới TEM thì có thể sử dụng ethanol thay thế nước (6.1) cho lần rửa thứ hai.
c) một hỗn hợp 20%
(ethylendiamin) và 80% 1-methyl-2-pyrrolidon sử dụng trong đĩa rửa Jaffe hoà
tan hoàn toàn giấy lọc polycacbonat trong 15 phút thậm chí nếu bề mặt của giấy
lọc bị nóng quá. Để dùng dung môi này, đặt lưới trực tiếp lên lưới thép không
rỉ của đĩa rửa jaffe. Không dùng giấy trong. Sau thời gian 15 phút, chuyển cầu
thép không rỉ sang một đĩa Petri khác và thêm nước (6.1) cho đến bề mặt nước
tiếp xúc với mặt dưới của lưới. Sau gần 15 phút, lấy lưới ra và để lưới đến
khô.
9.3.5 Chuẩn bị nhanh các
tiêu bản TEM bằng giấy lọc PC
Các mẫu tiêu bản có thể
được chuẩn bị nhanh từ các giấy lọc PC nếu muốn bằng cách rửa khoảng 1 giờ
trong đĩa rửa Jaffe, sau đó để 30 phút trong máy rửa ngưng tụ dùng chloroform
làm dung môi. Qui trình hoà tan giấy lọc lựa chọn mô tả trong phần chú thích 7
cũng có thể được sử dụng.
9.4 Chuẩn bị trực tiếp
các tiêu bản TEM từ các giấy lọc este xenlulo.
9.4.1 Lựa chọn diện tích
giấy lọc để chuẩn bị
Dùng kẹp sạch lấy giấy
lọc ra khỏi hộp giấy lọc và đặt lên phiến kính kính hiển vi sạch. Dùng một lưỡi
dao mổ cong sạch cắt một phần giấy lọc ra.
9.4.2 Chuẩn bị dung dịch
hoà tan để phá các giấy lọc este xenlulô
Trộn 35 ml
dimethylformamid (6.4) và 15 ml axit axêtic bảng (6.5) với 50 ml nước (6.1).
Lưu giữ hỗn hợp này trong một chai sạch. Hỗn hợp này bền và sử dụng được tới 3
tháng sau khi chuẩn bị.
9.4.3 Qui trình làm tan
giấy lọc
Dùng 1 micropipet có đầu
dùng một lần (7.3.14) nhỏ 15 ml/cm2 đến 25 Ml/cm2 dung dịch
đã chuẩn bị trong mục 9.4.2 lên phiến kính hiển vi đã được làm sạch và sử dụng đầu
nhọn pipet dàn dung dịch lên phần diện tích giấy lọc. Đặt phần giấy lọc, bề mặt
hoạt động lên trên dung dịch, hạ thấp cạnh giấy lọc xuống một góc khoảng 20 độ
sao cho không tạo ra bọt khí. Loại bỏ phần dung dịch thừa bằng miếng giấy xốp
tiếp xúc với dung dịch ở góc của giấy lọc. Có thể đặt vài phần giấy lọc lên một
phiến kính. Đặt tiêu bản lên máy làm ấm tiêu bản điều nhiệt ở nhiệt độ 65 - 700
C hoặc trong lò (7.3.9) ở nhiệt độ này trong 10 phút. Giấy lọc tan chậm tới
khoảng 15% bề dày ban đầu. Qui trình để lại một màng polyme mỏng trong suốt, có
các hạt và các sợi nằm chặt ở trên bề mặt.
9.4.4 Tro hoá plasma bề
mặt giấy lọc
Điều kiện và thời gian
tối ưu để tro hoá plasma (xem 7.3.4) được xác định bằng kinh nghiệm sự thu hồi
các sợi chrysotil mảnh trên giấy lọc MEC cỡ lỗ 0,8 mm. Các điều kiện đòi hỏi ở máy
plasma cụ thể phải được thiết lập khi sử dụng qui trình này đã chỉ ra trong phụ
lục A. Đặt phiến kính hiển vi có các phần giấy lọc đã làm tan vào máy tro hoá
plasma, và khắc tro hoá theo thời gian và điều kiện đã xác định. Đảm bảo giữ
đúng các điều kiện. Sau khi khắc tro hoá để không khí chậm chậm vào buồng tro
hoá và lấy tiêu bản kính hiển vi ra.
Điều chỉnh van nhận không
khí vào máy tro hoá plasma sao cho thời gian để buồng tro hoá trở về áp suất
không khí hơn 2 phút. Không khí vào nhanh có thể gây nhiễu loạn các hạt trên bề
mặt của giấy lọc đã tro hoá.
9.4.5 Tẩm phủ cacbon
Tẩm phủ tiêu bản kính
hiển vi giữ các phần giấy lọc bằng cacbon như đã chỉ ra ở 9.3.2.
9.4.6 Chuẩn bị đĩa rửa
Jaffe
Đặt vài miếng vải trong
mỏng lên cầu thép không rỉ và đổ vào đĩa rửa dimethylformamid (6.4) hoặc axêton
(6.6) tới mức mặt trên của dung môi tiếp xúc với mặt dưới của lưới, làm thấm
ướt đẫm vải.
9.4.7 Đặt các tiêu bản
vào đĩa rửa Jaffe
Đặt các tiêu bản vào đĩa
rửa Jaffe như đã chỉ ra ở phần 9.3.4. Các tiêu bản được làm trong thường sau đó
khoảng 4 giờ.
9.4.8 Chuẩn bị nhanh các
tiêu bản TEM từ các giấy lọc este xenlulô
Qui trình rửa luân phiên
có thể được sử dụng để chuẩn bị các tiêu bản TEM từ các giấy lọc este xenlulô
nhanh hơn qui trình Jaffe. Sau khi các tiêu bản được rửa trong đĩa rửa Jaffe
khoảng gần một giờ, đưa mẩu vải mỏng đỡ các tiêu bản vào cột lạnh của máy rửa
ngưng tụ (7.3.8) dùng axêton làm dung môi bởi vì dimethylformamid không được sử
dụng trong máy rửa ngưng tụ. Chạy máy rửa ngưng tụ khoảng 30 phút. Việc xử lý
này loại bỏ toàn bộ polyme giấy lọc còn lại.
9.5 Chuẩn cứ đối với lưới tiêu
bản TEM chấp nhận được
Dữ liệu có giá trị không
thể thu được trừ khi các tiêu bản TEM đáp ứng các chuẩn cứ chất lượng đã được
qui định. Khảo sát lưới tiêu bản TEM ở kính hiển vi điện tử ở độ phóng đại thấp
(x 300 tới x 1000) với ô lưới hoàn chỉnh để kiểm tra. Loại bỏ lưới tiêu bản
nếu:
a) Tiêu bản TEM không
được làm sạch giấy lọc do các bước hoà tan giấy lọc. Nếu tiêu bản TEM có các
diện tích có giấy lọc không tan và nếu ít nhất hai hoặc ba lưới tiêu bản không
được làm trong thì hoặc phải rửa thêm với dung môi hoặc chuẩn bị tiêu bản mới
lấy từ giấy lọc.
b) Mẫu chứa quá nhiều các
hạt. Nếu lưới tiêu bản thể hiện xấp xỉ hơn 10% bị che khuất trên đa số các ô
lưới, thì tiêu bản phải được coi là quá tải. Giấy lọc này không được phân tích
phù hợp bằng cách sử dụng các phương pháp chuẩn bị trực tiếp bởi vì lưới bị
chất quá nhiều các mảnh vụn không cho phép khảo sát riêng các hạt riêng lẻ bằng
ED và EDXA và sự che khuất các sợi bởi các hạt khác có thể dẫn đến đếm phần tử
amiăng dưới mức có thực.
c) Các hạt lắng trên tiêu
bản không được phân bố đồng nhất từ ô lưới này tới ô lưới bên cạnh. Nếu các hạt
lắng trên tiêu bản chắc chắn không đồng nhất từ một ô lưới tới ô lưới bên cạnh,
thì tiêu bản phải ghi rõ là không đồng nhất. Tình trạng này là một hàm số của
các điều kiện lấy mẫu không khí và/hoặc của bản chất hạt trong không khí. Phép
phân tích phù hợp giấy lọc này là không thể có trừ khi một số lượng lớn ô lưới
được khảo sát.
d) Lưới TEM chất quá
nhiều phần tử sợi không thể đếm chính xác được. Không thể đếm được chính xác
nếu lưới có nhiều hơn 7 000 phần tử/mm2 hoặc
e) Trên toàn bộ ô lưới có
lớn hơn khoảng 25% của ô lưới bị vỡ màng cacbon. Vì chỗ nứt gãy của màng cacbon
thường hay ở những nơi lắng đọng nhiều, nên việc đếm những ô không bị nứt vỡ có
thể dẫn đến việc đếm các phần tử amiăng dưới mức có thực.
Chú thích 8 - Nếu các
tiêu bản bị loại bỏ bởi vì số ô lưới biểu hiện vỡ màng cacbon không thể chấp
nhận được, thì phủ cacbon bổ sung thêm có thể áp dụng với giấy lọc đã phủ
cacbon, và chuẩn bị một lưới tiêu bản mới. Các hạt lớn thường có thể được đo
bằng cách sử dụng màng cacbon dày hơn. Nếu biện pháp này không tạo ra lưới tiêu
bản có thể chấp nhận được, thì giấy lọc này không thể được phân tích bằng sử
dụng các phương pháp chuẩn bị trực tiếp.
Nếu có một hoặc nhiều
điều kiện đã mô tả trong b), c), d) hoặc e) thì không thể phân tích mẫu bằng
phương pháp này.
9.6 Qui trình để đếm các
phần tử bằng TEM
9.6.1 Khái quát
Công việc khảo sát gồm có
đếm các phần tử amiăng có mặt trên số ô lưới xác định. Các sợi được phân loại
thành các nhóm trên cơ sở quan sát hình dạng, các mẫu ED và quang phổ EDXA.
Tổng số các phần tử được đếm phụ thuộc vào độ chính xác thống kê đòi hỏi. Khi
không có mặt phần tử amiăng, thì diện tích của các lưới tiêu bản TEM mà phải
được kiểm tra phụ thuộc vào độ nhậy phân tích yêu cầu. Độ chính xác của phép
đếm phần tử phụ thuộc vào không chỉ tổng số các phần tử được đếm mà còn phụ
thuộc vào độ đồng nhất của chúng từ ô lưới này sang ô lưới khác. Cần đếm bổ
sung các phần tử nếu cần độ chính xác lớn hơn.
Để ước tính mật độ các
phần tử trên giấy lọc mẫu không được dựa vào diện tích nhỏ đại diện bởi một ô
lưới, các ô lưới phải được kiểm tra trên hai hoặc ba lưới đã chuẩn bị. Sau đó
kết hợp kết quả để tính toán mật độ các phần tử. Phép đếm các phần tử phải được
làm ở độ phóng đại xấp xỉ x 20 000 và phải kết thúc ở phần cuối của lưới tiêu
bản mà trên đó phần tử amiăng thứ 100 được quan sát thấy, ngoại trừ việc đếm
phải tiếp tục cho đến tối thiểu 4 ô lưới được kiểm tra. Ngoài ra việc đếm các
phần tử phải tiếp tục tới số ô lưới mà độ nhậy phân tích đã qui định phải đạt
được.
Chú thích 9 - Phạm vi
bình thường cho số ô lưới phải kiểm tra là từ 4 - 20 ô. Nếu không đủ lượng
không khí lấy qua giấy lọc thì phép tính ở mục 9.6.4 có thể chứng tỏ rằng một
số lớn không thực tế ô lưới phải được kiểm tra. Khi xảy ra tình huống này phải
chấp nhận giá trị độ nhạy phân tích lớn hơn.
9.6.2 Đo diện tích trung
bình của ô lưới
Diện tích trung bình của
ô lưới phải được đo đạc cho loại ô lưới tiêu bản TEM đang sử dụng. Độ lệch
chuẩn cứ trung bình diện tích của 10 ô lưới được lựa chọn từ 10 lưới phải nhỏ
hơn 5%. Như là thủ tục không bắt buộc, hoặc nếu chuẩn cứ 5% độ lệch chuẩn không
được chứng minh, thì kích thước của mỗi ô lưới được khảo sát trong TEM phải
được đo ở độ phóng đại đã được hiệu chuẩn.
9.6.3 Sắp xếp TEM và qui
trình hiệu chuẩn
Sắp xếp TEM theo các
thông số thiết bị trước khi đếm các phần tử. Hiệu chuẩn hệ thống TEM và EDXA
theo các qui trình đã qui định ở phụ lục B.
9.6.4 Xác định điểm dừng
Trước khi bắt đầu đếm các
phần tử, tính toán diện tích tiêu bản được kiểm tra để đạt được độ nhậy phân
tích đã chọn. Tính toán số ô lưới tối đa được kiểm tra bằng sử dụng phương
trình sau:
trong đó
k là số ô lưới được kiểm
tra làm tròn lên tới số nguyên cao nhất tiếp theo;
Af là diện
tích tính bằng milimét vuông của giấy lọc lấy mẫu;
Ag là diện
tích tính bằng milimét vuông lưới tiêu bản TEM
V là thể không khí lấy
mẫu tính bằng lít
S là độ nhậy phân tích
đòi hỏi tính bằng số phần tử/lít.
9.6.5 Qui trình chung để
đếm các phần tử và phép phân tích kích cỡ
Dùng ít nhất 2 lưới tiêu
bản chuẩn bị từ giấy lọc để đếm phần tử. Chọn ngẫu nhiên một vài ô lưới từ mỗi
lưới và kết hợp số liệu lại trong tính toán kết quả.
Sử dụng một mẫu giống như
chỉ ra ở hình 4 để ghi lại dữ liệu. Đưa lưới tiêu bản đầu tiên vào TEM.
Chú thích 10 - Để tạo
thuận lợi cho việc đảm bảo chất lượng, các phép đo mà đòi hỏi kiểm tra lại cùng
một ô lưới bởi các nhà soi kính khác nhau, thì lưới phải được lồng vào giá tiêu
bản theo một hướng chuẩn, với các vạch thanh mắt lưới song song và vuông góc
với trục của giá tiêu bản. Điều này sẽ tạo ra các hướng quét song song với các
mép của ô lưới. Cầm đảm bảo rằng tất cả những người soi kính bắt đầu quét ở
cùng một điểm xuất phát trên ô lưới và họ sử dụng hình quét như nhau. Qui trình
này cho phép tái định vị nhanh các phần tử sợi cho việc kiểm tra thêm hơn nữa
nếu cần thiết.
Chọn một ô lưới điển hình
và đặt độ phóng đại màn hình tới giá trị đã hiệu chuẩn (xấp xỉ x 20 000). Điều
chỉnh độ cao của mẫu cho đến khi các nét đặc trưng ở trung tâm màn hình quan
sát TEM là ở điểm trung tâm. Đặt thước đo góc nghiêng góc tới 0. ở cột 1 của
bảng mẫu ghi chép số liệu ghi lại số hoặc chữ dùng để nhận dạng dưới. ở cột 2
ghi lại nhận dạng ô lưới đặc biệt. Đặt tiêu bản sao cho ô lưới được đặt vào chỗ
mà một góc có thể nhìn lên màn hình. Di chuyển hình ảnh bằng cách điều chỉnh
chỉ một nấc điều khiển dịch chuyển, kiểm tra cẩn thận mẫu sợi cho đến khi gặp
phía đối diện của ô lưới. Dùng một điều khiển chuyển dịch khác để chuyển dịch
hình ảnh đi một khoảng cách đã xác định trước nhỏ hơn một đường kính màn hình,
và quét ảnh theo hướng ngược lại. Tiếp tục qui trình theo cách này cho đến khi
toàn bộ ô lưới được kiểm tra theo mô hình được minh hoạ ở hình 5. Khi một phần
tử sợi được phát hiện, thì gán một số thứ tự cho phần tử cơ bản ở cột 3, thực
hiện qui trình nhận dạng được yêu cầu như đã ghi chi tiết ở phụ lục F và ghi sự
phân loại thành phần thích hợp vào mẫu phần tử đang đếm ở cột 5. Gán phân loại
hình dạng cho phần tử theo các qui trình đã chỉ ra ở phụ lục D, và ghi phân
loại này vào cột 6. Đo trên màn hình quan sát TEM chiều dài và chiều rộng của
hình ảnh phần tử cơ bản, bằng mm, và ghi lại các đo đạc này vào cột 7 và 8. Đối
với một nhóm sợi phân tán hoặc mạng, gán phân loại cấu tạo và phân loại hình
thái cho mỗi thành phần phần tử, đo chiều dài và chiều rộng và ghi số liệu vào
cột 4 tới cột 8.
Dùng cột 4 của biểu mẫu
ghi chép số liệu lập bảng số thứ tự của toàn bộ các phần tử có chú ý đến thành
phần phần tử. Nếu quan sát thấy các sợi phi amiăng, thì ghi lại sự có mặt và
loại của chúng, nếu biết. Sau khi một phần tử sợi được kiểm tra và đo đạc, đặt
lại trường nhìn ban đầu chính xác trước khi tiếp tục quét tiêu bản. Làm không
đúng điều này có thể gây ra tình trạng các phần tử bị bỏ qua hoặc được đếm 2
lần. Tiếp tục kiểm tra cho tới khi toàn bộ một ô lưới mà trên đó phần tử amiăng
thứ 100 được ghi lại hoặc cho đến khi số ô lưới cần để đạt được độ nhậy phân
tích đã qui định theo 9.6.4, được qua kiểm tra, lấy theo cái nào xẩy ra trước.
