ỦY BAN NHÂN
DÂN
TỈNH QUẢNG NAM
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
08/2009/QĐ-UBND
|
Tam Kỳ, ngày
21 tháng 4 năm 2009
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH ĐỀ ÁN “QUẢN LÝ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN NƯỚC LỢ
THEO HƯỚNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TẠI QUẢNG NAM ĐẾN NĂM 2015”
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM
Căn cứ Luật Tổ chức HĐND
và UBND ngày 26/11/2003;
Căn cứ Quyết định số
224/1999/QĐ-TTg ngày 08/12/1999 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình
NTTS đến năm 2010;
Căn cứ Quyết định số
126/2005/QĐ-TTg ngày 01/06/2005 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách
khuyến khích phát triển nuôi trồng thuỷ hải sản trên biển và hải đảo;
Căn cứ Quyết định số
10/2006/QĐ-TTg ngày 11/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy hoạch tổng
thể phát triển ngành thuỷ sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”;
Căn cứ Quyết định số
2855/QĐ-UBND ngày 12/09/2007 của UBND tỉnh Quảng Nam phê duyệt “Điều chỉnh Quy
hoạch tổng thể phát triển ngành thuỷ sản tỉnh Quảng Nam đến năm 2015 và định hướng
đến năm 2020”;
Căn cứ Căn cứ Nghị quyết
82/2007/NQ-HĐND ngày 25/4/2007 của Hội đồng nhân dân tỉnh về tiếp tục phát triển
kinh tế thủy sản Quảng Nam giai đoạn 2007-2010;
Xét đề nghị của Sở Nông
nghiệp &PTNT tại tờ tình số: 109/TTr-NN&PTNT ngày 24 tháng 3 năm 2009,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Nay
ban hành kèm theo Quyết định này Đề án “Quản lý nuôi trồng thủy sản nước lợ
theo hướng dựa vào cộng đồng tại Quảng Nam đến năm 2015”.
Điều 2. Chánh
Văn phòng UBND tỉnh, Giám đốc các Sở Nông nghiệp &PTNT, Tài chính, Kế hoạch
và Đầu tư, Chủ tịch UBND các huyện, thành phố Núi Thành, Tam Kỳ, Thăng Bình,
Duy Xuyên, Điện Bàn, Hội An căn cứ quyết định thi hành.
Quyết định này có hiệu lực
sau 15 ngày kể từ ngày ký./.
|
TM. ỦY BAN
NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Nguyễn Ngọc Quang
|
ĐỀ ÁN
QUẢN LÝ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN NƯỚC LỢ THEO HƯỚNG DỰA
VÀO CỘNG ĐỒNG TẠI QUẢNG NAM ĐẾN NĂM 2015
(Ban hành kèm theo Quyết định số 08/2009/QĐ-UBND ngày 21 / 4 /2009 của UBND
tỉnh Quảng Nam)
SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG
ĐỀ ÁN
Nuôi thủy sản nước lợ tại Quảng
Nam tập trung ở 6 huyện, thành phố ven biển, dọc theo các sông chính: Trường
Giang, Thu Bồn và Tam Kỳ. Diện tích nuôi thủy sản nước lợ năm 2005 trên toàn tỉnh
khoảng 2.500 ha, trong đó nuôi tôm sú chiếm trên 95% diện tích, còn lại là nuôi
các đối tượng khác. Đến năm 2007, diện tích nuôi thủy sản nước lợ còn 2.400 ha
và đến năm 2008, diện tích giảm xuống chỉ còn khoảng 2.000 ha. Một trong những
nguyên nhân làm giảm diện tích nuôi thủy sản nước lợ là do môi trường nuôi tôm
sú bị thoái hoá, xuống cấp nên một số nông hộ không đầu tư nuôi tiếp; mặt khác,
một số ao nuôi bị ảnh hưởng do qui hoạch của các ngành kinh tế khác nên đã làm
giảm diện tích nuôi thủy sản nước lợ.
Tuy nhiên, từ năm 2007,
2008; những hộ có điều kiện về kinh tế đã chuyển sang nuôi tôm thẻ chân trắng
và đã đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt, từ 200 ha nuôi năm 2006, đến năm 2008 diện
tích nuôi tôm thẻ chân trắng là 880 ha, tổng sản lượng NTTS nước lợ đạt 8.500 tấn,
đạt 243% kế hoạch năm và doanh thu khoảng 397 tỷ đồng.
Tổng số hộ tham gia vào nuôi
tôm nước lợ hiện có khoảng 6.700 hộ với diện tích ao nuôi trung bình từ 3.000 -
4.000 m2/hộ. Những năm qua, nghề nuôi tôm nước lợ đã góp phần không
nhỏ vào việc giải quyết công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập
cho cư dân ven sông, ven biển và có rất nhiều hộ giàu lên từ nghề nuôi thủy sản
nước lợ, bộ mặt nông thôn ven biển ngày càng có sự thay đổi rõ rệt.
Song, quá trình phát triển
nuôi tôm phần nhiều có tính tự phát, vấn đề lấy và xả nước trong thời gian nuôi
phần nhiều là mạnh ai nấy làm, việc tranh chấp giữa các nông hộ trong quá trình
sản xuất còn xảy ra. Khi ao có tôm nuôi bị dịch bệnh, những nông hộ thường tự ý
thải nước ra môi trường bên ngoài mà chưa được xử lý, ...do đó, nguy cơ lây lan
dịch bệnh rất dễ xảy ra đối với tôm nuôi.