Số liệu phải được lấy xấp xỉ bằng số liệu tối thiểu của 2 lưới. Không kể giá
trị được tính theo mục 9.6.4, số phần tử sợi trên ít nhất 4 ô phải được đếm.
9.6.6. Đo nồng độ sợi và
các bó sợi amiăng dài hơn 5 mm
Về việc cải thiện giá trị
thống kê của phép đo các sợi và các bó sợi amiăng dài hơn 5 mm bằng cách khảo sát bổ
sung ở một độ phóng đại thấp hơn, thì chỉ tính đến các sợi và bó sợi dài hơn.
Thực hiện sự khảo sát mở rộng này cho các sợi và bó dài hơn 5 mm theo qui trình đã chỉ
ra ở phụ lục E. Dùng độ phóng đại xấp xỉ x 10 000 để đếm toàn bộ sợi và bó sợi
amiăng dài hơn 5 mm,
hoặc ở độ phóng đại xấp xỉ x 5 000 nếu chỉ các sợi và bó sợi trong phạm vi
đường kính 0,2 mm
tới 3 mm được đếm. Tiếp tục đếm
cho đến khi hoàn thành ô lưới mà 100 sợi và bó sợi được ghi lại, hoặc đến khi
một diện tích tiêu bản đủ được khảo sát để đạt được độ nhậy phân tích mong
muốn.
Chỉ những phần tử nào
được nhận dạng hoặc được ước đoán là chrysotil hoặc một trong các chất khoáng
amphibol được báo cáo hoặc trong khảo sát TEM ban đầu hoặc khảo sát mở rộng.
Các khoáng chất khác như là thạch cao, các sợi xenlulô và vật giả từ giấy lọc
như là các dảnh giấy lọc không hoà tan sẽ không đưa vào trong số sợi được đếm.
Sự hạn chế này được đưa ra để đảm bảo rằng giá trị thống kê tốt nhất thu được
đối với các khoáng chất quan tâm.
Đếm phần tử amiăng của
tiêu bản kính hiển vi điện tử
Báo cáo số:
.................................................. Thể tích không khí
....................... lít.
Mẫu số:
.......................................................
Tên file:
..................................................... Diện tích giấy lọc lấy
mẫu .......... mm2
Mô tả mẫu:
................................................
.............................................................
Độ phóng đại ..........................................
............................................................
Ngày chuẩn bị:
................. Người chuẩn bị ................ Kích thước khe ô lưới
...........mm
Ngày phân tích:
................ Người phân tích ..............
Ngày vào máy tính:
......... Người vào máy tính ......... Mức độ phân tích (C) ..................
|
Khe ô của lưới
|
Số phần tử
|
Lớp
|
Loại phần tử
|
Chiều dài mm
|
Chiều rộng mm
|
Ghi chú
|
Cơ bản
|
Tổng số
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Hình 4 - Ví dụ một mẫu ghi chép đếm phần tử (Tham khảo)
Hình 5 - Ví dụ qui trình quét để khảo sát tiêu bản TEM (Tham khảo)
9.7 Xác định mẫu trắng và
kiểm tra chất lượng
Trước khi các mẫu không
khí được lấy, tối thiểu có 2 giấy lọc chưa sử dụng từ mỗi một lô 100 giấy lọc
phải được phân tích để xác định số đếm trung bình các phần tử amiăng. Nếu số
đếm trung bình cho tất cả các loại phần tử amiăng tìm được là hơn 10 phần tử/mm2
hoặc nếu số đếm sợi trung bình cho các sợi và bó sợi amiăng dài hơn 5 mm là hơn 0,1 sợi/mm2
thì bỏ lô giấy lọc đó.
Để đảm bảo rằng sự nhiễm
bẩn do các sợi amiăng từ bên ngoài trong khi chuẩn bị tiêu bản là không đáng kể
so với các kết quả được thông báo trên các mẫu, thì phải thiết lập một chương
trình đo đạc mẫu trắng liên tục. ít nhất một mẫu trắng hiện trường phải được xử
lý cùng với mỗi một mẻ mẫu. Ngoài ra, ít nhất một giấy lọc chưa sử dụng phải
được xem với mỗi nhóm mẫu chuẩn bị trên một phiến kính hiển vi. Ban đầu, và
cùng định kỳ sau đó, phải đảm bảo rằng các nồng độ amiăng đã biết của các mẫu
có thể được phân tích một cách phù hợp. Vì có yếu tố chủ quan trong qui trình
đếm phần tử, nên cần thiết đếm lại một số tiêu bản bởi các nhân viên soi kính
khác nhau để giảm thiểu các ảnh hưởng của yếu tố chủ quan. Việc đếm lại như vậy
đưa ra biện pháp duy trì khả năng so sánh giữa các số đếm của các nhân viên soi
kính khác nhau. Sự biến thiên giữa và trong các nhân viên soi kính và giữa các
phòng thí nghiệm phải được mô tả. Các phép đo đảm bảo chất lượng này phải là
xấp xỉ 10% của phép phân tích. Các kết quả lặp lại không được khác 5% ở mức có
ý nghĩa.
9.8 Tính toán kết quả
Tính toán kết quả dùng
các bước được mô tả chi tiết trong phụ lục F. Mức phân tích được qui định trước
khi khảo sát TEM của các tiêu bản. Trước khi tính toán kết quả, phải qui định
đưa sự phân loại thành phần và phân loại hình thái vào trong kết quả trước khi
tính. Thử tính đồng nhất bằng tính sai số bình phương trung bình ở các ô lưới
phải được dẫn ra bằng cách dùng số các phần tử amiăng cơ bản tìm được trên mỗi
ô lưới trước khi áp dụng các chuẩn cứ đếm các chùm và mớ. Kết quả nồng độ phải
được tính bằng cách dùng số các phần tử amiăng được thông báo sau khi áp dụng
các chuẩn cứ đếm các chùm và mớ sợi.
10.
Các đặc tính
10.1 Khái quát
Một điều quan trọng là sử
dụng phương pháp phân tích này cùng với một chương trình kiểm soát chất lượng
liên tục. Chương trình kiểm soát chất lượng phải bao gồm sử dụng các mẫu chuẩn,
các mẫu trắng và cả các phép phân tích bên trong và bên ngoài phòng thí nghiệm.
10.2 Nhiễu và các hạn chế
của nhận dạng sợi
Phân định chính xác
(không nhầm lẫn) từng sợi chrysotil là không có thể, do vì hạn chế dụng cụ và
bản chất của một vài sợi. Yêu cầu đối với mẫu nhiễu xạ điện từ đã hiệu chuẩn
loại bỏ được khả năng nhận dạng không đúng một sợi đã chọn. Tuy nhiên vẫn có
khả năng nhận dạng sai các sợi về cả các hình thái và các mẫu nhiễu xạ điện tử
được báo cáo trên cơ sở chỉ kiểm tra bằng thị giác. Các khả năng nhận dạng sai
đáng kể chỉ xảy ra với haloysit, các cuộn vemiculit hoặc palygorskit, tất cả
các chất này có thể được phân biệt với chrysotil bằng cách sử dụng EDXA và bằng
quan sát sự phản xạ chrysotil trong mẫu ED ở 0,73 nm (002).
ở trường hợp của các sợi
chrysotil, việc nhận dạng đầy đủ mọi sợi amphibol là không thể vì các hạn chế
của thiết bị và bản chất của một vài sợi. Hơn nữa nhận dạng đầy đủ mọi sợi
amphibol là không thực tế vì các hạn chế về thời gian và chi phí. Các hạt của một
số khoáng chất khác có thành phần tương tự với thành phần của một số loại
amphibol có thể bị phân loại sai và coi như là amphibol khi các chuẩn cứ phân
loại không gồm các kỹ thuật ED dọc trục tinh thể. Tuy nhiên, yêu cầu cho các
phép đo EDXA định lượng trên tất cả các sợi như là sự hỗ trợ cho kỹ thuật nhiễu
xạ điện tử định hướng ngẫu nhiên làm cho rất khó nhận dạng sai, đặc biệt khi
các sợi tương tự khác trong cùng một mẫu được nhận dạng là amphibol bằng các
phương pháp dọc trục tinh thể. Khả năng nhận dạng sai được giảm hơn nữa khi
tăng tỷ số hình thể, vì nó rất hiếm đối với các khoáng chất khác có tỷ số hình
dạng mà amphibol có thể bị lẫn lộn khi nó biểu hiện một dạng amiăng.
10.3 Độ đúng và độ chính
xác (Xem
cẩm nang tiêu chuẩn ISO số 3)
10.3.1 Độ chính xác
Độ chính xác phân tích có
thể thu được phụ thuộc vào số các phần tử đếm được và cũng phụ thuộc vào tính
đồng đều của sự lắng đọng bụi trên giấy lọc gốc. Giả sử rằng các phần tử lắng
đọng ngẫu nhiên trên giấy lọc, nếu 100 phần tử được đếm và sức tải là ít nhất
3,5 phần tử/ô lưới, mô hình máy tính của qui trình đếm chỉ ra rằng có thể mong
đợi hệ số độ lệch chuẩn khoảng 10%. Vì số phần tử được đếm giảm đi, độ chính
xác cũng giảm đi xấp xỉ bằng , ở đây N là số phần tử đếm được. Trong
thực tế bụi lắng đọng thu được bằng sự lọc mẫu không khí xung quanh được phân
bố lý tưởng rất hiếm và thấy rằng độ chính xác bị giảm đi tương ứng. Sự giảm độ
chính xác là hậu quả của một vài yếu tố như:
a) Sự không đồng nhất của
sự lắng đọng các hạt được lọc;
b) Sự biến dạng của phân
bố sợi bởi áp dụng chuẩn cứ đếm phần tử;
c) Sự thay đổi giữa những
người soi kính trong diễn giải phần tử sợi của họ;
d) Sự thay đổi giữa những
người soi kính trong khả năng phát hiện và nhận dạng các sợi của họ.
Khoảng tin cậy 95% chung
quanh giá trị trung bình cho một phép đo nồng độ phần tử đơn lẻ khi sử dụng
phương pháp phân tích này phải xấp xỉ ± 25% khi 100 phần tử được đếm/ 10 ô lưới.
10.3.2 Độ đúng
Không có sẵn phương pháp
độc lập nào để xác định độ đúng
Chú thích 11 - Người ta
chứng minh rằng sau khi các giấy lọc màng polycacbonat được phủ bằng cacbon,
các chất dạng hạt được chuyển sang các tiêu bản TEM bị tiêu hao không đáng kể.
Tuy nhiên nếu các giấy lọc bị quá tải bởi các chất dạng hạt, thì một số hạt này
có thể bị mất trước khi chúng được phủ bằng cacbon. Sự so sánh rõ ràng giữa qui
trình của giấy lọc polycacbonat cỡ lỗ mao quản và qui trình của giấy lọc este
xenlulô đã được chứng minh cho các aerosol amiăng chrysotil tạo ra trong phòng
thí nghiệm.
10.3.3 Các phân tích
trong và ngoài phòng thí nghiệm
Các phân tích trong và
ngoài phòng thí nghiệm là cần thiết để (quan trắc) theo dõi các sai số hệ thống
có thể sinh ra trong các người quan sát kính hiển vi khi sử dụng phương pháp
này. Các phân tích này phải được thiết kế để kiểm tra cả toàn bộ phương pháp và
đặc trưng của cá nhân người soi kính. Lặp lại việc chuẩn bị các lưới TEM từ các
phần khác nhau của giấy lọc, tiếp theo là việc xem xét các lưới do người soi
kính khác nhau là một phép thử độ tái lập của toàn bộ phương pháp. Tuy nhiên sự
không đồng nhất của sự lắng các hạt trên giấy lọc có thể dẫn đến sự khác nhau
mà không liên quan đến tính năng của những người soi kính. Sự đếm sợi được kiểm
định (đếm các phần tử amiăng trên cùng một ô lưới của một lưới TEM do hai hoặc
nhiều người soi kính thực hiện, tuân theo cách giải quyết các bất đồng có thể
được áp dụng để vừa giúp đỡ huấn luyện và để xác định đặc trưng của những người
soi kính khác nhau. Nên dùng các lưới TEM đã đánh chỉ số như đã mô tả trong
7.4.1 và 7.4.2 nhằm thuận tiện cho việc tái định vị các ô lưới cụ thể.
10.4 Giới hạn phát hiện
Giới hạn phát hiện của
phương pháp có thể thay đổi do chọn diện tích giấy lọc thu mẫu, thể tích không
khí lấy mẫu và diện tích tiêu bản được kiểm tra của TEM. Nó cũng là một hàm
nồng độ nền của các phần tử amiăng trên các giấy lọc chưa qua sử dụng, Giới hạn
phát hiện phải được đề cập cho mỗi phép phân tích mẫu.
Chú thích 12 - Trong thực
tế, giới hạn phát hiện thấp nhất thường được xác định bằng tổng nồng độ bụi lơ
lửng, bởi vì mỗi hạt trên giấy lọc phải được tách riêng khỏi các hạt tiếp giáp
bằng một khoảng cách đủ lớn để các hạt được nhận dạng mà không bị trở ngại. Sức
tải bụi trên các giấy lọc lấy mẫu lớn hơn 25 mg/cm2 thường cản trở sự
chuẩn bị của các tiêu bản TEM bằng phương pháp trực tiếp. Nếu phép phân tích
được thực hiện với thời gian có thể chấp nhận được, diện tích tiêu bản được
kiểm tra trong TEM cho các phần tử của tất cả kích cỡ được giới hạn trong phần
lớn trường hợp là giữa 10 - 20 ô lưới. Trong không khí xung quanh hoặc trong
nhà cho thấy rằng độ nhậy phân tích có thể đạt được một phần tử/lít. Trong một
số trường hợp, nơi mà không khí đặc biệt sạch thì độ nhạy có thể được giảm
xuống tới 0,1 phần tử/lít hoặc thấp hơn. Đối với các sợi và bó sợi dài hơn 5 mm, độ phóng đại bị giảm
xuống định ra các diện tích tiêu bản TEM lớn hơn cho phép được xem xét với thời
gian sử dụng có thể chấp nhận được, tạo nên giới hạn phát hiện dưới tương xứng.
Nếu không thấy phần tử nào trong phép phân tích, giới hạn tin cậy với xác xuất 95%
có thể chỉ ra như giới hạn trên của nồng độ tương đương với 2,99 lần độ nhậy
phân tích nếu phân bố các phân tử trên giấy lọc được coi là phân bố Poisson.
Giới hạn tin cậy 95% này với 0 phần tử đã đếm được coi là giới hạn phát hiện.
Vì đôi khi có sự nhiễm bẩn các giấy lọc mẫu chưa qua sử dụng bởi các phần tử
amiăng, điều này cũng cần được tính đến trong khi thảo luận các giới hạn phát
hiện.
11. Báo cáo kết quả
Báo cáo kết quả phải gồm
có ít nhất các thông tin sau:
a) để cập tới tiêu chuẩn
này;
b) nhận dạng mẫu;
c) ngày và thời gian lấy
mẫu, tất cả dữ liệu lấy mẫu cần thiết;
d) ngày phân tích;
e) người phân tích;
f) bất cứ bước nào đã sử
dụng mà không được qui định trong tiêu chuẩn này hoặc coi như là tuỳ chọn;
g) danh sách đầy đủ dữ
liệu đếm các phần tử (dữ liệu sau đây phải có: số ô lưới, số phần tử, nhóm nhận
dạng, loại phần tử, chiều dài và rộng của phần tử bằng micromet và bất cứ lời
bình luận nào liên quan đến phần tử);
h) bảng trình bày nhóm
nhận dạng có thể chấp nhận được tối thiểu và nhóm nhận dạng tối đa đã cố gắng
thử vận dụng (tham khảo bảng D1 và D2);
i) bảng trình bày các
nhóm nhận dạng và các loại phần tử đã được sử dụng để tính toán các giá trị
nồng độ;
j) các giá trị nồng độ
riêng biệt của chrysotil và các phần tử amphibol, được biểu diễn bằng số phần
tử amiăng trên lít;
k) giới hạn khoảng tin
cậy 95% đối với các giá trị nồng độ, biểu diễn bằng số phần tử amiăng trên lít;
l) độ nhậy của phép phân
tích biểu diễn bằng số phần tử amiăng trên lít;
m) giới hạn phát hiện,
biểu diễn bằng số phần tử amiăng trên lít;
n) dữ liệu thành phần đối
với các biến đổi chính của amphibol, nếu có mặt;
o) các mục g) tới m) đối
với sợi amiăng và bó sợi amiăng dài hơn 5 mm;
p) các mục g) tới m) đối
với các sợi và bó amiăng tương đương kính hiển vi quang học
Một ví dụ về một mẫu phù
hợp để trình bày các dữ liệu đếm phần tử được chỉ ra ở hình 6 và 7.
Thông tin phân tích mẫu (trang 1)
Tên phòng thí nghiệm Báo cáo số
Ngày tháng năm
Mẫu Tên địa điểm, thời gian
lấy mẫu
Thể tích không khí:
Diện tích giấy lọc thu
mẫu:
Mức phân tích
(chrysotil):
Mức phân tích
(amphibol):
Độ phóng đại sử dụng để
đếm sợi:
Tỷ số hình dạng theo
định nghĩa sợi:
Kích thước trung bình
của các ô lưới:
Những chữ cái đầu của
tên người phân tích:
Số ô lưới đã được khảo
sát:
Độ nhậy phân tích:
Số phần tử amiăng ban
đầu:
Số phần tử amiăng đếm
được:
Số phần tử amiăng >
5 mm:
Số sợi amiăng và bó
> 5 mm:
Số phần tử amiăng tương
đương PCM:
Số sợi amiăng tương
đương PCM:
|
2150,0 lít
385, 0 mm2
CD hoặc CMQ
ADQ
x 20 500
5/1
95,4 mm
JMW
10
1,968 phần tử/ít
13
26
7
10
3
5
|
Hình 6 - Ví dụ về mẫu báo cáo và dữ liệu chuẩn bị
Thông tin phân tích mẫu (Trang 2 và tiếp)
Tên phòng thí nghiệm Báo cáo số
Ngày tháng năm
Mẫu 456 phố Queen
Ashby
de la Zouch
Mẫu
bên ngoài 1991 - 09 - 09
Đếm phần tử amiăng kính hiển vi điện tử - Số liệu thô
Lưới
|
Ô lưới
|
Số phần tử
|
Mã nhận dạng
|
Loại phần tử
|
Chiều dài mm
|
Độ rộng mm
|
Ghi chú
|
Cơ bản
|
Tổng số
|
A
B
C
|
F4 - 4
E3 - 6
E5 - 1
F4 - 1
G5 - 1
E4 - 4
G4 - 4
E4 - 4
E5 - 6
F4 - 1
|
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
|
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
|
CD
CMQ
ADQ
CD
CD
CD
CMQ
CD
CD
CD
CD
CD
CMQ
CD
CD
CMQ
CMQ
CD
AD
CMQ
CMQ
CMQ
ADQ
CM
không có sợi
ADQ
ADQ
ADQ
CM
CM
CMQ
CD
|
F
B
F
MC+ 0
MD43
MB
MF
MB
MF
CD+0
CB
CF
CR+0
CD31
CB
CF
CB
B
F
CD42
CB
CF
CF
CF
CD+3
CF
CF
CB
CR + 0
MC10
CC + 0
|
1,7
2,6
4,0
3,5
7,5
7,7
5,6
5,1
1,7
6,5
3,5
3,5
2,6
6,1
5,6
4,0
3,2
1,5
8,7
25
15
9,4
3,6
4,2
9,4
7,1
6,2
5,1
3,3
3,7
7,4
|
0,045
0,09
0,15
1,3
5,0
0,30
0,045
0,30
0,045
3,0
0,15
0,045
1,9
3,2
0,3
0,045
0,090
0,23
0,15
5,6
0,15
0,045
0,30
0,045
2,5
0,30
0,10
0,2
1,8
2,1
0,5
|
Crosidolit
Tremolit
Amosit
Crosidolit
|
1) Mã phân định được
liệt kê trong bảng D.1 và D.2.
|
Hình 7 - Ví dụ về mẫu báo cáo dữ liệu đếm phần tử
PHỤ LỤC A
(Quy định)
XÁC ĐỊNH ĐIỀU KIỆN HOẠT ĐỘNG CHO MÁY
TRO HOÁ PLASMA
A.1 Khái quát
Trong khi chuẩn bị các
tiêu bản TEM bằng MEC hoặc giấy lọc xenlulô nitrat, cấu trúc xốp của giấy lọc
được xếp thành một màng polymer mỏng hơn do tác động của dung môi. Một số hạt
trên bề mặt của giấy lọc ban đầu bị vùi hoàn toàn vào trong polyme, và qui
trình chuẩn bị tiêu bản kết hợp bước tro hoá plasma để oxi hoá lớp bề mặt của
polyme. Các hạt đã bị vùi vào polyme do bước hoà tan giấy lọc được lộ ra sau đó
để cho chúng có thể dính chặt vào màng cacbon bay hơi mà không thay đổi vị trí
của chúng trên giấy lọc ban đầu. Lượng tro hoá là có ý nghĩa quan trọng và các
máy tro hoá khác nhau về tính năng. Vì thế máy tro hoá plasma (7.3.4) phải được
hiệu chuẩn để có được một giá trị xác định về tro hoá bề mặt của giấy lọc đã
hoà tan. Điều này được thực hiện bằng cách điều chỉnh công suất tần số radio và
tốc độ dòng oxi và đo thời gian để oxi hoá hoàn toàn một giấy lọc este xenlulô
chưa hoà tan có đường kính 25mm của cùng một loại và cùng kích cỡ lỗ lọc như đã
sử dụng trong phép phân tích.
A.2 Qui trình
Đặt một giấy lọc este
xenlulô chưa sử dụng có đường kính 25 mm của cùng một loại như loại đang được
dùng vào giữa phiến kính kính hiển vi. Đặt phiến kính gần ở trung tâm của buồng
máy tro hoá. Đóng buồng máy tro hoá và hút tới áp lực xấp xỉ 40 Palasma. Trong
lúc đó cho ôxi vào buồng với tốc độ 8ml/phút tới 20 ml/phút.
Điều chỉnh hệ thống sao
cho cường độ của plasma là cao nhất. Đo thời gian cần thiết để ôxi hoá hoàn
toàn giấy lọc: xác định các thông số hoạt động để oxi hoá hoàn toàn giấy lọc
trong thời gian gần 15 phút. Để tro hoá các giấy lọc đã hoà tan, các thông số
hoạt động này phải được dùng trong khoảng thời gian 8 phút.
Chú thích 13 - Ôxi hoá
plasma ở năng lượng tần số radio cao sẽ dẫn đến giấy lọc bị quăn và xoắn lại,
tiếp theo sau là sự đánh lửa mạnh đột ngột. ở mức năng lượng thấp hơn, giấy lọc
sẽ giữ nguyên vị trí và sẽ từ từ trở nên mỏng hơn cho đến khi nó gần trong
suốt. Khuyến nghị rằng, năng lượng tần số radio được sử dụng sao cho không xảy
ra sự đánh lửa mạnh. Khi nhiều giấy lọc được tro hoá, tốc độ tro hoá giảm xuống
và hệ thống phải được hiệu chuẩn một cách phù hợp.
PHỤ LỤC B
(Quy định)
CÁC QUI TRÌNH HIỆU CHUẨN
B.1 Hiệu chuẩn TEM
B.1.1 Hiệu chuẩn độ phóng
đại màn hình TEM
Kính hiển vi điện tử phải
được cân chỉnh theo các thông số kỹ thuật của nhà sản xuất. Ngay từ đầu và các
khoảng thời gian đều đặn phải hiệu chuẩn độ phóng đại sử dụng cho phép phân
tích dùng mẫu lưới nhiễu xạ (7.3.11). Điều chỉnh độ cao tiêu bản tới vị trí
trung tâm trước khi thực hiện việc hiệu chuẩn. Đo khoảng cách trên màn hình
huỳnh quang bị che lấp bởi một số khoảng cách lặp lại của hình ảnh lưới gần kề
và tính độ phóng đại. Luôn luôn lặp lại việc hiệu chuẩn sau khi có bất cứ sự
bảo trì dụng cụ nào hoặc thay đổi các điều kiện hoạt động. Độ phóng đại của
hình ảnh trên màn hình không giống như độ phóng đại trên các tấm ảnh hoặc phim.
Tỷ số giữa chúng là một giá trị không đổi cho từng kiểu TEM riêng.
B.1.2 Hiệu chuẩn hằng số
máy thu hình nhiễu xạ điện tử
Hiệu chuẩn hằng số máy
thu hình của TEM khi sử dụng phương thức (mode) nhiễu xạ điện tử. Dùng một lưới
tiêu bản đỡ màng cacbon mà trên đó có một màng mỏng vàng đã được bay hơi hoặc
phun phủ. Tạo một ảnh của màng vàng với tiêu bản được điều chỉnh tới vị trí
trung tâm và chọn điều kiện ED. Điều chỉnh thấu kính vật kính đang dùng để tối
ưu hoá mẫu thu được, và đo đường kính hai vòng trong cùng trên màn hình huỳnh
quang hoặc trên hình ảnh được ghi lại. Tính hằng số máy thu hình dựa trên bán
kính, lL, vừa cho cả màn hình
huỳnh quang và tấm ảnh hoặc phim, sử dụng phương trình sau:
trong đó
l là chiều dài bước sóng
tính bằng nanomet của các điện tử tới;
L là chiều dài máy thu
hình tính bằng milimét
a là kích thước ô đơn vị
của vàng tính bằng nanomet ( = 0, 407 86 nm)
D là đường kính tính bằng
milimét của vòng nhiễu xạ.
Sử dụng vàng làm chất
liệu chuẩn, thì hằng số máy thu hình trên cơ sở bán kính được cho bằng:
lL = 0,117 74 D mm - nm (vòng
nhỏ nhất)
lL = 0,101 97D mm - nm (vòng
thứ 2)
B.2 Hiệu chuẩn hệ thống
EDXA
Hiệu chuẩn năng lượng của
hệ thống EDXA đối với pic năng lượng thấp và năng lượng cao phải được thực hiện
đều đặn. Hiệu chuẩn thang cường độ của hệ thống EDXA cho phép thu được các dữ
liệu về thành phần định lượng, ở độ đúng khoảng 10% nồng độ nguyên tố, từ phổ
EDXA của các khoáng chất silicat so sánh liên quan đến các nguyên tố Na, Mg,
Si, K, Ca, Mn và Fe, và các khoáng chất so sánh được xác nhận có thể áp dụng.
Nếu các xác định định lượng được yêu cầu đối với các khoáng chứa các nguyên tố
khác, thì các chuẩn so sánh ngoài các chuẩn nói đến dưới đây cần được tham
khảo. Các chuẩn khoáng chất đã được xác định đặc tính rõ ràng cho phép hiệu
chuẩn bất kỳ sự kết hợp TEM - EDXA nào mà đáp ứng các thông số kỹ thuật dụng cụ
nói ở điều 7.3.1 và 7.3.2 sao cho các số liệu EDXA nào mà đáp ứng các thông số
kỹ thuật dụng cụ nói ở điều 7.3.1 và 7.3.2 sao cho các số liệu EDXA từ các dụng
cụ khác nhau có thể so sánh được. Các khoáng chất so sánh cần được hiệu chuẩn;
các chuẩn cứ để chọn lựa là chúng phải là các khoáng chất silicat có các mạng
càng giống với các mạng của amphibol hoặc serpentir càng tốt và các mảnh nhỏ
riêng rẽ của các khoáng chất là đồng nhất về thành phần trong phạm vi vài phần
trăm.
Xác định các thành phần
của các tiêu chuẩn này bằng phép phân tích vi đầu dò điện tử hoặc các phương
pháp hoá học. Làm vụn các mảng cùng loại khoáng chất được chọn lọc và chuẩn bị
giấy lọc bằng cách phân tán khoáng chất đã được làm vụn trong nước và lọc ngay
phần lơ lửng. Chuẩn bị tiêu bản TEM từ các giấy lọc này theo các bước được chỉ
ra ở mục 9. Các tiêu bản TEM này sau đó có thể được sử dụng để hiệu chuẩn bất
kỳ một hệ thống TEM - EDXA nào sao cho các kết quả thành phần có thể so sánh có
thể thu được từ các thiết bị khác.
Chú thích
14 Phép phân tích vi đầu
dò của các chuẩn khoáng chất được thực hiện bằng các kỹ thuật phù hợp có thể
xem ở các phụ lục J. Đầu tiên, khoáng chất được gắn vào trong một lượng poly
(methyl) methacrylat hoặc nhựa epoxy, sau đó lượng này được nghiền và đánh bóng
để thu được các mảnh khoáng chất có một bề mặt bóng và phẳng. Bề mặt này sau đó
được phân tích, bằng sử dụng các chuẩn so sánh phù hợp, ưu tiên sử dụng các
chuẩn oxit của các nguyên tố riêng lẻ một khi chúng có sẵn. Cần phải tính đến
nồng độ nước trong các khoáng chất, trong trường hợp chrysotil lượng nước đạt
tới 13% khối lượng. Hàm lượng nước này có thể thay đổi vì bị mất trong hệ thống
chân không.
15 Các huyền phù trong
nước của các chuẩn khoáng cần được lọc ngay sau khi điều chế vì các kim loại
kiềm và kiềm thổ có thể bị chiết ra một phần từ các khoáng chất chứa các nguyên
tố này.
Biểu diễn các kết quả của
phép phân tích vi đầu dò điện tử bằng các tỷ lệ phần trăm nguyên tử hoặc khối
lượng so với silic. Các tỷ số pic tia X của cùng các nguyên tố so với silic,
thu được từ hệ thống EDXA, sau đó có thể được sử dụng để tính mối liên quan
giữa tỷ số diện tích pic và tỷ số phần trăm khối lượng hoặc nguyên tử.
Kỹ thuật này đã được
Cliff và Lorimer mô tả (xem phần phụ lục J, tham khảo [8]).
Tia X được sinh ra ở tiêu
bản mỏng bằng một chùm điện tử tới có xác suất tương tác với tiêu bản thấp. Vì
thế, sự hấp thụ khối lượng và các hiệu ứng huỳnh quang là không đáng kể. ở một
tiêu bản khoáng silicat chứa nguyên tố i, phương trình sau có thể được sử dụng
để thực hiện các phép phân tích định lượng ở TEM
trong đó
Ci là nồng độ
hoặc phần trăm nguyên tử của nguyên tố i;
CSi là nồng độ
hoặc phần trăm nguyên tử của silic;
Ai là tổng
diện tích pic của nguyên tố i;
ASi là tổng
diện tích pic của silic;
ki là tỷ số k
của nguyên tố i so với silic.
Đối với một cấu hình dụng
cụ riêng và kích thước hạt riêng thì giá trị ki là không đổi.
Để sát nhập sự hiệu chỉnh
do ảnh hưởng của kích thước hạt lên tỷ số diện tích pic (xem phụ lục J tham
khảo [35] và [36]), mở rộng kỹ thuật Cliff và Lorimer bằng cách thu các giá trị
hằng số ki riêng rẽ đối với các phạm vi khác nhau của đường kính
sợi. Khuyến nghị rằng, phải đo đạc EDXA 20 lần cho mỗi một khoảng đường kính
sợi. Các khoảng thích hợp của đường kính sợi là < 0,25 mm; 0,25 - 0,5 mm; 0,5 - 1,0 mm; > 1,0 mm.
Đưa lưới TEM vào kính
hiển vi điện tử truyền dẫn, thu được một hình ảnh ở độ phóng đại cao hơn đã
được hiệu chuẩn khoảng x 20 000 và điều chỉnh độ cao tiêu bản tới điểm trung
tâm. Nếu đầu phát hiện tia X là loại vào một bên, thì nghiêng tiêu bản về phía
đầu phát hiện tia X. Chọn một sợi biệt lập hoặc hạt nhỏ hơn 0,5 mm chiều rộng và tích luỹ
tăng dần một phổ EDXA dùng một đầu dò điện tử có đường kính phù hợp. Khi một
phổ xác định rõ thu được, thì thực hiện phép trừ nền và tính diện tích pic đã
hiệu chỉnh nền cho mỗi nguyên tố được liệt kê, sử dụng các cửa sổ năng lượng
tập trung trên các pic. Tính tỷ số diện tích pic cho mỗi nguyên tố đã chỉ ra so
với diện tích pic của silic. Tất cả diện tích pic đã trừ đi nền được sử dụng để
hiệu chuẩn phải nhiều hơn 400 lần đếm.
Lặp lại qui trình này cho
20 hạt của mỗi khoáng chất chuẩn. Loại bỏ các phép phân tích của bất kỳ hạt
ngoại lai nào rõ ràng. Tính nồng độ trung bình số học, tỷ số diện tích pic, ki
(tỷ số k), cho mỗi một nguyên tố đã chỉ ra của khoáng chất chuẩn và cho mỗi
khoảng đường kính sợi. Kiểm tra công việc hằng ngày theo chu kỳ phải được thực
hiện để đảm bảo rằng không có sự xuống cấp của tính năng đầu phát hiện. Những
tỷ số k này được sử dụng để tính các nồng độ nguyên tố các sợi không biết, sử
dụng mối quan hệ Cliff và Lorimer.