Một thực tế hiện nay là những
người nuôi tôm của tỉnh Quảng Nam đang gặp nhiều thách thức, đó là:
- Giá trị con tôm sú ngày
càng giảm;
- Giá sản phẩm đầu vào tăng
cao;
- Chất lượng nguồn nước
trong các ao nuôi ngày càng khó kiểm soát;
- Bệnh đối với tôm nuôi thường
xuyên xuất hiện;
- Thị trường tiêu thụ yêu cầu
tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm ngày càng nghiêm ngặt hơn.
Những thách thức trên ảnh hưởng
rất lớn đến những người nuôi qui mô nhỏ vì họ thường hạn chế về kỹ thuật nuôi
và các nguồn lực (tiền, đất đai, thông tin, cơ sở hạ tầng ao nuôi chưa đáp ứng
yêu cầu kỹ thuật…), đặc biệt là giá bán sản phẩm thường thấp hơn đối những người
nuôi với quy mô lớn. Do vậy, để giải quyết các khó khăn này đối với người nuôi
tôm thì họ phải làm việc, tổ chức sản xuất theo quản lý dựa vào cộng đồng để
nâng cao sức mạnh trong việc mua và bán sản phẩm, quản lý môi trường ao nuôi,
vùng nuôi tốt hơn, giảm rủi ro và đảm bảo an toàn sản phẩm. Do vậy, xây dựng đề
án nuôi thủy sản nước lợ theo hướng quản lý dựa vào cộng đồng là vô cùng cần
thiết, phù hợp với yêu cầu đổi mới và hội nhập.
PHẦN
I:
CƠ SỞ ĐỂ XÂY DỰNG
ĐỀ ÁN
1. Cơ
sở pháp lý:
- Nghị quyết 09/2000/NQ-CP
ngày 15/06/2000 của Chính phủ về chuyển đổi cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm
nông nghiệp.
- Quyết định số
224/1999/QĐ-TTg ngày 08/12/1999 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình
NTTS đến năm 2010.
- Quyết định số
112/2004/QĐ-TTg ngày 23/06/2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình phát
triển giống thuỷ sản.
- Quyết định số
150/2005/QĐ-TTg ngày 20/06/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy
hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản cả nước đến năm
2010 và tầm nhìn 2020.
- Quyết định số
126/2005/QĐ-TTg ngày 01/06/2005 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách
khuyến khích phát triển nuôi trồng thuỷ hải sản trên biển và hải đảo.
- Quyết định số
10/2006/QĐ-TTg ngày 11/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy hoạch tổng
thể phát triển ngành thuỷ sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”.
- Nghị định số 56/2005/NĐ-CP
ngày 26/04/2005 của Chính phủ về khuyến nông, khuyến ngư.
- Quyết định số 2855/QĐ-UBND
ngày 12/09/2007 của UBND tỉnh Quảng Nam phê duyệt “Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể
phát triển ngành thuỷ sản tỉnh Quảng Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm
2020”.
- Nghị quyết số
82/2007/NQ-HĐND ngày 25/04/2007 của Hội đồng nhân dân tỉnh về tiếp tục phát triển
kinh tế thủy sản Quảng Nam giai đoạn (2007-2010).
- Chương trình công tác và
Chương trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 của UBND tỉnh.
2. Tiềm
năng, lợi thế
Quảng Nam có 125 km đường bờ
biển, tập trung ở 6 huyện, thành phố ven biển. Vùng đồng bằng ven biển có địa
hình tương đối bằng phẳng, dải ven biển tương đối thoải, có các sông chính chảy
qua như: sông Trường Giang, Tam Kỳ, Thu Bồn và đổ về 2 cửa (cửa Đại và cửa An
Hòa) tạo thành vùng nước mặn, lợ rộng lớn.
Tổng diện tích có khả năng
phát triển nuôi thủy sản nước lợ trên toàn tỉnh khoảng 6.000 ha, chưa kể hàng
trăm ha vùng đất cát ven biển có thể phát triển nuôi tôm thẻ chân trắng... Hiện
nay, diện tích nuôi nước lợ khoảng 2.000 ha, với đối tượng nuôi chủ yếu là tôm
sú, tôm thẻ chân trắng. Ngoài ra còn nuôi xen vụ với cua xanh, cá để đa dạng
hóa đối tượng nuôi và hạn chế dịch bệnh khi nuôi tôm liên tục môi trường bị suy
thoái.
Với lợi thế về chiều dài bờ
biển, nguồn nước ít chịu ảnh hưởng bởi hàm lượng phù sa từ đất liền chảy ra nên
nước biển trong sạch, độ mặn cao và ổn định. Trong năm 2008-2009, từ chương
trình giống NTTS, Bộ Nông nghiệp &PTNT đầu tư dự án xây dựng cơ sở hạ tầng
khu sản xuất và kiểm định giống thủy sản tập trung tại Quảng Nam; đây là điều
kiện thuận lợi để nghề nuôi trồng thủy sản của tỉnh phát triển.