PHỤ LỤC C
(Quy định)
CÁC CHUẨN CỨ ĐỂ ĐẾM PHẦN TỬ
C.1 Khái quát
Ngoài các sợi biệt lập,
thường xuất hiện những tập hợp các hạt và sợi ở trong các mẫu không khí. Các
nhóm hạt và sợi amiăng đều được coi là "các phần tử amiăng" được định
nghĩa là các bó sợi, đám sợi và mạng sợi. Kết quả bằng số của sự khảo sát TEM
phụ thuộc rất lớn vào phân định của nhà phân tích như khi một tập hợp các sợi được
coi là một thực thể đơn hoặc được coi là các sợi riêng lẻ tạo thành tập hợp. Do
đó điều quan trọng là một hệ thống logic các chuẩn cứ đếm được định nghĩa sao
cho sự diễn giải các phần tử phức tạp này là như nhau đối với tất cả các nhà
phân tích và để cho kết quả bằng số là có ý nghĩa. Sự áp đặt các chuẩn cứ riêng
để đếm phần tử nhìn chung là cần là do một số diễn giải, một phần dựa trên các
thông tin xác thực về các ảnh hưởng tới sức khoẻ tìm được do mỗi phần tử amiăng
gây ra. Mục đích của tiêu chuẩn này không phải là để giải thích dựa trên cơ sở
ảnh hưởng tới sức khoẻ mà phải là sự phân tách rõ ràng giữa việc ghi các dữ
liệu đếm các phần tử và giải thích các dữ liệu ấy sau này. Hệ thống mã hoá được
qui định trong tiêu chuẩn quốc tế này cho phép mô tả hình thái rõ ràng của các
phần tử được ghi lại một cách ngắn gọn phù hợp cho diễn giải sau này, nếu cần
thiết, bằng một dãy các chuẩn cứ khác nhau mà không bắt buộc phải kiểm tra lại
các mẫu vật. Đặc biệt hệ thống mã hoá được thiết kế cho phép ghi lại được các
kích thước của mỗi phần tử sợi phức tạp và cũng cho biết liệu những phần tử này
có chứa các sợi dài hơn 5 mm hay không. Phương pháp này cho phép các đánh giá các dữ
liệu sau đo bao gồm việc xem xét khả năng bị hít thở các hạt và so sánh với các
chỉ số cũ của tiếp xúc amiăng. Các ví dụ về các loại cấu trúc hình thái khác
nhau và cách thức mà chúng được ghi lại được trình bày ở hình C1.
C.2 Các định nghĩa phần
tử và xử lý
Mỗi một phần tử sợi là
một thực thể tách rời phải được xác định là một phần tử cơ bản. Mỗi một phần tử
cơ bản phải được xác định là một sợi, một bó, một đám, một mạng.
C.2.1 Sợi
Bất cứ hạt nào có các mặt
bên song song hoặc không cách đều, có chiều dài tối thiểu 0,5 mm, và tỷ số hình dạng 5/1
hoặc lớn hơn phải được định nghĩa là một sợi. Đối với amiăng chrysotil sợi mảnh
đơn phải được định nghĩa là một sợi. Một sợi có các mặt không cách đều phải
được qui cho chiều rộng là bằng trung bình của độ rộng tối đa và tối thiểu. Số
trung bình này phải được sử dụng là độ rộng để xác định tỷ số hình dạng.
C.2.2 Bó
Một nhóm bao gồm các sợi
song song gắn với nhau rõ ràng phải được định nghĩa là một bó, có chiều rộng
ước tính bằng chiều rộng trung bình của bó, và chiều dài bằng chiều dài tối đa
của phần tử. Tỷ số hình dạng toàn bộ của bó có thể có bất cứ giá trị nào, miễn
là nó chứa các sợi thành tố riêng với các tỷ số hình dạng bằng hoặc lớn hơn
5/1. Các bó có thể biểu lộ các sợi phân nhánh ở một hoặc cả hai đầu.
C.2.3 Đám sợi
Một tập hợp hai hoặc
nhiều sợi định hướng ngẫu nhiên có hoặc không có các bó, phải được định nghĩa
là một đám sợi. Có hai dạng khác nhau:
C.2.3.1 Đám sợi phân tán
(loại D): Một
hệ phân tán và hở, trong đó ít nhất một trong số các sợi và bó có thể phân biệt
riêng rẽ và kích thước của nó đo được.
C.2.3.2 Đám sợi kết dính
(Loại C): Một
hệ liên kết chặt chẽ và phức tạp, trong đó một hoặc hai đầu của mỗi sợi hoặc bó
sợi riêng biệt bị che lấp, như vậy kích thước của các sợi và các bó riêng biệt
không thể được xác định rõ ràng.
Trong thực tế, các đám
sợi có thể xuất hiện mà trong đó các đặc tính của cả hai loại đám đều tìm thấy
trong cùng một phần tử. Nơi nào mà phần tử này xuất hiện, thì phần tử phải được
định nghĩa là một đám sợi phân tán và sau đó một qui trình hợp lý phải được
tuân theo bằng cách ghi lại thành phần phần tử theo chuẩn cứ đếm. Qui trình để
xử lý các đám sợi được minh hoạ bằng các ví dụ ở hình C2.
C.2.4 Mạng
Một hoặc nhiều sợi hoặc
các bó sợi có thể được gắn với nhau hoặc bị che khuất một phần bởi một hạt đơn
hoặc nhóm các hạt không phải sợi chồng lên nhau. Phần tử mà phải được định
nghĩa là một mạng. Hình ảnh TEM không phân biệt được các hạt bị gắn với các sợi
và các hạt này ngẫu nhiên gối lên nhau trong hình ảnh TEM. Do vậy không biết
được một phần tử như vậy liệu có thực là một hạt phức tạp không hay là nó xuất
hiện do sự chồng chéo đơn giản của các hạt và các sợi trên giấy lọc.
Vì một phần tử mạng có
thể gồm nhiều hơn một sợi, cho nên định nghĩa chi tiết rằng các mạng phải được
đếm như thế nào là rất quan trọng. Các mạng thể hiện các đặc tính khác nhau và
hai loại có thể được định nghĩa là:
C.2.4.1 Mạng phân tán
(loại D): Phần
tử bao gồm một hạt hoặc nhóm các hạt kết nối với nhau, có các sợi chồng lên
nhau hoặc dính vào nhau các bó sợi gắn với nhau trong đó ít nhất một trong số
các sợi hoặc bó sợi có thể được xác định riêng rẽ và các kích thước của nó đo
được.
C.2.4.2 Mạng kết dính
(loại C): Phần
tử gồm một hạt hoặc nhóm các hạt kết nối với nhau, trong đó các sợi hoặc bó sợi
có thể nhìn thấy được trong phạm vi phần tử hoặc hình chiếu của nó, như vậy các
kích thước của các sợi riêng rẽ không thể xác định một cách rõ ràng.
Hình C1 - Các kiểu hình thái cơ bản của phần tử amiăng (Tham khảo)
Hình C2 - Các ví dụ ghi các đám sợi amiăng phức tạp (Tham khảo)
Trong thực tế, các mạng
có thể xuất hiện trong đó các đặc tính của cả hai kiểu mạng đều tìm thấy trong
cùng một phần tử. Khi điều này xảy ra, thì phần tử phải được qui cho là mạng
phân tán và sau đó một qui trình hợp lý cần được tuân theo bằng cách ghi lại
các thành phần của phần tử tuỳ theo chuẩn cứ đếm. Các ví dụ về qui trình phải
được tuân theo được chỉ ra ở hình C3.
C.2.5 Phần tử amiăng lớn
hơn 5 mm
Bất cứ sợi, bó, đám hoặc
mạng nào mà kích thước lớn nhất vượt quá 5 mm. Các phần tử amiăng lớn hơn 5 mm không hẳn là chứa các
sợi amiăng hoặc các bó dài hơn 5 mm.
C.2.6 Sợi hoặc bó amiăng
dài hơn 5 mm
Một sợi amiăng có chiều
rộng bất kỳ hoặc một bó các sợi như vậy mà có chiều dài lớn hơn 5 mm.
C.2.7 Phần tử tương đương
với PCM
Bất cứ sợi, bó, đám hoặc
mạng nào có tỷ số hình dạng 3/1 hoặc lớn hơn, dài hơn 5 mm và có đường kính giữa
0,2mm và 3 mm, các phần tử tương
đương PCM không nhất thiết phải gồm các sợi hoặc các bó dài hơn 5 mm, hoặc các sợi tương
đương PCM.
C.2.8 Sợi tương đương PCM
Bất cứ hạt nào có các mặt
song song hoặc các mặt không cách đều nhau, có một tỷ số hình dạng 3/1 hoặc lớn
hơn, dài hơn 5 mm
và có đường kính giữa 0,2 mm và 3 mm. Đối với chrysotil, các sợi tương đương PCM sẽ luôn luôn
là các bó sợi.
C.3 Chuẩn cứ khác để đếm
các phần tử
C.3.1 Các phần tử cắt
ngang các cạnh của ô lưới
Một phần tử vắt qua một
cạnh của ô lưới sẽ chỉ được đếm ở hai phía của ô lưới như minh hoạ trong hình
C4. Ghi các kích thước của phần tử như sau: các phần bị che khuất của các thành
phần được lấy tương đương với các phần không bị che khuất như chỉ ra bằng các
đường gạch đứt ở hình C4. Ví dụ, chiều dài của một sợi cắt ngang một cạnh lưới
được lấy là hai lần chiều dài không bị che khuất. Các phần tử cắt ngang một
trong hai phía khác sẽ không đếm.
C.3.2 Các sợi kéo dài ra
ngoài trường đếm
Trong khi quét một ô
lưới, đếm các sợi kéo dài ra bên ngoài trường nhìn một cách hệ thống, để tránh
đếm hai lần. Nói chung, một nguyên tắc cần được thiết lập sao cho chỉ các sợi
dài ra ngoài trường nhìn hai cung một phần tư thì được đếm. Qui trình này được
minh hoạ bằng hình C5. Đo chiều dài của mỗi sợi này bằng cách di chuyển tiêu
bản để định vị đầu cuối kia của sợi, sau đó trở lại trường nhìn ban đầu trước
khi tiếp tục quét tiêu bản. Các sợi không có điểm cuối trong phạm vi trường
nhìn thì không được đếm.
Hình C3 - Các ví dụ ghi các mạng amiăng phức tạp (Thao khảo)
Hình C4- Ví dụ đếm các phần tử vắt qua cạnh lưới (Tham khảo)
Hình C5 - Ví dụ đếm các sợi kéo dài ra ngoài trường nhìn (Tham khảo)
C.4 Các bước để ghi lại
dữ liệu
C.4.1 Khái quát
Các mã hình thái đã quy
định được thiết kế để tạo thuận lợi cho quá trình xử lý dữ liệu bằng máy tính
và cho phép ghi lại sự thể hiện đầy đủ của các đặc điểm quan trọng của mỗi phần
tử amiăng. Qui trình này đòi hỏi người soi kính phân loại mỗi một phần tử sợi
cơ bản thành một trong bốn nhóm chủ yếu: các sợi, bó, đám và mạng.
C.4.2 Các sợi
ở biểu mẫu phần tử, một
sợi định nghĩa ở phần C.2.1 phải được ghi lại bằng ký hiệu "F". Nếu
sợi là phần đếm tách riêng của một đám hoặc mạng thì sợi phải được ghi lại bằng
ký hiệu "CF" hoặc "MF" tuỳ thuộc vào nó là thành phần của
đám hoặc của mạng.
C.4.3 Các bó
ở biểu mẫu phần tử, một
bó như được định nghĩa trong phần C.2.2 phải được ghi lại bằng ký hiệu
"B". Nếu bó là phần được đếm tách riêng của một đám hoặc của mạng thì
bó phải được ghi lại bằng ký hiệu "CB" hoặc "MB", tuỳ thuộc
vào nó là thành phần của đám hay mạng.
C.4.4 Các đám phân tán
(loại D)
ở biểu mẫu phần tử, một
đám sợi biệt lập của loại D như định nghĩa ở phần C.2.3 phải được ghi lại bằng
ký hiệu "CD" theo sau bằng hai chữ số. Chữ số đầu biểu thị cho tổng
số các sợi và các bó có chứa phần tử mà người phân tích ước định. Con số phải
lấy từ 1 - 9 hoặc được ký hiệu "+" nếu ước tính nhiều hơn 9 sợi hoặc
bó sợi thành phần. Con số thứ hai theo cách tương tự sẽ biểu thị cho tổng số
sợi và bó dài hơn 5 mm
có chứa trong phần tử. Phải ghi lại các kích thước toàn bộ của đám theo hai
hướng vuông góc ứng với các kích thước tối đa. Theo trình tự chiều dài giảm
xuống, đến các sợi và bó sợi thành phần dài 5 mm thì phải ghi riêng ra và sử dụng
các mã "CF" (sợi của đám) và "CB" (bó của đám). Nếu, sau
khi đếm các sợi và bó sợi cấu thành nhô lên, một đám các sợi tạo thành đám sợi
dính cặn vụn sẽ phải ghi bằng ký hiệu "CR" (đám sợi dính cặn vụn).
Nếu các sợi tạo thành đám cặn vụn đại diện cho hơn một nhóm định vị, nó cần ghi
là nhiều hơn một đám sợi dính cặn vụn. Không ghi lại nhiều hơn 5 sợi dính cặn
vụn cho bất kỳ đám nào. Một đám sợi dính cặn vụn phải được đo và gán cho một
con số có hai chữ số thu được cùng một cách thức như đã chỉ ra cho toàn bộ đám.
Không bắt buộc, nếu số bó và sợi thành phần ở đám sợi ban đầu hoặc đám dính cặn
vụn nằm ngoài phạm vi 1 - 9, thì các thông tin thêm liên quan đến số sợi và bó
sợi thành phần có thể được ghi chú ở cột bình luận.
C.4.5 Đám sợi kết dính
(loại C)
ở biểu mẫu phần tử, một
đám sợi riêng biệt loại C như định nghĩa ở mục C.2.3 phải được ghi bằng ký hiệu
"CC", theo sau là một con số có hai chữ số. Số có hai chữ số này mô
tả số sợi và bó sợi thành phần phải được gán cùng một cách như cho các đám sợi
loại D. Kích thước toàn bộ của đám sợi theo hai hướng vuông góc phải được ghi
lại cùng một cách cho đám sợi loại D. Bằng định nghĩa này, các sợi và bó cấu
thành của các đám sợi kết dính không thể đo riêng rẽ được vì thế, không lập
bảng riêng rẽ của các sợi thành phần hoặc bó sợi.
C.4.6 Các mạng phân tán
(loại D)
ở biểu mẫu phần tử, một
mạng sợi biệt lập của loại D theo định nghĩa ở phần C.2.4 phải được ghi lại
bằng ký hiệu "MD" theo sau là số với hai chữ số.
Số có hai chữ số phải
được gắn cùng một cách thức như đối với đám sợi loại D. Kích thước toàn bộ của
mạng sợi theo hai hướng vuông góc phải được ghi lại theo cùng một cách thức như
đối với các đám sợi loại D. Theo trình tự chiều dài giảm xuống, đến các sợi và
bó sợi thành phần dài 5 mm thì phải ghi riêng ra và sử dụng các mã "MF"
(sợi của mạng) và "MD" (bó của mạng). Nếu sau khi đếm các sợi và bó
sợi cấu thành nhô lên, thành phần của mạng có chứa các phần còn lại của sợi
amiăng, phần này phải được ghi lại bằng ký hiệu "MR" (phần còn lại
của mạng). Nếu các sợi của mạng còn lại có nhiều hơn một nhóm sợi đã được định
vị, thì cần thiết phải ghi nhiều hơn một phần còn lại của mạng. Không ghi nhiều
hơn năm phần còn lại của mạng cho bất cứ mạng nào. Một phần còn lại của mạng
phải được đo và gán cho một số gồm hai chữ số thu được cùng một cách thức như
qui định đối với mạng toàn bộ. Không bắt buộc, nếu số các sợi thành phần hoặc
bó sợi trong mạng ban đầu hoặc trong phần còn lại của mạng nằm ngoài phạm vi từ
1 - 9, các thông tin thêm liên quan đến số sợi thành phần và bó sợi có thể được
ghi chú trong cột "bình luận".
C.4.7 Các mạng kết dính
(loại C)
ở biểu mẫu đếm phần tử,
một mạng sợi riêng biệt loại C như định nghĩa ở C.2.4 phải ghi lại bằng ký hiệu
"MC" theo sau là một số hai chữ số.
Số gồm hai chữ số phải
được gán cùng một cách thức như đối với đám sợi loại D. Các kích thước toàn bộ
của mạng theo hai hướng vuông góc phải được ghi lại theo cùng một cách như đối
với đám sợi loại D. Theo định nghĩa, các sợi thành phần và bó sợi của các mạng
kết dính không thể đo riêng rẽ được, vì thế không lập bảng riêng rẽ của các sợi
thành phần và bó sợi.
C.4.8 Các bước ghi lại
các sợi và bó sợi bị che khuất một phần
Phần chiều dài của sợi
hoặc bó sợi mà bị che khuất bởi các hạt khác phải được sử dụng làm cơ sở cho
việc xác định liệu một sợi hoặc bó sợi có được ghi là một thành phần riêng
biệt, hoặc có được coi là một phần của một mạng loại C hoặc là phần còn lại của
mạng. Nếu phần chiều dài bị che khuất có thể nhỏ hơn 1/3 chiều dài toàn bộ, thì
sợi hoặc bó sợi phải được coi như là đặc điểm nổi bật phải được ghi riêng ra.
Chiều dài được gán cho mỗi sợi hoặc bó sợi bị che khuất một phần như vậy phải
bằng với chiều dài nhìn thấy cộng với chiều dài tối đa có thể từ phần bị che
khuất. Các sợi hoặc bó sợi xuất hiện vắt ngang mạng mà cả hai đầu có thể gần
như được định vị phải được tính tối đa là 5 và được ghi lại theo chuẩn cứ đếm
như các sợi hoặc bó sợi riêng biệt. Nếu chiều dài bị che khuất có thể lớn hơn
1/3 tổng chiều dài, thì sợi và bó sợi phải coi là một phần của mạng kết dính
loại C hoặc phần còn lại của mạng.