3. Hiện
trạng nuôi trồng thủy sản nước lợ
3.1. Kết quả NTTS nước lợ
trong ao đất
Đối tượng nuôi thủy sản nước
lợ gồm tôm sú, tôm thẻ chân trắng, cua xanh, rô phi, cá chẽm trong đó nuôi tôm
sú chiếm diện tích lớn. Năm 2003, diện tích nuôi nước lợ là 2.326 ha, sản lượng
thu hoạch 1.800 tấn; năm 2006, tổng diện tích nuôi thủy sản nước lợ trên toàn tỉnh
là 2.593 ha, với sản lượng thu hoạch là 3.550 tấn, trong đó diện tích nuôi tôm
sú là 2.337 ha (chiếm trên 90% tổng diện tích nuôi thủy sản nước lợ), sản lượng
3.405,7 tấn (chiếm khoảng 96% sản lượng).
Năm 2008, do hiệu quả kinh tế
từ nuôi tôm thẻ chân trắng và việc nuôi tôm sú ngày còn gặp nhiều khó khăn do
giá thành thấp, chất lượng giống không đảm bảo, bệnh tôm nuôi thường xuyên xảy
ra, người nuôi bị thua lỗ nhiều năm liền, nên nhiều nông hộ đã chuyển sang nuôi
tôm thẻ chân trắng từ diện tích ao nuôi tôm sú; diện tích nuôi tôm thẻ năm 2007
là 200 ha với sản lượng trên 1.000 tấn; riêng năm 2008, diện tích nuôi tôm thẻ
chân trắng là 880 ha với sản lượng đạt được 7.500 tấn (chiếm trên 88% tổng sản
lượng thủy sản nước lợ), tổng sản lượng năm nuôi tôm nước lợ năm 2008 đạt 8.500
tấn.
3.2. Nuôi thủy sản nước lợ
trên cát:
Nuôi tôm trên cát được thực
hiện từ năm 2001 với con tôm sú, qui mô khoảng 2 ha nhưng hiệu quả kinh tế
không cao; đến năm 2004, các ao nuôi này được chuyển sang nuôi tôm thẻ chân trắng
và đã thể hiện hiệu quả rõ rệt. Năm 2004, diện tích nuôi trên cát chỉ có 5 ha,
đến đầu năm 2007 diện tích này đã tăng lên 15 ha với năng suất bình quân đạt từ
12-15 tấn/ha/vụ (mỗi năm nuôi từ 2-3 vụ). Nuôi tôm trên cát (chủ yếu là tôm thẻ
chân trắng) đã đem lại hiệu quả cao, thời gian nuôi ngắn (trung bình 3 tháng/vụ),
tôm nuôi ít bệnh (nếu chọn đàn giống có chất lượng); trung bình mỗi ha nuôi cho
lãi ròng từ 120-150 triệu đồng/vụ. Tuy nhiên việc nuôi đối tượng này đòi hỏi
nguồn vốn đầu tư phải lớn. Mặc khác, nếu phát triển một cách tự phát, manh mún,
cơ sở hạ tầng kỹ thuật không đầu tư đồng bộ... sẽ làm ảnh hưởng đến môi trường
sinh thái và các hệ lụy khác sẽ xảy ra nếu như không có các giải pháp hữu hiệu.
3.3. Tình hình sản xuất và
cung ứng giống thủy sản nước lợ
Diễn biến sản xuất giống tôm
sú giai đoạn 2001 - 2008
Chỉ tiêu
|
Đơn vị tính
|
Năm 2001
|
Năm 2002
|
Năm 2003
|
Năm 2004
|
Năm 2005
|
Năm 2006
|
Năm 2007
|
Năm 2008
|
Số trại giống
|
Trại
|
260
|
260
|
264
|
264
|
264
|
213
|
213
|
105
|
Số tôm giống P.15
|
Tr.con
|
520
|
720
|
825
|
850
|
1000
|
950
|
1150
|
400
|
Về lĩnh vực sản xuất tôm sú
giống, từ năm 2001 đến năm 2005 số trại tôm giống không tăng, sản lượng tôm giống
ở mức ổn định. Năm 2006, một số trại tôm sú giống không hoạt động. Đến năm
2008, do chủ trương của Bộ Thủy sản (nay là Bộ Nông nghiệp& PTNT) cho phép
nuôi tôm thẻ chân trắng ở các tỉnh ven biển Miền Trung nên các nông hộ chuyển
sang nuôi tôm thẻ chân trắng, cho nên nhu cầu giống tôm thẻ chân trắng tăng cao
trong khi đó nhu cầu giống tôm sú giảm sút, các chủ cơ sở sản xuất tôm sú giống
khó tiêu thụ sản phẩm, giá con giống thấp; trong khi đó chi phí đầu vào tăng
cao, các trại hoạt động không có hiệu quả nên sản xuất cầm chừng. Năm 2008, chỉ
có 50% số trại hoạt động.
Trước nhu cầu giống tôm thẻ
chân trắng đang tăng cao, trong khi đó tỉnh chưa có cơ sở sản xuất giống tôm thẻ
chân trắng, một số cơ sở thực hiện việc lưu giữ tôm giống sau đó bán cho các hộ
nuôi trên địa bàn tỉnh, một số nông hộ tự mua tôm giống từ các tỉnh khác chuyển
về, vì thế việc kiểm tra và quản lý chất lượng con giống rất khó. Mặc khác, ý
thức của người nuôi trong việc kiểm tra xét nghiệm con giống trước khi nuôi còn
rất thấp, hầu hết các nông hộ nuôi qui mô nhỏ không kiểm tra chất lượng con giống
trước khi thả nuôi, do vậy đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả trong nuôi tôm.