C.5 Cân nhắc đặc biệt khi
đếm các phần tử tương đương PCM
Dùng tỷ lệ 3/1 làm tỷ số
hình dạng nhỏ nhất để đếm các phần tử tương đương PCM. Yêu cầu về định nghĩa tỷ
số hình dạng này là để đạt được sự so sánh các kết quả với dãy kích cỡ này của
phần tử với các phép đo quang học cổ điển, nhưng sử dụng định nghĩa tỷ số hình
dạng này không ảnh hưởng đáng kể tới khả năng giải thích toàn bộ sự phân bố
kích cỡ sợi như là tỷ số hình dạng tối thiểu 5/1. Một vài ứng dụng có thể yêu
cầu là chỉ đếm các phần tử tương đương PCM. Hệ thống mã hoá cho phép phân biệt
các phần tử tương đương PCM chứa các sợi và các bó dài hơn 5 mm và các phần tử không
chứa các sợi và bó như vậy.
Chú thích 16 - Nói chung,
các đám sợi và các mạng sẽ tạo các thành phần ít hơn vì các kích thước tối
thiểu được qui định cho các sợi có thể đếm được tăng lên. Vì thế, có thể thấy
rằng một phần tử đặc biệt cho ra số sợi và bó sợi thành phần trong phép đếm cho
tất cả các kích thước sợi cao hơn khi đếm ở độ phóng đại giảm xuống, vì cái đó
chỉ những sợi và bó sợi dài hơn 5 mm mới được đếm. Tuy nhiên, yêu cầu các sợi và bó sợi thành
phần được ghi lại với trật tự chiều dài giảm xuống để đảm bảo rằng dữ liệu là
nhất quán cho một phần tử đặc biệt, bất chấp nhóm kích cỡ của các sợi đang được
đếm và độ phóng đại đang dùng.
PHỤ LỤC D
(Quy định)
QUI TRÌNH XÁC ĐỊNH SỢI
D.1 Khái quát
Các chuẩn cứ được dùng để
nhận biết các sợi amiăng có thể được lựa chọn tuỳ theo sử dụng các phép đo đã
định. Trong một số trường hợp chỉ có thể là một yêu cầu rằng, các sợi phải được
xác định một cách rõ ràng là một mẫu khoáng riêng. Trong trường hợp khác, nếu
có đủ các hiểu biết về mẫu, thì sự xác định kỹ càng với mỗi sợi có thể là không
cần. Thời gian cần thiết để tiến hành phân tích, do đó chi phí của phép phân
tích có thể thay đổi rất rộng phụ thuộc vào các chuẩn cứ xác định được xem xét,
tức là thế nào là một sự xác định đầy đủ. Sự kết hợp các chuẩn cứ được xem xét
cuối cùng để xác định các sợi trong một phép phân tích đặc biệt phải được qui
định trước khi làm, và sự kết hợp các chuẩn cứ này phải được đề cập đến như là
"mức độ" của phép phân tích. Các yếu tố khác nhau liên quan tới các
giới hạn của thiết bị và đặc tính của mẫu có thể cản trở sự thoả mãn tất cả các
chuẩn cứ xác định sợi đối với một sợi đặc biệt. Bởi vậy, một hồ sơ phải được
lập ra cho các chuẩn cứ xác định mà nó thoả mãn với mỗi sợi nghi là amiăng nằm
trong phép phân tích. Thí dụ, nếu cả hai phương pháp ED và EDXA đều được nhằm
là để xác định cuối cùng cho mỗi sợi, thì các sợi có hình thái chrysotil mà vì
một lý do nào đó, không quan sát được ở mẫu ED nhưng quan sát được ở một phổ
EDXA tương ứng với dạng chrysotil thì được phân loại theo cách thức truyền đạt
được mức độ tin cậy như vậy vào công việc phân định sợi.
D.2 Các kỹ thuật ED và
EDXA
D.2.1 Khái quát
Ban đầu, các sợi được
phân loại thành hai nhóm dựa trên hình thái: Một số sợi có dạng hình ống, một
số khác không có dạng ống. Phép phân tích sâu hơn mỗi sợi được tiến hành bằng
cách sử dụng phương pháp ED và EDXA. Các qui trình sau đây phải được sử dụng
khi các sợi được khảo sát bằng phương pháp ED và EDXA.
Các cấu trúc tinh thể của
một vài sợi khoáng như chrysotil rất dễ bị hỏng bởi mật độ dòng cao cần cho sự
khảo sát bằng EDXA.
Do đó, sự nghiên cứu về
các sợi nhạy cảm này bằng ED cần được hoàn thiện trước khi cố gắng để thu được
phổ EDXA từ các sợi này. Với các sợi ổn định hơn (bền hơn) như amphibol, sự
kiểm tra bằng EDXA và ED được sử dụng theo trình tự khác.
D.2.2 Kỹ thuật ED
Kỹ thuật ED có thể là
định tính hoặc định lượng. ED định tính gồm có kiểm tra bằng mắt không có sự đo
đạc chi tiết, các đặc tính chung của mẫu ED thu được trên màn hình hiển thị TEM
từ một sợi định hướng ngẫu nhiên. Các mẫu ED có được từ các sợi có đối xứng trụ
như chrysotil không thay đổi khi các sợi nghiêng về các trục của chúng. Các mẫu
có được từ các sợi định hướng ngẫu nhiên của các loại khoáng này có thể được
giải thích định lượng. Đối với các sợi không có đối xứng trục thì chỉ các mẫu
ED thu được khi sợi định hướng với một trục chính của tinh thể hầu như song
song với hướng của chùm điện tử có thể được giải thích định lượng.
Các kiểu này của mẫu ED
phải được coi là mẫu "ED dọc trục tinh thể". Để giải thích định lượng
một mẫu ED dọc trục tinh thể, mẫu này phải được ghi lại bằng ảnh chụp và sự phù
hợp của nó với các phần tử của khoáng đã biết phải được kiểm tra. Có thể sử
dụng một chương trình máy tính để so sánh các phép đo của mẫu ED dọc trục tinh
thể với các dữ liệu tương ứng được tính toán từ các phần tử khoáng đã biết. Các
mẫu ED dọc trục tinh thể có được bằng sự kiểm tra một sợi theo sự định hướng
riêng có thể chưa đủ đặc trưng để cho phép nhận dạng một cách chắc chắn sợi
khoáng, nhưng thường có khả năng nghiêng sợi tới một góc khác và ghi lại một
mẫu ED khác tương ứng với dọc một trục tinh thể khác. Góc giữa hai trục cũng có
thể được kiểm tra để đánh giá sự phù hợp với phần tử của một khoáng còn hồ
nghi.
Đối với sự kiểm tra bằng
mắt mẫu ED, độ dài ống kính của kính hiển vi điện tử truyền dẫn (TEM) cần được
đặt tại một giá trị thấp xấp xỉ 250 mm và mẫu ED cần được nhìn qua ống nhòm.
Qui trình này làm giảm thiểu thoái hoá có thể của sợi do bức xạ electron. Tuy
nhiên, mẫu bị méo đi bởi góc nghiêng của màn hiển thị. Một ống kính có độ dài
ít nhất 2 m được sử dụng khi mẫu ED được ghi lại, nếu phép đo chính xác của mẫu
là có thể. Điều cần thiết là khi có được một mẫu ED được đánh giá bằng mắt hoặc
được ghi lại, thì chiều cao của mẫu phải được điều chỉnh phù hợp tới tâm điểm
ảo và hình ảnh phải được hội tụ trong mặt phẳng có độ mở chọn lọc. Nếu điều này
không được làm, có thể một vài thành phần của mẫu ED không được xuất phát từ
vùng đã lựa chọn. Nhìn chung, sẽ là cần thiết sử dụng độ mở ED nhỏ nhất sẵn có.
Với các phép đo chính xác
mẫu ED, phải sử dụng một chuẩn hiệu chuẩn nội bộ. Một màng mỏng vàng hoặc chất
chuẩn phù hợp khác phải được ép vào phía dưới của tiêu bản TEM. Lớp phủ này có
thể được ép vào hoặc bằng sự bay hơi chân không hoặc thuận lợi hơn bằng phương
pháp phun phủ. Màng đa tinh thể vàng sinh ra các vòng nhiễu xạ trên mỗi mẫu ED
và các vòng này cung cấp thông tin hiệu chuẩn cần thiết.
Để tạo ra một mẫu ED, di
chuyển hình ảnh của sợi vào giữa màn hình hiển thị, điều chỉnh độ cao của tiêu
bản vào vị trí tâm ảo, đặt một độ mở phù hợp vào trong chùm điện tử, sao cho
sợi hoặc một phần của nó chiếm một phần lớn vùng được chiếu sáng. Cỡ của độ mở
và phần của sợi sao cho các hạt khác không phải để kiểm tra bị loại khỏi vùng
được lựa chọn. Quan sát mẫu ED qua ống nhòm. Trong khi quan sát, luồng qua thấu
kính vật phải được điều chỉnh tới điểm mà ở đó thu được một mẫu ED hoàn chỉnh
nhất. Nếu vẫn chưa thu được một mẫu ED hoàn hảo thì di chuyển hạt vòng quanh
trong vùng đã chọn để cố gắn tối ưu hoá mẫu ED hoặc để loại trừ các yếu tố
nhiễu có thể từ các hạt bên cạnh.
Nếu một phép phân tích ED
dọc trục tinh thể được thử trên sợi, thì mẫu phải được gắn trong một giá đỡ thích
hợp. Giá đỡ thuận tiện nhất cho phép quay toàn bộ lưới tiêu bản và nghiêng lưới
về phía trục đơn. Quay mẫu đến khi hình ảnh của sợi chỉ ra rằng sợi được định
hướng với độ dài của nó trùng với trục nghiêng của thước đo góc và điều chỉnh
độ cao của mẫu đến khi sợi nằm ở vị trí tâm ảo. Nghiêng sợi đến khi mẫu ED xuất
hiện đối xứng, mảng vết có cùng kích thước.
Sự đoán nhận các điều
kiện sắp xếp dọc trục đòi hỏi một số kinh nghiệm từ phía người thao tác. Trong
khi nghiêng sợi để có được các điều kiện dọc trục theo cách mà cường độ của vết
thay đổi cần được theo dõi. Nếu xuất hiện các phản xạ yếu tại một vài điểm trên
một mạng phản xạ mạnh, thì có thể có nhiễu xạ kép hoặc nhiễu xạ bội, và một vài
lưu ý phải được xem xét khi lựa chọn các vệt nhiễu xạ để đo và giải thích. Một
sự thảo luận đầy đủ về nhiễu xạ điện tử và nhiễu xạ bội có thể xem trong các
tài liệu tham khảo của J.A.Gand [11], PB. Hirsch [14] và H.R. Wenck [42] trong
phụ lục J. Không phải tất cả các kiểu mẫu dọc trục có thể thu được đã là quyết
định. Chỉ những mẫu có các phản xạ gần nhau tương ứng với các chỉ số thấp trong
ít nhất một hướng mới được ghi lại. Các mẫu trong đó tất cả các khoảng cách d
nhỏ hơn 0,3 nm là không được quyết định. Một hướng dẫn đầy đủ nói rằng các phản
xạ góc thấp nhất phải nằm trong phạm vi bán kính của vòng tròn nhiễu xạ bằng
vàng đầu tiên (111), và các mẫu này với khoảng cách nhỏ hơn giữa các phản xạ
thường là rõ ràng nhất.
Năm vết, gần với vết tâm
nhất, dọc theo hai đường giao nhau của mẫu dọc trục phải được lựa chọn để đo
như trong hình D.1. Các khoảng cách của các vết này từ vết tâm và bốn góc chỉ
ra cung cấp các dữ liệu cần thiết cho phép phân tích. Vì vết tâm thường bị
chiếu quá lâu, nên nó không cho ta một điểm xuất phát xác định rõ cho các phép
đo đạc này. Do vậy, các khoảng cách cần thiết phải đạt được bằng phép đo giữa
các cặp vết đối xứng sắp xếp quanh vết tâm, thích hợp hơn là được tách bằng một
vài khoảng cách lặp lại.
Các khoảng cách phải được
đo với độ chính xác hơn 0,3 mm, và các góc có độ chính xác hơn 2,50.
Đường kính của vòng tròn thứ nhất hoặc thứ hai của mẫu chuẩn (111 và 200) cũng
phải được đo với độ chính xác hơn 0,3 mm.
Dùng vàng làm nguyên liệu
hiệu chuẩn, hằng số máy thu hình dựa trên cơ sở bán kính được tính như sau
l L = 0,117 74 D mm - nm (vòng
thứ nhất); lL = 0,101 97 D mm - nm (vòng
thứ hai)
D.2.3 Các phép đo bằng
phân tích tia X phân tán năng lượng
Sự giải thích phổ (EDXA)
có thể là định tính hoặc định lượng. Để giải thích định tính một phổ, thì các
pic của tia X sinh ra từ các nguyên tố trong sợi được ghi lại. Để định lượng
thì sau khi trừ nền, các diện tích thực của pic thu được là các pic tia X sinh
ra từ các nguyên tố có trong sợi. Phương pháp này dùng để định lượng các loại
khoáng của chứa silic.
Hình D1 - Ví dụ phép đo
các mẫu SAED dọc trục tinh thể (Tham khảo)
Để thu được một phổ EDXA,
di chuyển hình ảnh của sợi tới tâm màn ảnh và di chuyển khe hở vật kính. Lựa
chọn một đường kính chùm electron thích hợp và làm chệch hướng chùm electron
sao cho nó chạm lên sợi. Tuỳ thuộc vào thiết bị, có thể cần thiết nghiêng tiêu
bản về phía đầu phát hiện tia X, và trong một số thiết bị, sử dụng kiểu hoạt
động của kính hiển vi điện tử truyền dẫn quét (STEM).
Thời gian để thu được một
phổ thích hợp thay đổi theo đường kính sợi và các yếu tố của thiết bị. Để tiến
hành định lượng, các phổ cần có một số đếm có giá trị thống kê trong mỗi pic.
Phân tích các sợi có đường kính nhỏ chứa natri là trở ngại nhất, vì nó nằm
trong vùng năng lượng thấp mà bộ phát hiện tia X kém nhạy nhất. Bởi vậy, cần
thiết thu được một phổ với thời gian đủ dài để natri được phát hiện trong các
sợi như vậy. Người ta tìm thấy rằng có thể thu được một phép phân tích định
lượng thoả mãn nếu sự thu tín hiệu được tiếp tục đến khi toàn bộ pic Ka silic đã trừ nền vượt
quá 10 000 số đếm. Sau đó, phổ phải được điều chỉnh để trừ nền và thu được các
diện tích thực của các pic nguyên tố.
Sau sự phân loại EDXA
định lượng một vài sợi bằng phép phân tích máy tính diện tích thực của các pic,
có thể phân loại các sợi sâu hơn nữa trong cùng một mẫu dựa trên sự so sánh phổ
trên thiết bị. Thông thường, sự so sánh bằng mắt có thể được tiến hành sau thời
gian đạt được một ít.
D.3 Giải thích các dữ
liệu phân tích sợi
D.3.1 Chrysotil
Phần tử hình thái học của
chrysotil là đặc trưng và với kinh nghiệm, người ta có thể nhận diện dễ dàng.
Tuy nhiên, một vài khoáng làm giá đỡ có một vẻ ngoài tương tự và sự quan sát
hình thái học đơn thuần là không phù hợp cho hầu hết các mẫu vật. Mẫu ED có
được từ chrysotil là hoàn toàn đặc trưng cho khoáng này nếu các đặc trưng được
qui định của mẫu tương ứng với các đặc trưng từ chrysotil so sánh. Tuy nhiên,
tuỳ thuộc vào lai lịch của sợi, và phụ thuộc vào một số các yếu tố khác, phần
tử tinh thể của một sợi cụ thể có thể bị hư hỏng, và nó không tạo ra được mẫu
ED. Trong trường hợp này, phổ EDXA có thể chỉ là dữ liệu sẵn có để bổ sung vào
sự quan sát hình thái.
D.3.2 Amphibol
Vì qui trình xác định các
sợi amiăng ngoài loại chrysotil có thể tốn thời gian, cho nên để giải thích các
mẫu ED dọc trục tinh thể thì dùng các chương trình máy tính như của B.L.Rhoades
(xem phụ lục J, tham khảo [32]). Tài liệu đã xuất bản này có các dữ liệu về
thành phần và tinh thể học cho tất cả các khoáng dạng sợi có thể gặp phải trong
phép phân tích bằng kính hiển vi điện tử truyền dẫn của các mẫu không khí, và
các dữ liệu thành phần và cấu trúc từ các sợi chưa biết cần được so sánh với
các dữ liệu đã công bố. Việc chứng minh rằng các phép đo là đúng với các dữ
liệu đối với khoáng đang thử không phải là xác định duy nhất chất khoáng chưa
biết vì có thể tồn tại các dữ liệu từ các khoáng khác cũng có thể giống như
vậy. Tuy nhiên, không chắc chắn rằng một khoáng của nhóm cấu trúc khác có thể
đưa đến các dữ liệu phù hợp sợi amphibol được xác định bằng EDXA định lượng và
hai mẫu ED dọc trục tinh thể.