3.4. Về tình hình dịch bệnh:
Ngay từ những năm tách tỉnh,
khi mà lịch thời vụ chưa được áp dụng, hiện trạng tôm nuôi bị dịch bệnh thường
xuyên xảy ra, gây nhiều thiệt hại về kinh tế cho các hộ nuôi tôm, mặc dù môi
trường nguồn nước tương đối trong sạch, nghề nuôi tôm mới vừa phát triển, diện
tích nuôi ít.
Trước tình hình dịch bệnh
trên tôm nuôi, Sở Thủy sản (nay là Sở Nông nghiệp và PTNT) đã phối hợp với trường
Đại học thủy sản Nha trang (nay là ĐH Nha trang) nghiên cứu và tham mưu UBND tỉnh
ban hành lịch mùa vụ nuôi tôm nước lợ năm 2003 và những năm đến trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam; trong đó nêu rõ: Từ năm 2003, mùa vụ nuôi tôm nước lợ của tỉnh chỉ
thực hiện 2 vụ nuôi/năm (một vụ chính và một vụ phụ). Thời gian nuôi bắt đầu từ
15/3 và kết thúc thu hoạch xong trước 30/10 dương lịch trong năm. Tuy nhiên, đối
với những trường hợp nuôi tôm trên cát ven biển, những khu nuôi tôm công nghiệp
có đủ các điều kiện (nguồn nước cấp và nước thải độc lập), đầu tư đầy đủ máy
móc thiết bị cần thiết, trình độ thâm canh cao,... có thể bố trí mùa vụ nuôi
tôm quanh năm.
Nhờ đó, từ sau những năm
2003, dịch bệnh và thiệt hại trên tôm nuôi giảm. Tuy vậy, hàng năm vẫn còn nhiều
nông hộ thả tôm nuôi trước lịch thời vụ qui định đã ảnh hưởng đến công tác quản
lý, phòng ngừa dịch bệnh chung.
Tình hình bệnh tôm nuôi
trong các năm từ (2003 - 2008):
Các giá trị
|
ĐVT
|
Năm 2003
|
Năm 2004
|
Năm 2005
|
Năm 2006
|
Năm 2007
|
Năm 2008
|
Diện tích tôm thả nuôi
|
ha
|
2326
|
2386
|
2500
|
2337
|
2561
|
1998
|
Diện tích tôm nuôi bị bệnh
|
ha
|
1500
|
150
|
70
|
120
|
15
|
117
|
Tổng sản lượng thu hoạch
|
tấn
|
1700
|
3011
|
3250
|
3405
|
3742
|
8500
|
Giá trị thiệt hại
|
tỷ đồng
|
20
|
6
|
2
|
3
|
150
|
1,1
|
Để giảm một cách thấp nhất dịch
bệnh trên trên tôm nuôi, hàng năm, nhất là từ năm 2003 trở về sau, ngành thủy sản
đã có thông báo về quy định mùa vụ thả tôm sú giống, tập huấn kỹ thuật nuôi an
toàn, tuyên truyền và xử phạt các trường hợp vi phạm thả tôm giống nuôi sớm hơn
quy định, các trường hợp gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, khi tôm nuôi bị dịch
bệnh, ngành thủy sản kết hợp cùng với chính quyền địa phương tiến hành khoanh
vùng nuôi, xử lý hóa chất cho các ao nuôi có tôm bị dịch bệnh trước khi thải nước
ra môi trường. Sự kết hợp của nhiều biện pháp và sự hiểu biết, chấp hành lịch
thời vụ thả tôm nuôi đã góp phần làm giảm diện tích tôm nuôi bị dịch bệnh, nhất
là ở các năm sau. Tuy nhiên, việc kiểm tra xử lý các hộ nuôi tôm trước lịch thời
vụ vẫn chưa được thực hiện vì chưa có văn bản pháp lý qui định việc này, chủ yếu
là công tác tuyên truyền và lý giải về cơ sở khoa học để người nuôi triển khai.
Bằng chứng là trong năm 2008, khi mà không khí lạnh kéo dài đến tháng 3 âm lịch
thì việc thực hiện đúng lịch thời vụ là yếu tố để đem lại sự thành công của vụ
nuôi. Để làm tốt vấn đề này đòi hỏi phải nâng cao nhận thức cộng đồng triển
khai phương thức tổ chức sản xuất theo hướng dựa vào cộng đồng.
4. Tình
hình thành lập và hình thành các tổ nuôi tôm nước lợ theo hướng quản lý cộng đồng
tại Quảng Nam:
Để hạn chế tình trạng tôm
nuôi bị bệnh (mà hầu hết là các trường hợp thả tôm giống sớm hơn lịch thời vụ)
và tăng giá bán sản phẩm tôm nuôi sau khi thu hoạch, bảo vệ môi trường... Sở Thủy
sản (nay là Sở Nông nghiệp &PTNT) đã cùng với chính quyền địa phương vận động
và tuyên truyền người dân sản xuất NTTS phải dựa vào cộng đồng nhằm giúp đỡ
nhau trong sản xuất, phòng chống dịch bệnh,... nhất là tại các vùng nuôi thủy sản
tập trung. Việc thành lập các tổ nuôi tôm nước lợ theo hướng quản lý cộng đồng
cũng nhằm mục đích xây dựng thương hiệu vùng nuôi sinh thái, vùng nuôi sạch để
góp phần cùng nhau tạo sức mạnh trong việc tiêu thụ sản phẩm có tính cạnh tranh
cao.
Phương pháp quản lý trên cơ
sở cộng đồng là hướng dẫn cộng đồng dân cư cùng nhau giải quyết vấn đề môi trường,
tổ chức nuôi dưới sự phối hợp của các chuyên gia và người dân địa phương, phát
triển kế hoạch nuôi và quản lý theo hướng bền vững. Đồng thời là cầu nối giữa
nhân dân địa phương và các nhà Khoa học, nhà quản lý trong việc tiếp cận thông
tin khoa học, kiến thức về kỹ thuật nuôi. Trên cơ sở các vùng cùng có các điều
kiện sinh thái tương đồng nhau thì hướng dẫn người dân thành lập tổ cộng đồng
trong NTTS (đã được sự đồng thuận cao của các hộ nông ngư dân trong vùng).
Từ năm 2006 đến nay, trên địa
bàn tỉnh đã xây dựng được 29 tổ cộng đồng trong lĩnh vực nuôi tôm nước lợ với
884 hộ tham gia. Các tổ này đã phát huy hiệu quả rõ rệt trong việc tổ chức sản
xuất, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng tôm nuôi cụ thể như: tổ cộng đồng
vùng Hóc Rộ - Cẩm Thanh (Hội An), Bản Long - Tam Tiến (Núi Thành), các tổ ở Duy
Vinh, Duy Thành (huyện Duy Xuyên),...
Qua thành lập các tổ cộng đồng,
người dân phối hợp với nhau trong việc kiểm tra, xét nghiệm con giống, cải tạo
ao, hỗ trợ kỹ thuật trong sản xuất... Ngoài ra, các hộ tham gia trong tổ cộng đồng
có tính giác ngộ rất cao, khi có trường hợp tôm nuôi bị bệnh, chủ hộ đóng cống,
giam nước và báo cho các hộ có nuôi tôm chung quanh để phòng ngừa đồng thời báo
cho cơ quan chức năng để xử lý.
Nhìn chung, việc hình thành
các tổ cộng đồng đã phát huy được hiệu quả như: Người dân cùng nhau đi mua tôm
để kiểm tra chất lượng con giống, chọn được đàn tôm có chất lượng tốt, cùng nhau
cải tạo ao nuôi, giúp đỡ nhau trong sản xuất, liên kết nhau trong việc mua
nguyên liệu đầu vào và bán sản phẩm, xử lý và phòng ngừa dịch bệnh...
Qua thực tế triển khai, các
tổ cộng đồng khi hoạt động còn gặp rất nhiều khó khăn như: việc cải tạo ao nuôi
đồng loạt sẽ thiếu nhân công cải tạo ao nuôi trong vùng (do người dân tự mượn
công lẫn nhau trong sản xuất), chưa tự nguyện góp vốn để hỗ trợ lẫn nhau trong
sản xuất và nhất là khi có trường hợp tôm bị bệnh chết trên diện rộng, thì
không có khả năng mua hóa chất xử lý nên vấn đề lây lan còn xảy ra. Do vậy, cần
phải sắp xếp lại cách thức hoạt động của các tổ cộng đồng hiện có để cũng cố
phát triển, làm cơ sở nhân rộng hơn.
5. Một số
vấn đề tồn tại trong NTTS nước lợ hiện nay:
Thực tế cho thấy tỉnh ta có
tiềm năng lớn về nguồn lực tự nhiên cũng như kinh tế xã hội trong việc phát triển
nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, tỷ trọng sản lượng cũng như giá trị hiện nay
chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra vì những khó khăn, tồn tại sau:
- Hầu hết công trình các ao
nuôi không có ao chứa lắng, các hộ nuôi ít xử lý nước trước khi nuôi nên mầm bệnh
dễ dàng xuất hiện. Các vùng nuôi có chung một hệ thống cấp, thoát nước, mọi nguồn
nước thải của việc nuôi đều đổ ra lại nơi cấp nước. Do vậy, việc tái sử dụng nước
kém chất lượng là tất yếu, dễ lây lan dịch bệnh.
- Vấn đề thoái hóa đất ở các
ao nuôi tôm sú; hầu hết rơi vào các ao nuôi có độ sâu mực nước thấp, ao nuôi bị
thẩm lậu không thể giữ được nước, cơ sở hạ tầng vùng nuôi sơ sài, bờ ao nuôi
không đảm bảo,...
- Vấn đề môi trường trong
nuôi trồng thủy sản nước lợ ngày càng báo động, nhưng hệ thống quan trắc, cảnh
báo còn nhiều hạn chế (thiếu thiết bị, con người…); công tác thông tin, dự báo,
ngăn ngừa và xử lý tôm nuôi bị dịch bệnh gặp rất nhiều khó khăn, chưa kịp thời,
khi ao nuôi bị dịch bệnh thì việc xử lý gặp rất nhiều khó khăn do kinh phí,
công tác xét nghiệm còn chậm trễ.
- Công tác qui hoạch của các
ngành và qui hoạch của địa phương đã ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất của người
dân. Hiện tại, đất dọc ven biển, một số ao nuôi thủy sản nước lợ đang canh tác ở
một số nơi được chính quyền địa phương công bố là qui hoạch cho du lịch, khu
kinh tế mở, khu đô thị mới...Mặc dù việc công bố qui hoạch đã thực hiện từ các
năm trước nhưng đến bây giờ thì vẫn chưa thực hiện, mặt trái của vấn đề này là:
Người dân không dám đầu tư cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh để tổ chức nuôi mà chỉ cải
tạo ao sơ sài, không nạo vét bờ và đáy ao nuôi, tu bổ công trình nhưng vẫn cứ
nuôi tôm cho dù ao nuôi không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật cho phép, chỉ trông
chờ vào sự may mắn trong sản xuất. Kết quả là nuôi tôm bị dịch bệnh, thua lỗ.