Các sợi amphibol đang
nghi ngờ đầu tiên cần được phân loại dựa trên thành phần hoá học. Thông tin
định tính hoặc định lượng EDXA có thể được sử dụng làm cơ sở cho sự phân loại
này. Từ các dữ liệu đã công bố về các thành phần của khoáng, một danh sách các
khoáng có thành phần phù hợp với thành phần đã đo cho sợi chưa biết cần được
ghi lại. Để tiến triển hơn nữa, cần thiết thu được mẫu ED dọc trục đầu tiên,
theo D.2.2. Có thể qui định một mẫu ED dọc trục đặc biệt để xác định amphibol,
vì vài mẫu thường được coi là đặc trưng. Đáng tiếc là với một sợi có sự định
hướng ngẫu nhiên trên lưới TEM không có sẵn giá đỡ tiêu bản và thước đo góc
hiện tại cho phép định vị nhanh thuận lợi hai trục dọc tinh thể được lựa chọn
trước. Phương pháp thực tế nhất được chấp nhận là chấp thuận mẫu chỉ số thấp dễ
dàng thu được và sau đó kiểm tra sự phù hợp của chúng với phần tử của các
khoáng đã được chọn trước trên cơ sở các dữ liệu EDXA. Thậm chí các phần tử của
các khoáng không phải là amphibol trong danh sách lựa chọn trước này cũng phải được
kiểm tra lại so với các dữ liệu EDXA dọc trục tinh thể có được đối với sợi chưa
biết. Vì các khoáng không phải amphibol trong một vài sự định hướng có thể sinh
ra các mẫu tương tự giống với các phần tử amphibol.
Sự phân tích các mẫu ED
dọc trục phải bao gồm tất cả các khoáng được lựa chọn trước đây từ file dữ liệu
khoáng như là bằng phương pháp hóa học thích hợp với các dữ liệu EDXA. Qui
trình này thường sẽ rút ngắn lại bản danh sách các khoáng đang được tìm. Một
tập dữ liệu dọc trục thứ hai từ mẫu khác thu được trên cùng một sợi có thể được
xử lý sau hoặc để khẳng định thêm sự xác định hoặc để cố gắng loại bỏ sự hoài
nghi. Thêm vào đó, góc đo giữa các hướng của hai trục dọc tinh thể có thể được
kiểm tra sự phù hợp với các phần tử của các khoáng. Cần lưu ý xem xét trong sự
hợp lý hoá góc giữa các trục dọc, vì nếu sợi có cặp trục thì hai mẫu ED dọc
trục có thể phát sinh ra từ cặp tinh thể tách biệt. Trong thực tế, qui trình
nhận dạng đầy đủ thường được ứng dụng cho một số rất ít sợi, trừ khi sự nhận
diện chính xác tất cả các sợi được yêu cầu vì một lý do đặc biệt.
D.4 Các nhóm phân loại
sợi
Không phải lúc nào cũng
có thể tiến hành xác định một cách rõ ràng một sợi, điều này có thể do các hạn
chế của thiết bị hoặc do bản chất thực tế của sợi. Trong nhiều phép phân tích,
sự nhận dạng rõ ràng của mỗi sợi có thể không thực sự cần thiết nếu có sẵn
những hiểu biết khác về mẫu, hoặc nếu nồng độ thấp dưới mức quan tâm. Vì vậy
các qui trình phân tích phải được quan tâm cả vấn đề các hạn chế của thiết bị
và các yêu cầu phân tích khác nhau. Vì thế, một hệ thống phân loại sợi được sử
dụng cho phép ghi chính xác các dữ liệu. Các phân loại được trình bày trong
bảng D.1 và D.2 và nhằm xác định chrysotil và amphibol tương ứng. Các sợi phải
được thông báo trong các nhóm này.
Nguyên tắc chung phải
theo trong qui trình phân tích này là đầu tiên phải định nghĩa rõ sự phân loại
sợi đặc trưng nhất cần phát hiện hoặc "mức" của phép phân tích được
chỉ đạo. Sau đó, đối với mỗi sợi được kiểm tra, ghi lại sự phân loại mà thực tế
đạt được. Tuỳ thuộc vào ý định sử dụng các kết quả, các chuẩn cứ để chấp nhận
các sợi khi "đã được phân định" có thể được thiết lập sau tại bất kỳ
thời gian nào sau khi hoàn thành phép phân tích.
Trong một mẫu chưa biết,
chrysotil sẽ được xem như được khẳng định chỉ khi có được một mẫu ED đã hiệu
chuẩn được ghi lại từ một sợi trong nhóm CD, hoặc nếu các phép đo mẫu ED được
ghi lại ở thiết bị. Amphibol sẽ được xem như được khẳng định một khi thu được
các dữ liệu được ghi lại mà chỉ ra một cách riêng biệt sự có mặt của amphibol
đối với các sợi được phân loại trong các nhóm AZQ, AZZ hoặc AZZQ
D.4.1 Qui trình để phân
loại các sợi có hình thái dạng ống được nghi là chrysotil
Đôi khi, ta gặp phải các
sợi có hình ống giống với dạng chrysotil nhưng không thể mô tả sâu hơn nữa hoặc
bằng ED hoặc EDXA. Có thể chúng không phải tinh thể, trong trường hợp như vậy,
các kỹ thuật ED không có ích, hoặc chúng có thể nằm trong một vị trí trên lưới
mà không cho phép thu được một phổ EDXA. Xen vào đó, các sợi có thể có nguồn
gốc hữu cơ, nhưng hình thái học và thành phần có thể không đủ rõ để bỏ qua. Vì
thế, có một yêu cầu phải ghi lại mỗi sợi và phải xác định rõ mỗi sợi có thể
được nhận dạng có mức tin cậy như thế nào. Sự phân loại các sợi sẽ gặp các mức
độ thành công khác nhau. Hình D.2 chỉ ra qui trình phân loại được sử dụng đối
với các sợi không biểu hiện một ít nào hình thái dạng ống. Sơ đồ có thể tự lí
giải, và mỗi sợi hoặc là bị loại bỏ như là khoáng phi amiăng (NAM) hoặc được
phân loại theo một vài cách mà chuẩn cứ sau này có thể vẫn góp phần vào việc
đếm sợi chrysotil.
Hình thái học là sự quan
tâm đầu tiên, và nếu hình dạng không giống với hình dạng thường thấy trong các
mẫu chuẩn chrysotil thì định rõ sự phân loại ban đầu là TM. Bất chấp hình thái
nghi ngờ, hãy kiểm tra sợi bằng phương pháp ED và EDXA theo hình D.2. Khi hình
thái được xác định rõ ràng hơn, có thể có khả năng phân loại sợi khi có hình
dạng chrysotil (CM).
Bảng D1 - Phân loại các sợi có hình thái dạng ống
Nhóm
|
Mô tả
|
TM
CM
CD
CQ
CMQ
CDQ
NAM
|
Hình thái dạng ống, các
đặc tính không đủ để phân loại là chrysotil
Dạng chrysotil đặc
trưng
Mẫu SAED chrysotil
Thành phần chrysotil
xác định bằng EDXA định lượng
Dạng chrysotil và thành
phần xác định bằng EDXA định lượng
Mẫu chrysotil SEAD và
thành phần xác định bằng EDXA định lượng
Khoáng chất phi amiăng
|
Bảng D2 - Phân loại các sợi không có hình thái dạng ống
Nhóm
|
Mô tả
|
UF
AD
AX
ADX
AQ
AZ
ADQ
AZQ
AZZ
AZZQ
NAM
|
Sợi không nhận dạng
được
Amphibol bằng SAED định
hướng ngẫu nhiên (chỉ mẫu của lớp cách 0,53nm)
Amphibol bằng SAED định
tính. Phổ có các thành phần nguyên tố giống với amphibol
Amphibol bằng SAED định
hướng ngẫu nhiên và định tính EDXA
Amphibol bằng định
lượng SAED
Amphibol bằng một mẫu
SAED dọc trục tinh thể
Amphibol bằng SAED định
hướng ngẫu nhiên và EDXA định lượng
Amphibol bằng một mẫu
SAED dọc trục tinh thể và EDXA định lượng
Amphibol bằng hai mẫu
SAED dọc trục tinh thể có góc giữa các trục không đổi
Amphibol bằng hai mẫu
SAED dọc trục có góc giữa các trục không đổi và EDXA định lượng
Khoáng chất phi amiăng
|
Để phân loại là CM thì
những đặc trưng hình thái cần thiết như sau:
a) các sợi mảnh riêng cần
có tỉ số hình dạng cao hơn 5/1 và đường kính cỡ 30 nm đến 40 nm;
Hình D2 - Sơ đồ phân loại sợi có hình thái dạng ống (Tham khảo)
b) cường độ tán xạ điện
tử ở thế gia tốc từ 60 kV đến 100 kV cần phải đủ thấp để phần tử bên trong có
thể thấy được;
c) cần phải có một vài
dấu hiệu của phần tử bên trong ngụ ý là một dạng hình ống tương tự với dạng
được chỉ ra bởi chrysotil so sánh của UICC mà nó có thể suy giảm trong chùm
điện tử.
Kiểm tra từng sợi có các
đặc tính hình thái này bằng kỹ thuật ED và phân loại là chrysotil bằng ED, chỉ
với những sợi cho ra các mẫu nhiễu xạ với các đặc tính chính xác chỉ ra trên
hình D.3.
Hình D.3 - Mẫu SAED của chrysotil (Tham khảo)
Những nét đặc trưng phù
hợp trong mẫu này để xác định chrysotil là như sau:
a) Các phản xạ (002) phải
được kiểm tra để xác định rằng chúng đúng tương ứng với khoảng cách 0,73 nm;
b) khoảng cách lặp lại
của đường thẳng phân lớp phải tương ứng 0,53 nm;
c) phải có những
"vạch" của các phản xạ (110) và (130).
Sử dụng các hiệu chuẩn
milimet trên màn hình hiển thị TEM, các quan sát này có thể thực hiện dễ dàng
trên thiết bị. Nếu cần có bằng chứng tư liệu cho sự nhận dạng sợi, thì ghi lại
một ảnh chụp cấu trúc tế vi của TEM của ít nhất một sợi đại diện và ghi lại mẫu
ED của nó trên một phim riêng hoặc trên kính ảnh. Phim hoặc ảnh này cũng mang
các vòng chuẩn từ một chất đa tinh thể đã biết như vàng. Các mẫu đã được hiệu
chuẩn này chỉ là bằng chứng tư liệu riêng của chrysotil, chứ không phải một vài
loại hình ống hoặc cuộn khác như haloysit, palygorskit, bột tal hay vermiculit.
Tỷ lệ các sợi có thể được nhận dạng đúng là chrysotil bằng phương pháp ED là
thay đổi và với một mức độ nào đó phụ thuộc vào cả thiết bị và các qui trình
của người thao tác. Các sợi không cho ra được một mẫu ED có thể nhận dạng được
sẽ vẫn giữ lại trong các nhóm TM hoặc CM trừ khi chúng được kiểm tra bằng EDXA.
Trong phép phân tích EDXA
chrysotil chỉ có hai nguyên tố là có liên quan. Đối với sự phân loại sợi, phép
phân tích EDXA phải là định lượng. Nếu như phổ hiển thị các pic nổi trội của
manhê và silic với tỷ lệ diện tích thích hợp của chúng và chỉ có các pic phụ
của các nguyên tố khác, thì phân loại sợi là chrysotil bằng sự định lượng EDXA,
trong các nhóm CQ, CMQ hoặc CDQ là thích hợp.
D.4.2 Qui trình để phân
loại các sợi không có hình thái dạng ống, nghi ngờ là amphibol
Mọi hạt không có hình
thái dạng ống và không rõ ràng có nguồn gốc sinh học, với tỷ số hình dạng 5/1
hoặc lớn hơn, và có các mặt song song hoặc cách không đều, phải được coi là sợi
amphibol nghi ngờ. Một sự kiểm tra sợi sâu hơn nữa bằng các kỹ thuật ED và EDXA
sẽ có các mức độ thành công khác nhau, tuỳ thuộc vào bản chất của sợi và một số
hạn chế của thiết bị. Nó sẽ không thể nhận dạng mọi sợi một cách đầy đủ, thậm
chí nếu thời gian và chi phí không cần quan tâm. Hơn nữa, khẳng định số có mặt
của amphibol chỉ có thể đạt được bằng giải thích định lượng các mẫu ED dọc
trục, một qui trình rất tốn thời gian. Do đó, đối với các mẫu hàng ngày từ các
nguồn chưa biết, qui trình phân tích này hạn chế sự yêu cầu cho công việc ED
dọc trục tới mức tối thiểu là có một sợi đại diện của mỗi nhóm thành phần được
báo cáo. Trong một vài mẫu, có thể cần thiết phải nhận dạng nhiều sợi hơn bằng
kỹ thuật dọc trục. Khi phân tích các mẫu từ các nguồn được đặc trưng rất rõ thì
chi phí của sự nhận dạng bằng các phương pháp dọc trục có thể không cần lý giải
nữa.
Khoảng cách giữa các lớp
bằng 0,53 nm của mẫu ED định hướng ngẫu nhiên tự nó không phán đoán được đó là
của amphibol. Tuy nhiên, sự có mặt của cặp trục đôi trong nhiều sợi dẫn đến sự
đóng góp cho các lớp trong các mẫu bởi một vài tinh thể song song riêng biệt
của các sự định hướng trục khác nhau. Sự định vị trí ngẫu nhiên bề ngoài này
của các vết dọc theo các đường phân lớp, nếu cũng có liên quan đến tỉ số hình
dạng của sợi cao, là một đặc trưng của amiăng amphibol và do vậy nó có một giá
trị chẩn đoán giá trị nào đó. Nếu một mẫu của kiểu này không thu được, thì sự
nhận biết sợi vẫn còn chưa rõ ràng, vì thiếu một mẫu được công nhận có thể là
hậu quả của sự định hướng không phù hợp liên quan tới chùm tia electron, hoặc
sợi có thể là một loại khoáng nào đó.
Hình D.4 chỉ ra sơ đồ
phân loại sợi được dùng cho các sợi nghi là amphibol. Sơ đồ này chỉ ra tất cả
các đường phân loại có thể trong phép phân tích một sợi nghi là amphibol, khi
được kiểm tra một cách có hệ thống bằng ED và EDXA. Có thể là theo hai đường,
phụ thuộc vào hoặc cố gắng để đạt một phổ EDXA hoặc một mẫu ED định hướng ngẫu
nhiên được tiến hành đầu tiên. Qui trình bình thường để phân tích một mẫu có
nguồn gốc không rõ sẽ là kiểm tra sợi bằng ED định hướng ngẫu nhiên, định tính
EDXA, định lượng EDXA và ED dọc trục, theo trình tự này. Sự phân loại sợi cuối
cùng được ấn định sẽ được xác định hoặc bằng phép phân tích thành công ở mức độ
đòi hỏi tối đa, hoặc bằng các hạn chế của thiết bị. Bất kể hạn chế nào của
thiết bị mà ảnh hưởng đến chất lượng các kết quả đều phải lưu ý. Ghi lại sự
phân loại tối đa thu được cho mỗi sợi trên biểu mẫu đếm theo cột thích hợp. Các
nhóm phân loại khác nhau có thể được phối hợp sau đó theo bất kỳ kiểu cách thức
yêu cầu nào để tính toán nồng độ sợi. Bản ghi chép đầy đủ các kết quả thu được
khi cố gắng xác định từng sợi cũng có thể được dùng để đánh giá lại các dữ liệu
nếu cần thiết.
Trong mẫu chưa biết rõ,
phép phân tích dọc trục sẽ được yêu cầu nếu sự có mặt của amphibol được khẳng
định rõ ràng. Đối với mức độ của phép phân tích này, cố gắng để xây dựng sự
phân loại của mỗi sợi nghi là amphibol theo nhóm ADQ bằng sự xem xét kỹ mẫu ED
định hướng ngẫu nhiên và phổ EDXA. Thêm vào đó, kiểm tra ít nhất một sợi từ mỗi
kiểu nghi ngờ là amphibol tìm được bằng các phương pháp dọc trục để khẳng định
sự nhận dạng của chúng. Trong phần lớn các trường hợp, bởi vì thông tin hiện có
về các nguồn có thể có amiăng trong vùng lân cận sát với địa điểm lấy mẫu không
khí, một mức độ không rõ ràng nào đó về sự nhận dạng có thể được chấp nhận. Do
đó, các mức độ thấp hơn của phân tích cũng có thể được chấp nhận trong những
tình huống này.