Tình trạng này bắt gặp ở xã Cẩm Châu, Đồng Muối - Cẩm Thanh, Phường Cửa Đại và
các địa phương thuộc vùng kinh tế mở Chu Lai như Tam Hòa, Tam Hiệp, Thị trấn
Núi Thành... thuộc huyện Núi Thành. Các vùng nuôi tôm mà địa phương công bố qui
hoạch thì việc nuôi tôm hầu như không có hiệu quả, tôm nuôi bị dịch bệnh, chậm
phát triển. Đối với các địa phương khác có vùng nuôi tôm ổn định, không bị ảnh
hưởng bởi qui hoạch các ngành khác, người dân quan tâm đầu tư vào ao nuôi thì
tôm nuôi phát triển rất nhanh, nhiều hộ có lãi như: xã Tam Tiến - Núi Thành,
Tam Phú - Tam Kỳ, huyện Điện Bàn và các xã thuộc huyện Thăng Bình...
- Vấn đề con giống có số lượng,
chất lượng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu, nhất là con giống chủ lực (tôm thẻ
chân trắng, tôm sú chất lượng cao). Đa phần các trại sản xuất giống thuỷ sản
phân tán, cơ sở hạ tầng còn thô sơ, sự tự giác và ý thức của người dân còn kém;
thiết bị, con người làm công tác kiểm dịch còn thiếu cho nên đã ảnh hưởng rất lớn
đến việc kiểm soát chất lượng con giống đưa vào nuôi. Người dân chưa thực hiện
nghiêm túc việc kiểm tra, xét nghiệm tôm giống trước khi thả nuôi, rất chủ quan
trong việc chọn tôm giống, chủ yếu là chọn tôm theo cảm quan, chưa có sự phối hợp
với cơ quan chuyên môn trong việc xét nghiệm tôm giống.
- Vấn đề nắm bắt thông tin từ
vùng nuôi đến nhà quản lý còn rất chậm, một phần chưa có hệ thống chân rết
trong quản lý thủy sản ở cấp cơ sở, nhất là trong trường hợp tôm nuôi bị dịch bệnh
để xử lý kịp thời, do vậy khi dịch bệnh lây lan thì mới phát hiện và xử lý.
- Vấn đề thông tin về thị
trường, tình hình xuất khẩu, vấn đề định hướng đối tượng nuôi có giá trị xuất
khẩu còn chưa kịp thời. Con tôm sú là đối tượng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
trong các năm qua thì đầu năm 2008 đang gặp bế tắc về đầu ra. Ở Quảng Nam, người
nông dân nuôi tôm sú chủ yếu là bán chợ với số lượng rất hạn chế và giá thấp, mặc
dù trong quá trình nuôi không xảy ra dịch bệnh nhưng vụ 1 năm 2008, người nuôi
may lắm là huề vốn hoặc có lãi nhưng không cao, còn đại đa số là thua lỗ do
không có đầu ra. Một số nông hộ nuôi đối tượng mới (cá chẽm, cá măng, cá dìa,…)
với qui mô nhỏ lẻ thì cũng khó có khả năng tạo sản lượng lớn để cho các cơ sở
thu mua chế biến xuất khẩu. Do vậy, cần phải tập hợp nông hộ trong vùng nuôi
cùng một đối tượng thì mới có khả năng tạo sản lượng lớn cho chế biến xuất khẩu.
- Người NTTS chưa nhận được
sự hỗ trợ nào từ nhà nước về hỗ trợ cho động vật nuôi thủy sản khi ao nuôi bị dịch
bệnh, bị thất thoát do thiên tai (bão, lũ...) nên cũng là trở ngại trong việc tập
hợp người dân tổ chức sản xuất cộng đồng.
Như vậy, sự khó khăn trong
việc định hướng đối tượng nuôi, nguồn vốn đầu tư, công trình ao nuôi, hệ thống
cấp thoát nước chưa đảm bảo, ảnh hưởng của qui hoạch, thiếu trang thiết bị cho
nuôi tôm, hình thức nuôi nhỏ, đầu tư thấp...làm cho môi trường ô nhiễm, bệnh
tôm còn xảy ra nhiều, hiệu quả kinh tế nuôi tôm còn thấp... Để giải quyết vấn đề
trên thì cần phải có những giải pháp đồng bộ từ việc qui hoạch lại hệ thống
nuôi, đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cần thiết cho nuôi tôm và nhất là
các nông hộ phải trang bị về kỹ thuật nuôi tôm, cách quản lý môi trường tổng hợp
và đặc biệt là cách thức tổ chức sản xuất trong cộng động.
Vì vậy, tổ chức lại các nhóm
hộ theo hướng tự quản là chủ trương đúng đắn để nâng cao vai trò làm chủ của
nhân dân, đồng thời là giải pháp hữu hiệu để tạo ra sức mạnh phối hợp giúp đỡ
nhau trong tổ chức sản xuất nhằm tăng hiệu quả kinh tế trên đơn vị diện tích, bền
vững về môi trường là vấn đề rất cần thiết.
PHẦN
II
MỤC TIÊU, CHỈ
TIÊU, NỘI DUNG, GIẢI PHÁP THỰC HIỆN NUÔI THỦY SẢN NƯỚC LỢ THEO HƯỚNG QUẢN LÝ DỰA
VÀO CỘNG ĐỒNG
I. MỤC
TIÊU, CHỈ TIÊU CỦA ĐỀ ÁN:
1. Mục tiêu tổng quát:
Phát triển nuôi thủy sản nước
lợ theo hướng bền vững, đồng thời góp phần cải thiện sinh kế, nâng cao thu nhập
cho người dân sống bằng nghề nuôi thủy sản nước lợ.
2. Mục tiêu cụ thể:
- Thực hiện hoàn thành việc
sắp xếp các hộ sản xuất theo tổ cộng đồng, đến năm
2010 xây dựng khoảng 111 tổ,
đến năm 2015 xây dựng được 176 tổ với khoảng 5.250 hộ tham gia (chiếm khoảng
79% số hộ nuôi hiện nay), cụ thể:
TT
|
Địa phương
|
DT mặt nước nuôi đến năm 2008
|
Số hộ tham gia NTTS nước lợ (hộ)
|
Đã thành lập đến năm 2008
|
Giai đoạn 2009-2010
|
Giai đoạn 2011-2015
|
Số tổ
|
Số hộ
|
Số tổ
|
Số hộ
|
Số tổ
|
Số hộ
|
1
|
Núi Thành
|
1.575
|
4319
|
13
|
672
|
19
|
1777
|
6
|
1030
|
2
|
Tam Kỳ
|
197
|
836
|
0
|
0
|
38
|
410
|
39
|
420
|
3
|
Thăng Bình
|
245
|
716
|
0
|
0
|
15
|
200
|
15
|
200
|
4
|
Duy Xuyên
|
94
|
250
|
9
|
95
|
5
|
100
|
0
|
0
|
5
|
Hội An
|
233
|
505
|
7
|
117
|
4
|
100
|
5
|
120
|
6
|
Điện Bàn
|
10
|
15
|
|
|
1
|
15
|
|
|
Tổng
|
2.354
|
6.641
|
29
|
884
|
82
|
2.602
|
65
|
1.770
|
- Đến năm 2010 xây dựng khoảng
10 mô hình nuôi thủy sản theo hướng bền vững dựa vào cộng đồng và từng bước xây
dựng thương hiệu, công bố vùng nuôi an toàn để góp phần nâng cao giá trị và chất
lượng sản phẩm. Đến năm 2015, hoàn thiện 15 mô hình và hoàn chỉnh việc xây dựng
thương hiệu, công bố vùng nuôi an toàn đảm bảo tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực
phẩm theo các tiêu chí qui định. Các mô hình nuôi thủy sản bền vững được triển
khai ở các tổ cộng đồng đã được thành lập để hướng dẫn kỹ thuật và cách thức tổ
chức nuôi trồng thủy sản theo tổ, qui trình thực hiện công bố vùng nuôi an toàn
vệ sinh thực phẩm, vùng nuôi an toàn.
- Tập huấn kỹ thuật gắn với
trình diễn đầu bờ ở các mô hình để nông ngư dân các vùng học tập kinh nghiệm lẫn
nhau, mỗi tổ một lớp tập huấn kỹ thuật.
- Xây dựng mạng lưới cung cấp
thông tin từ các tổ trưởng cộng đồng đến người sản xuất và nhà quản lý.
- Hỗ trợ một số thiết bị đo
môi trường chủ yếu cho các tổ cộng đồng, đồng thời hỗ trợ cho các tổ trong việc
kiểm tra xét nghiệm mẫu và cử cán bộ kỹ thuật theo dõi mô hình.
II. NỘI
DUNG CỦA ĐỀ ÁN
Phương pháp quản lý dựa vào
cộng đồng là hướng dẫn cộng đồng dân cư cùng nhau giải quyết vấn đề môi trường,
tổ chức nuôi dưới sự phối hợp của các chuyên gia với người dân địa phương, phát
triển kế hoạch nuôi và quản lý theo hướng bền vững. Đồng thời là cầu nối giữa
nhân dân địa phương và các nhà Khoa học, nhà quản lý và doanh nghiệp trong việc
tiếp cận thông tin khoa học, kiến thức về kỹ thuật nuôi và đầu ra của sản phẩm.
1. Nội dung chính của đề
án gồm
1.1. Phối hợp với chính quyền
địa phương để nắm bắt hiện trạng ao hồ, điều kiện thổ nhưỡng, phân vùng và phân
nhóm, định hướng đối tượng nuôi để hình thành nên các tổ sản xuất.
1.2. Thành lập các tổ cộng đồng
trong vùng nuôi, xây dựng các qui ước, hương ước và các cam kết ràng buộc khi
các thành viên tham gia vào các tổ cộng đồng.
1.3. Thực hiện hỗ trợ kỹ thuật,
hỗ trợ xét nghiệm mẫu tôm giống và hỗ trợ một số thiết bị đo môi trường chủ yếu
để các tổ quản lý và sử dụng.
1.4. Hướng dẫn xây dựng
thương hiệu và đăng ký sản phẩm về vùng nuôi an toàn, vùng nuôi sạch.