Hình D.4 - Sơ đồ phân loại sợi không có hình thái dạng ống (Tham khảo)
PHỤ LỤC E
(Quy định)
SỰ XÁC ĐỊNH NỒNG ĐỘ SỢI VÀ BÓ SỢI
AMIĂNG DÀI HƠN 5 (M, VÀ CÁC SỢI AMIĂNG TƯƠNG ĐƯƠNG VỚI PCM (KÍNH HIỂN VI PHẢN
PHA)
Để cho độ chính xác thống
kê tăng lên và độ nhậy phân tích được cải thiện đối với các sợi và các bó sợi
amiăng dài hơn 5 mm,
có thể quyết định tiến hành đếm thêm các sợi tại độ phóng đại nhỏ hơn, chỉ tính
đến các sợi và bó ở trong vùng kích thước này. Kết quả phải chỉ rõ là "số các
sợi và bó amiăng dài hơn 5 mm". Với sự kiểm tra này, sử dụng độ phóng đại khoảng x
10 000 và tiếp tục ấn định một mã hình thái học đối với mỗi phần tử theo các
bước qui định trong phụ lục C. Chỉ ghi lại các sợi và bó sợi khi độ dài của
chúng vượt quá 5 mm.
Chỉ ghi các thành phần chùm và mạng khi chiều dài của chúng vượt 5 mm.
Cũng có thể tăng độ chính
xác thống kê và cải tiến độ nhạy phân tích cho các phần tử sợi dài hơn 5 mm, với đường kính giữa
0,2 mm và 3,0 mm về mặt lịch sử chúng là
cơ sở của sự đánh giá nguy cơ trong môi trường lao động (các sợi amiăng tương
đương với PCM). Sử dụng độ phóng đại khoảng x 5 000 lần cho sự đếm sợi mở rộng.
Kết quả phải ghi rõ là "số sợi amiăng tương đương với PCM". Phần tử
amiăng ở trong dãy kích thước này không cần thiết sát nhập các sợi hoặc bó
amiăng dài hơn 5 mm.
Tiếp tục sự kiểm tra mẫu
được mở rộng đến khi 100 phần tử amiăng được đếm hoặc đến khi một diện tích đủ
của tiêu bản được kiểm tra để đạt được độ nhạy phân tích đã yêu cầu được tính
toán theo bảng 1. Các ô lưới được khảo sát phải được chia ra gần ngang bằng cho
các lưới tiêu bản (tối thiểu là 2 lưới tiêu bản).
Chú thích
17 Diện tích tiêu bản
tương ứng với diện tích của giấy lọc được kiểm tra trong các phương pháp đếm
sợi bằng kính hiển vi pha tương phản là 0,785 mm2, tương đương xấp
xỉ 100 ô lưới của 1 ô lưới 200.
18 Một số tiêu chuẩn quốc
gia yêu cầu các sợi amiăng được đếm là sợi dài hơn 2,5 mm với đường kính nằm giữa 0,2 mm và 3,0 mm. Sử dụng độ phóng đại 5
000 lần để đếm các sợi ở trong khoảng kích thước này.
19 Tỉ số hình dạng tối
thiểu cho định nghĩa của một sợi trong các phương pháp đếm sợi bằng kính hiển
vi pha tương phản và trong một vài tiêu chuẩn quốc gia là 3/1 sử dụng tỉ số
hình dạng 3/1 cũng được phép trong tiêu chuẩn này, nếu tỉ số này được đề cập
trong báo cáo kết quả.
Các báo cáo kết quả phải
bao gồm tất cả các mục được liệt kê trong điều 11.
PHỤ LỤC F
(Quy định)
TÍNH TOÁN KẾT QUẢ
F.1 Khái quát
Các kết quả được tính
toán theo các bước qui định dưới đây. Các kết quả có thể được tính toán thuận
lợi hơn khi sử dụng một chương trình máy tính.
F.2 Kiểm tra sự phân bố
đồng nhất của các phần tử sợi trên các ô kính hiển vi điện tử truyền dẫn (TEM)
Sự kiểm tra phải được
tiến hành khi dùng phép thử sai số bình phương trung bình để xác định liệu các
phần tử amiăng tìm thấy trên các ô lưới có được phân bố đồng nhất và ngẫu nhiên
hay không. Nếu tổng số các phần tử tìm thấy trong k ô lưới là n, các diện tích
của k ô lưới riêng là A1 đến Ak thì tổng diện tích của
tiêu bản TEM được khảo sát là
Một phần của tổng diện
tích được khảo sát là đại diện cho diện tích của một ô riêng ký hiệu pi = Ai/A. Nếu các phần tử
được phân tán ngẫu nhiên và đồng đều trên k ô lưới được khảo sát thì số các
phần tử dự tính rơi vào trong một ô lưới với diện tích Ai là npi.
Nếu số phần tử quan sát được tìm thấy trên ô đó là ni, có công thức
sau
Giá trị này phải được so
sánh với các điểm có ý nghĩa của sự phân bố sai số bình phương, có (k - 1) bậc
tự do. Các mức có nghĩa thấp hơn 0,1% có thể làm cho phép phân tích mẫu bị loại
bỏ. Vì điều này ứng với sự lắng không đồng nhất. Nếu đếm các phần tử mà không
làm kiểm tra này thì độ chính xác của kết quả sẽ không chắc chắn, và nếu các
mẫu không khí mới không thể lấy được thì có thể khảo sát thêm các ô lưới khác
hoặc là mẫu có thể được chuẩn bị bằng phương pháp gián tiếp.
F.3 Tính toán độ nhạy
phân tích
Tính độ nhạy phân tích
cần thiết S, biểu diễn bằng số phần tử trên lít, sử dụng phương trình sau
trong đó
Af là diện
tích của giấy lọc thu mẫu, đơn vị là mm2;
Ag là diện
tích của ô lưới tiêu bản TEM, đơn vị mm2;
k là số ô lưới được khảo
sát;
V là thể tích của không
khí đã lấy, đơn vị lít.
F.4 Tính toán trị số
trung bình và khoảng tin cậy của nồng độ phần tử
Khi đếm phần tử được tiến
hành theo tiêu chuẩn này, chỉ một số ô lưới trong tập hợp các ô lưới được khảo
sát, và cần phải xác định trị số trung bình các phần tử trên ô lưới cho cả tập
hợp dựa trên cơ sở đếm một số ít này. Khoảng trung bình của mẫu với 95% độ tin
cậy cũng cần phải chứa số trung bình của tập hợp.
F.4.1 Tính toán nồng độ
trung bình các phần tử
Tính nồng độ trung các
phần tử C, biểu diễn bằng số phần tử trên lít, sử dụng phương trình sau
C = Sn
trong đó
S là độ nhạy phân tích,
biểu diễn bằng số phần tử/lít,
n là tổng số các phần tử
tìm thấy trên tất cả các ô lưới được khảo sát
F.4.2 Tính toán khoảng
tin cậy
Sự phân bố của các phần
tử trên các ô lưới theo lý thuyết xấp xỉ tới sự phân bố Poisson. Bởi vì sự tập
hợp các sợi và ảnh hưởng nhận dạng phụ thuộc vào kích thước, nên các dữ liệu
đếm phần tử thực tế thường không tuân theo sự phân bố Poisson, đặc biệt các số
phần tử nhiễu. Giả thiết rằng các dữ liệu đếm phần tử được phân bố theo sự phân
bố Poisson do đó có thể dẫn đến các khoảng tin cậy hẹp hơn là được lý giải bằng
dữ liệu. Hơn nữa, nếu sau sự phân bố Poisson được thừa nhận, thì phương sai chỉ
có liên quan tới tổng số các phần tử được đếm. Do vậy, sự đếm phần tử riêng
diễn ra trên một ô lưới được coi là có cùng khoảng tin cậy giống như khoảng tin
cậy cho cùng số phần tử tìm thấy trên nhiều ô lưới. Tuy nhiên, diện tích của
mẫu được đếm thực tế rất nhỏ so với tổng diện tích của giấy lọc và vì lí do này
các phần tử phải được đếm ít nhất là trên bốn ô lưới lấy từ các diện tích khác
nhau của giấy lọc để đảm bảo rằng một sự đánh giá đại diện của sự lắng đọng đã
được tiến hành.
Lúc số phần tử nhiều thì
có đủ số phần tử trên một ô lưới cho phép đánh giá phương sai của mẫu thử, sự
phân bố có thể là gần với phân bố Gauss có các giá trị độc lập với giá trị
trung bình và phương sai.
Khi sự đánh giá phương
sai của mẫu thử lớn hơn theo giả thiết là phân bố Poisson thì dùng phép thống
kê Gauss có phương sai xác định bằng các dữ liệu thực tế là phương pháp phù hợp
nhất để tính các khoảng tin cậy.
Lúc số phần tử ít thì
không thể đánh giá phương sai của mẫu thử tin cậy được, và sự phân bố cũng trở
thành không đối xứng nhưng không phải là phân bố Poisson. Với 30 phần tử và
thấp hơn thì sự phân bố trở nên không đối xứng để phù hợp với sự phân bố Gauss
và sự đánh giá phương sai của mẫu thử là không đáng tin cậy. Vì thế nếu đếm
được dưới 31 phần tử thì phải coi là phân bố Poisson để tính các khoảng tin
cậy.
F.4.3 Thí dụ về sự tính
toán các khoảng tin cậy với xác xuất 95% theo phân bố Poisson
Với tổng số đếm phần tử
nhỏ hơn 4, giới hạn tin cậy dưới với xác xuất 95% tương ứng với nhỏ hơn một
phần tử. Do vậy, không có ý nghĩa khi nói đến các điểm của khoảng tin cậy dưới
cho sự đếm các phần tử nhỏ hơn bốn, và kết quả phải được ghi lại là "nhỏ
hơn" giới hạn tin cậy trên ứng với một phía với xác suất 95% theo phân bố
Poisson như sau:
0 phần tử 2,99 lần độ nhạy phân tích;
1 phần tử 4,74 lần độ nhạy phân tích;
2 phần tử 6,30 lần độ nhạy phân tích;
3 phần tử 7,75 lần độ nhạy phân tích.
Đối với tổng số đếm lớn
hơn bốn, khoảng tin cậy 95% phải được tính toán khi dùng các giá trị được đưa
ra trong bảng F.1. Bảng F.1 đưa ra giới hạn trên và dưới của khoảng tin cậy với
xác suất 95% theo phân bố Poisson hai phía.
F.4.4 Thí dụ về sự tính
toán các khoảng tin cậy với xác xuất 95% theo phân bố Gauss
Tính toán sự đánh giá
phương sai so sánh của mẫu thử khi dùng phương trình sau:
trong đó:
ni là số
phần tử trên ô lưới thứ i;
n là tổng số phần tử tìm
trên k ô lưới;
pi là một phần
tử của tổng diện tích được khảo sát mà đại diện là ô lưới thứ i;
k là số ô lưới được khảo
sát.
Nếu giá trị trung bình
của phần tử được tính là n, thì các giá trị trên và dưới của khoảng tin cậy với
xác suất 95% theo phân bố Gauss được cho là:
trong đó
Lu là giới hạn
tin cậy trên với xác suất 95%;
Li là giới hạn
tin cậy dưới với xác suất 95%;
n là tổng số phần tử trong
tất cả các ô lưới được khảo sát;
t là giá trị của phép thử
Student (xác suất 0,975 với k - 1 bậc tự do);
s là độ lệch chuẩn (căn
bậc hai của phương sai);
k là số ô lưới được khảo
sát.
F.4.5 Tóm tắt qui trình
tính toán các kết quả
Trong bảng tóm tắt, các
dữ liệu đếm phần tử phải được tính như sau:
Không có phần tử nào được
phát hiện
Nồng độ phần tử phải được
thông báo là nhỏ hơn nồng độ tương đương của giới hạn tin cậy trên một phía với
xác suất 95% theo sự phân bố Poisson. Nồng độ này bằng 2,9 lần độ nhạy phân
tích.
Từ một tới ba phần tử
Khi một đến ba phần tử
được đếm, thì kết quả phải được thông báo là nhỏ hơn nồng độ tương ứng với cận
tin cậy trên một phía với xác suất 95% theo sự phân bố Poisson. Đó là:
1 phần tử 4,74 lần độ nhạy phân tích
2 phần tử 6,30 lần độ nhạy phân tích
3 phần tử 7,75 lần độ nhạy phân tích
Từ bốn đến 30 phần tử
Nồng độ phần tử trung
bình và các khoảng tin cậy 95% phải được thông báo trên cơ sở cho là phân bố
Poisson, sử dụng các giá trị đưa ra trong bảng F.1.
Nhiều hơn 30 phần tử
Khi nhiều hơn 30 phần tử
đếm được, cả hai khoảng tin cậy 95% Gauss và Poisson đều phải được tính toán.
Độ rộng của hai khoảng tin cậy này phải được sử dụng để biểu diễn độ chính xác
của nồng độ phần tử. Khi khoảng tin cậy Gauss 95% được chọn để thông báo dữ
liệu, thì khoảng tin cậy 95% Poisson cũng phải được đề cập đến.
F.5 Tính độ dài, rộng của
phần tử và sự phân bố tỉ số hình dạng
Mọi sự phân bố đều gần
với chuẩn logarit, và do đó các quãng thời gian gặp lại một loại kích cỡ để
tính sự phân bố phải được đặt vào thang logarit. Các đặc trưng khác được yêu
cầu để chọn các quãng thời gian gặp lại một loại kích cỡ là chúng phải cho đủ
số các loại kích cỡ, trong khi vẫn giữ được số phần tử có giá trị thoả mãn
trong mỗi loại. Sự giải thích cũng dễ dàng nếu mỗi loại kích cỡ lặp lại 10 lần,
và nếu 5 mm là giới hạn của mỗi
loại kích cỡ. Tỉ số lớp này so với lớp tiếp là 1,268 là thoả mãn tất cả những
yêu cầu này và giá trị này phải được sử dụng. Những phân bố gần với chuẩn
logarit khi biểu diễn bằng sơ đồ đều phải vẽ bằng cách dùng thang logarit làm
trục tung và trục hoành là theo Gauss.
F.5.1 Tính sự phân bố số
tích luỹ chiều dài của phần tử
Sự phân bố này cho phép
một phần của toàn bộ số phần tử ngắn hoặc dài hơn một độ dài đã cho được xác
định. Nó được tính bằng dùng phương trình sau:
trong đó
C(P)k là phần
trăm số tích luỹ của các phần tử có chiều dài nhỏ hơn giới hạn trên của lớp thứ
k;
ni là số phần
tử trong lớp có chiều dài thứ i;
p là tổng số các lớp
chiều dài.
F.5.2 Tính sự phân bố
tích luỹ chiều rộng của phần tử
Sự phân bố này cho phép
một phần của tổng số phần tử hẹp hoặc rộng hơn một bề rộng đã cho được xác
định. Nó được tính theo cách tương tự đã dùng trong F.5.1, nhưng sử dụng các bề
rộng của phần tử.
F.5.3 Tính sự phân bố số
tích luỹ dùng tỉ số hình dạng của phần tử
Sự phân bố này cho phép
một phần của tổng số phần tử có các tỉ số hình dạng nhỏ hơn hoặc lớn hơn một tỉ
số hình dạng đã cho được xác định. Nó được tính theo cách tương tự như đã dùng
trong F.5.1 nhưng sử dụng các tỉ số hình dạng của phần tử.
Bảng F.1 - Các giới hạn dưới và trên của khoảng tin cậy của phép đếm với
xác xuất 95% theo phân bố Poisson
Số đếm phần tử
|
Giới hạn dưới
|
Giới hạn trên
|
Số đếm phần tử
|
Giới hạn dưới
|
Giới hạn trên
|
Số đếm phần tử
|
Giới hạn dưới
|
Giới hạn trên
|
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
|
0
0,025
0,242
0,619
1,090
1,624
2,202
2,814
3,454
4,115
4,795
5,491
6,201
6,922
7,654
8,396
9,146
9,904
10,668
11,440
12,217
13,00
13,788
14,581
15,378
16,178
16,983
17,793
18,606
19,422
20,241
21,063
21,888
22,715
23,545
24,378
25,213
26,050
26,890
27,732
28,575
29,421
30,269
31,119
31,970
32,823
|
3,6891)
5,572
7,225
8,767
10,242
11,669
13,060
14,423
15,764
17,085
18,391
19,683
20,962
22,231
23,490
24,741
25,983
27,219
28,448
29,671
30889
32,101
33,309
34,512
35,711
36,905
38,097
39,284
40,468
41,649
42,827
44,002
45,175
46,345
47,512
48,677
49,840
51,000
52,158
53,315
54,469
55,622
56,772
57,921
59,068
60,214
|
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
|
33,678
34,534
35,392
36,251
37,112
37,973
38,837
39,701
40,567
41,433
42,301
43,171
44,041
44,912
45,785
46,658
47,533
48,409
49,286
50,164
51,042
51,922
52,803
53,685
54,567
55,451
56,335
57,220
58,106
58,993
59,880
60,768
61,657
62,547
63,437
64,3238
65,219
66,111
67,003
67,897
68,790
69,684
70,579
71,474
72,370
73,267
|
61,358
62,501
63,642
64,781
65,919
67,056
68,192
69,326
70,459
71,591
72,721
73,851
74,979
76,106
77,232
78,357
79,482
80,605
81,727
82,848
83,969
85,088
86,207
87,324
88,441
89,557
90,673
91,787
92,901
94,014
95,126
96,237
97,348
98,458
99,567
100,68
101,79
102,90
104,00
105,11
106,21
107,32
108,42
109,53
110,63
111,73
|
92
93
94
95
96
97
98
99
100
110
120
130
140
150
160
170
180
190
200
210
220
230
240
250
260
270
280
290
300
310
320
330
340
350
360
370
380
390
400
410
420
430
440
450
460
470
|
74,164
75,061
75,959
76,858
77,757
78,657
79,557
80,458
81,360
90,400
99,490
108,61
117,77
126,96
136,17
145,41
154,66
163,94
173,24
182,56
191,89
201,24
210,60
219,97
229,36
238,75
248,16
257,58
267,01
276,45
285,90
295,36
304,82
314,29
323,77
333,26
342,75
352,25
361,76
371,27
380,79
390,32
390,85
400,38
418,92
428,47
|
112,83
113,94
115,04
116,14
117,24
118,34
119,44
120,53
121,66
132,61
143,52
154,39
165,23
176,04
186,83
197,59
208,33
219,05
229,75
240,43
251,10
261,75
272,39
283,01
293,62
304,23
314,82
325,39
335,96
346,52
357,08
367,62
378,15
388,68
399,20
409,71
420,22
430,72
441,21
451,69
462,18
472,65
483,12
493,58
504,04
514,50
|
1) Giới hạn tin cậy trên một phía với xác suất 95% đối với 0 phần tử là
2,99.
|
PHỤ LỤC G
(Tham khảo)
CÁC CHƯƠNG TRÌNH LẤY MẪU KHÔNG KHÍ
G.1 Khái quát
Một phần quan trọng của
chương trình lấy mẫu là chỉ ra được mục đích của chương trình lấy mẫu. Một số
lượng đầy đủ các mẫu cần được thu thập sao cho vị trí thật đặc trưng cho độ
chính xác và độ đúng mong muốn và cũng đảm bảo rằng các giấy lọc mẫu được tải
thích hợp đối với phép phân tích TEM có được từ tất cả các vị trí lấy mẫu.
G.2 Thu thập mẫu không
khí ở môi trường bên ngoài
Các điều kiện thời tiết
hạn chế khả năng thu các mẫu không khí thích hợp ở môi trường ngoài và bất cứ
khi nào có thể, việc lấy mẫu nên thực hiện ở điều kiện gió yếu và độ ẩm thấp.
Ghi lại chi tiết điều kiện gió yếu và độ ẩm thấp. Ghi lại chi tiết điều kiện
thời tiết, tốc độ gió và hướng gió trong thời gian lấy mẫu. Tất cả những thông
tin sẵn có liên quan đến địa hình khu vực, các loại và vị trí các nguồn cần
được ghi lại.
Lấy mẫu nhiều điểm tuần
tự là cần thiết để đưa ra đặc tính đầy đủ của các vị trí phức tạp và các nguồn.
Khuyến nghị là các mẫu phức tạp được lấy ở vị trí ngược gió và xuôi gió, có ít
nhất là 2 mẫu xuôi chiều gió và dự tính theo kinh nghiệm có nồng độ trong không
khí là tối đa. Phải ghi lại cẩn thận các vị trí lấy mẫu.
G.3 Thu thập mẫu không
khí trong nhà
Các mẫu không khí thường
được thu thập bên trong các toà nhà nơi có các vật liệu xây dựng có chứa amiăng
để xác định liệu các vật liệu này có góp phần vào nồng độ sợi amiăng trong
không khí trong nhà hay không? Các vị trí tối ưu để thu thập các mẫu không khí
chỉ có thể được xác định sau khi khảo sát đầy đủ công trình để xây dựng các mô
hình khí động. Các mẫu phức tạp cần phải được thu thập ở khu vực có các vật
liệu xây dựng amiăng và các mẫu kiểm chứng phải lấy ở khu vực kề sát nơi mà hy
vọng không có sợi amiăng trong không khí. Các đường không khí vào của các hệ
thống điều hoà không khí thường được sử dụng làm vị trí lấy mẫu cho các mẫu
kiểm chứng. Bất cứ lúc nào có thể, các mẫu tĩnh nên lấy một thời gian hơn bốn
giờ trong điều kiện hoạt động bình thường ở trong nhà, với tốc độ bề mặt khoảng
từ 4 cm/s đến 25 cm/s.
PHỤ LỤC H
(Tham khảo)
CÁC PHƯƠNG PHÁP LOẠI BỎ CÁC SỢI
THẠCH CAO
Các sợi thạch cao thường
được tìm thấy trong các hạt bụi không khí thu thập được ở trong nhà và môi
trường đô thị, và đặc biệt là trong các mẫu thu thập nơi mà công việc phá huỷ
hoặc xây dựng đang diễn ra. Các sợi được giải phóng dễ dàng khi các sản phẩm xi
măng và vữa trát tường bị phá vỡ. Trong một số trường hợp, các hạt canxit hoặc
dolomit thu thập được trên một giấy lọc không khí có thể phản ứng với SO2
trong không khí tạo nên các sợi thạch cao dài. Các sợi thạch cao có thể làm
tăng số đếm sợi cao lên khi đếm bằng cả kính hiển vi quang học và điện tử. Các
sợi thạch cao thường dài từ 2 mm - 6 mm với các tỉ số hình dạng lớn hơn 10/1. Đôi khi các sợi này
xuất hiện giống các sợi amiăng amphibol và trong một vài mẫu chúng có thể có
hình dạng rất giống chrysotil. ở TEM các sợi lớn hơn có độ tương phản cao và ở
độ phóng đại cao thường thể hiện hình dạng vân đốm đặc thù thay đổi lúc chiếu
chùm điện tử. Một số sợi thạch cao tuy nhiên không dễ dàng phân biệt với amiăng
mà không cần có sự kiểm tra bằng EDXA. Các tiêu bản TEM chứa nhiều sợi thạch
cao như vậy đòi hỏi tăng thêm thời gian kiểm tra trong TEM bởi vì cần thiết
kiểm tra mỗi một sợi này bằng EDXA trước khi nó bị bỏ đi.
Có thể loại bỏ các sợi
thạch cao một cách có lựa nhờ sự chiết bằng nước. Một đĩa rửa Jaffe (7.3.7)
hoặc máy ngưng tụ (7.3.5) cần được chuẩn bị, nhưng sử dụng nước (6.1) làm dung
môi. Các tiêu bản TEM được chuẩn bị trước đó và kiểm tra ban đầu trong TEM phải
được đặt trong đĩa rửa cho phép hoà tan các sợi. Nếu sử dụng đĩa rửa Jaffe,
thời gian xử lý có thể giảm xuống bằng cách đun nóng đĩa rửa tới 90 - 1000C
trong vài phút. Nếu sử dụng máy rửa ngưng tụ, các sợi thạch cao sẽ bị hoà tan
bằng cách xử lý trong 10 phút. Hiệu quả của phép xử lý này là loại bỏ các sợi
thạch cao, để lại các phiên bản cacbon (7.3.11) được phân biệt dễ dàng với các
sợi amiăng.
Chú thích 20 - Qui trình
này cần được sử dụng chỉ khi sự kiểm tra các lưới tiêu bản TEM chưa xử lý cho
thấy là các sợi thạch cao là cách biệt với các sợi amiăng có mặt. Có thể xảy ra
việc mất các sợi amiăng do qui trình này nếu các mạng thạch cao và amiăng bị
tiếp xúc với nhau.
PHỤ LỤC J
(Tham khảo)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Hiệp hội quốc tế
amiăng (1979): Phương pháp tham khảo dùng để xác định nồng độ sợi amiăng ở nơi
làm việc bằng kính hiển vi trường sáng (phương pháp lọc màng) AIA. Sách an toàn
và sức khoẻ, phương pháp phân tích khuyến nghị số 1 (RTM1) hiệp hội quốc tế
amiăng 68 cung điện Gloucester London, W1H 3HL, Anh.
[2] Bradley D.E (1961):
Các kỹ thuật mẫu và các kỹ thuật tương tự trong các kỹ thuật cho kích kính hiển
vi điện tử. Tài liệu khoa học Blackwell, Alden, Oxford D.H. Kay (Ed), trang 96
- 152
[3] Burdett, G.J và Rood,
A.P (1982): Giấy lọc màng, kỹ thuật chuyển trực tiếp cho phép phân tích các sợi
amiăng hoặc các hạt bằng kính hiển vi điện tử truyền dẫn, Khoa học, Công nghệ,
Môi trường 17, trang 643 - 648.
[4] Campbell W.J, Blake,
R.L, Brown, L.L, Cather, E.E và Sjoberg, J.J (1977): Chọn lựa các khoáng chất
silicate và các biến đổi dạng amiăng của chúng. Các định nghĩa khoáng chất học
và các đặc tính nhận dạng. Bản thông báo thông tin 8751.
[5] Chatfild, E.J (1986):
Các đo đạc amiăng nơi làm việc và môi trường xung quanh trong: kính hiển vi
điện tử về sức khoẻ môi trường và nghề nghiệp (S. Basu và J.R.Milette Eds)
phiên họp toàn thể New york trang 149 - 186
[6] Chatfield, E.J (nhà
xuất bản) 1987: Đo đạc sợi amiăng trong môi trường kiến trúc. Tổ chức nghiên
cứu Ontario. Hội đồng nghiên cứu Sheridanpharll Mississauga ontario canada L5K,
1B3.
[7] Chatfield, E.J và
Lewis, G.M (1980): Phát triển và áp dụng của kỹ thuật phân tích cho đo đạc các
sợi amiăng trong khoáng mica trong kính hiển vi điện tử quét/1980/l, (O.Johari,
ED) SEM Inc.
[8] Cliff, G và Lorimer,
G.W (1975): Phân tích số lượng các tiêu bản mỏng tạp chí của kính hiển vi 103
trang 103 - 107
[9] Deer, W.A., Howie,
R.A. và Zussmar (1963): Các khoáng chất hình thành từ đá Longmans London
[10] Đăng ký Liên bang
(1987): Các chất liệu chứa amiăng trong các trường học Ban Bảo vệ môi trường
tập 42 số 210, 30 tháng 10 năm 1987 trang 41826 - 41905
[11] Gard, J.A. (chủ bút)
(1971): Điều tra quang điện tử về đất sét. 41 Queen Gate London S.W.7.
[12] Gaze, R. (1965): Cấu
trúc vật lý và phân tử của amiăng biên niên sử của Viện hàn lâm khoa học New
York 132 trang 23 - 30.
[13] Hawthorne F.C
(1983): Học học tinh thể của amphibole, nhà khoáng vật Canada tập 21 phần 2
trang 173 - 480
[14] Hirsch P.D. Howie,
A, Nicholson, R.B, Pashley, D.W. và Whelan, M.J (1965): Các tinh thể mảnh trên
kính hiển vi điện tử. Butterworths, London, trang 18 - 23.
[15] Hollahan, J.R. và
Bell, A.T (chủ bút) (1974): Các kỹ thuật và áp dụng của hoá học plasma
[16] Trung tâm quốc tế về
số liệu nhiễu xạ (1978): Tài liệu nhiễu xạ bột. Trung tâm quốc tế về số liệu
nhiễu xạ 1606 công viên Lane, Swarthmore, Pennsylvania 19081, Mỹ.
[17] Hiệp hội khoáng học
quốc tế (1978): Thuật ngữ của amphibole (biên soạn bởi B.E. LeakE, nhà khoáng
vật học Canada tập 60 trang 501
[18] Tổ chức tiêu chuẩn
quốc tế (1993): ISO 8672: 1993 chất lượng không khí xác định nồng độ số lượng
sợi vô cơ lơ lửng bằng kính hiển vi quang học tương phản pha - phương pháp lọc
màng
[19] Jafe M.S. (1948): Xử
lý và rửa các tấm dưỡng dễ vỡ. J. áp dụng vật lý, 19, trang 1187.
[20] Joy, D.C, Romig, Jr.
và golsstein, J.l (chủ bút) các nguyên tắc của kính hiển vi điện tử phân tích.
Phiên họp toàn thể, New York và London.
[21] Ledoux, BL (chủ bút)
(1979): Khoá học ngắn hạn về các kỹ thuật khoáng chất học của sự xác định
amiăng. Hiệp hội Khoáng chất học Canada. Khoa khoáng chất học bảo tàng Ortario
hoàng gia. 100 Queen's.
[22] Levadie, B. (chủ
bút) (1984): Các định nghĩa về amiăng các các silicate liên quan đến sức khoẻ
khác. Tài liệu kỹ thuật đặc biệt ASTM 834 xã hội học Mĩ về thí nghiệm và các
vật chất 1916 phố Race, Philadenphia, Pennylvania 19103 Mĩ.
[23] Michael, J.R và
Williams, D.B (1987): Định nghĩa thích hợp về thăm dò kích thước và giải pháp
không gian trong kính hiển vi điện tử phân tích. J.Mic, 147 trang 189 - 303
[24] Michaels L và
Chissick, S.S (chủ bút) 1979: Amiăng Các đặc tính, các áp dụng và các tác hại
tập 1 Wiley, New York
[25] ấn phẩm đặc biệt về
các tiêu chuẩn của cục quốc gia 506 (1978): Hội thảo về amiăng các định nghĩa
và các phương pháp phân tích U.S văn phòng in ấn chính phủ Washington D.C 2040L
[26] ấn phẩm đặc biệt về
các tiêu chuẩn của cục quốc gia 619 (1982): Các tiêu chuẩn amiăng Vật liệu và
các phương pháp phân tích U.S văn phòng in ấn chính phủ Washington D.C 20402
[27] Viện quốc gia về an
toàn và sức khoẻ nghề nghiệp (1989): NIOSH phương pháp 7400 bản hiệu đính số 3
15/5/89 Cục dịch vụ con người và sức khoẻ. Dịch vụ sức khoẻ công cộng Trung tâm
kiểm soát bệnh NIOSH 4676 Park way colombia Ohio 45226 Mĩ.
[28] Việc quốc gia về an
toàn và sức khoẻ nghề nghiệp 1989 phưưong pháp 7402 NIOSH bản hiệu đính 1
15/5/89 Cục dịch vụ con người và sức khoẻ. Dịch vụ sức khoẻ công cộng Trung tâm
kiểm soát bệnh NIOSH 4676 Park way colombia Ohio 45226 Mĩ.
[29] Natrella, M.G
(1966): Các thống kê thực nghiệm cục quốc gia về cẩm nang các tiêu chuẩn 1991
Mĩ văn phòng in ấn chính phủ Washington D.C 20402
[30] ORI12, L.W, và ISOM,
B.L 1974 kỹ thuật chuyển cho mẫu giấy lọc màng của kính hiển vi điện tử. Báo
cáo thường kỳ hiệp hội các nhà vệ sinh công nghiệp phương pháp Mĩ 35,7, trang
423 - 425.
[31] Pearson E.S và
Hartel, H.Q (1958): Bảng sinh trắc học cho các nhà thống kê tập 1 sách báo của
đại học Cambridge 32 East 57th New York N.Y.22 Mĩ
[32] Rhoades B.L (1976):
Kỹ thuật máy tính Xident - A cho chỉ số trực tiếp của hình nốt nhiễu xạ điện tử
báo cáo nghiên cứu 70/76. Khoa máy cơ học Đại học Cantenbury christchurch
Newzealeand
[33] Ring, S.T (1980):
Nhận dạng các sợi amphibole bao gồm amiăng, sử dụng hình nhiễu xạ điện tử thông
thường trong các áp dụng tia X và kính hiển vi điện tử cho phép phân tích sức
khoẻ nghề nghiệp và môi trường (Ed, P.A Rusell) tập II, Ann Arbor Press, Ann
Arbor Chichigan 48106 Mĩ
[34]
[35] Small, J.A,
Heinrich, K.F.J, Newbury, D.E và Mykebust, R.L (1979): Tiến trình phát triển
của phương pháp pic - nền cho phép phân tích số lượng các hạt đơn với đầu dò
điện tử, kính hiển vi điện tử quét/1979/II, (O.Johari, Ed.) SEM Inc, AMF
O'Hare, Chicago, llliKhôngis 60666 Mĩ
[36] Smith, J.E và
Jordan, M.L (1964): Giải thích đồ thị và toán học của ..... cho phép phân tích
sự phân tán kích thước hạt J. Colloid Science, 19, trang 549 - 559.
[38] Spunrny, K.R,
Stober, H., Opelia, H. và Weiss, G. (1979): Trên cơ sở đánh giá các hạt hay sợi
trong môi trường xung quanh xa cách. Khoa học về môi trường toàn bộ/1979/II
trang 1 - 40.
[39] Spurny, E.B., và
Small J.A (1985): Độ đúng của kính hiển vi điện tử truyền dẫn cho phép phân
tích amiăng ở các môi trường xung quanh. Hoá phân tích 57 trang 209 - 213.
[41] Steel, E.B và Wylie,
A (1981): Các đặc tính khoáng chất lọc của amiăng trong địa chất học của lắng
amiăng (P.H. Riorden, bd) SME - AME, trang 93 - 101.
[42] Wenk, H.R (chủ bút)
(1976): Kính hiển vi điện tử khoáng chất học Sprringer - Vergla, New York
[43] Yada, K. (1967):
Nghiên cứu amiăng chrysotile bằng kính hiển vi điện tử độ phân giải cao. Đồ thị
tinh thể học amiăng, 23, trang 704 - 707
[44] Zussman, J (1979):
Khoáng chất học amiăng trong amiăng, các đặc tính, các áp dụng và các tác hại
John Wiley và Sons, trang 45 - 67.