1.5. Tập huấn kỹ thuật cho
các tổ cộng đồng
1.6. Xây dựng mạng lưới cung
cấp thông tin từ các tổ cộng đồng đến chính quyền địa phương và cơ quan chuyên
môn để nắm bắt thông tin và hỗ trợ kỹ thuật đến người nuôi, xây dựng mạng lưới
khuyến ngư viên tình nguyện đến các tổ cộng đồng.
* Về nguyên tắc thành lập
các tổ cộng đồng:
Tổ cộng đồng được thành lập
trên nguyên tắc tự nguyện. Các tổ trưởng là những mạng lưới chân rết trong việc
tiếp nhận các thông tin và phổ biến đến các thành viên trong tổ. Các thành viên
tham gia góp quỹ để hỗ trợ sản xuất, chia sẻ rũi ro…
* Cơ sở thành lập 1 tổ cộng
đồng: Trên cơ sở số liệu điều tra, hiện trạng vùng nuôi, những vùng có cùng
điều kiện sinh thái, cùng hệ thống cấp thoát nước tương đối tương đồng về các yếu
tố thủy lý, thủy hóa thì nhóm thành một tổ trên cơ sở cùng nhau nuôi một đối tượng
chính.
Các tổ cộng đồng được thành
lập có sự xác nhận của chính quyền địa phương (UBND xã, phường) và luôn được kiểm
tra, giám sát, tạo điều kiện để đảm bảo thực thi qui ước nội bộ của tổ cộng đồng
và các qui định pháp luật liên quan.
2. Các hoạt động đi kèm
2.1. Xây dựng các mô hình quản
lý mẫu, hỗ trợ kỹ thuật:
- Trên cơ sở các tổ cộng đồng
được thành lập, cơ quan chuyên ngành sẽ cử cán bộ kỹ thuật theo dõi và chỉ đạo
kỹ thuật, xây dựng các mô hình khi các tổ cộng đồng triển khai sản xuất.
- Tiến hành đánh giá năng lực
kỹ thuật, phương thức tổ chức sản xuất để sắp xếp nhu cầu đào tạo nhằm thúc đẩy
sản xuất phát triển.
- Đào tạo kỹ năng quản lý và
tổ chức sản xuất của các tổ trưởng cộng đồng, xây dựng đội ngũ khuyến ngư viên
tự nguyện.
- Tác động kỹ thuật trong việc
tổ chức sản xuất theo hướng cộng đồng để đánh giá hiệu quả và tính bền vững.
2.2. Xây dựng mô hình quản
lý thực hành nuôi trồng thủy sản tốt hơn, nuôi có trách nhiệm để từng bước xây
dựng và quảng bá thương hiệu.
2.3. Tổng kết, nhân rộng mô
hình: Đánh giá hiệu quả của các tổ cộng đồng, rút ra những ưu, khuyết điểm
để khắc phục và thực hiện có hiệu quả hơn ở lần sau.
III.
PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC, TIẾP CẬN VÀ TRIỂN KHAI:
1. Phương thức tổ chức:
* Đặc trưng của mô hình
quản lý trên cơ sở cộng đồng:
- Cơ chế quản lý trong tổ chức
cộng đồng là tự quản lý tài nguyên mặt nước và vùng NTTS có chỉ đạo tổ chức sản
xuất của Nhà nước và sự tham gia quản lý của người dân địa phương.
- Công cụ để quản lý: Văn bản
pháp luật của Nhà nước, các qui định của cộng đồng (các hương ước).
* Đối tượng nghiên cứu:
Lấy nông dân làm đối tượng nghiên cứu trên cơ sở quản lý nuôi trồng, nguồn lợi
thủy sản và quản lý xã hội.
2. Phương pháp tiếp cận
và triển khai:
2.1. Phương pháp thu thập
thông tin:
Qua trao đổi với cán bộ tại
địa phương, phỏng vấn trực tiếp người nuôi, đi thực tế hiện trường kết hợp với
sử dụng các số liệu lưu trữ để thu thập: Diện tích, cơ sở hạ tầng vùng nuôi, hiện
trạng cấp thoát nước, hiện trạng sản xuất của vùng, sơ lược môi trường, các đối
tượng nuôi chủ yếu, mùa vụ,… để định hướng đối tượng nuôi trong vùng, qui mô
thành lập các tổ, chọn tổ xây dựng mô hình nuôi sạch bệnh và từng bước xây dựng
thương hiệu, đăng ký sản phẩm an toàn, vùng nuôi an toàn và quảng bá sản phẩm.
2.2. Phương pháp tổ chức và
phát triển cộng đồng:
- Xây dựng quy chế tổ chức
nuôi trồng thủy sản theo hướng cộng đồng, xây dựng các hương ước, cụ thể như:
+ Tổ chức thông tin tuyên
truyền nêu rõ sự cần thiết phải gia nhập vào tổ cộng đồng để người dân tự nguyện
gia nhập.
+ Hướng dẫn, xúc tiến thành
lập các tổ cộng đồng trong vùng theo từng điều kiện sinh thái.
- Xây dựng các mô hình nuôi
theo hướng bền vững, tạo đa dạng sinh học cao: nuôi tôm, nhuyễn thể, trồng rong
biển, nuôi cá,…
- Hỗ trợ cho các nhóm cộng đồng
để tổ chức nuôi có hiệu quả như: hỗ trợ nghiên cứu thị trường đầu vào và thị
trường đầu ra để có kế hoạch phát triển nuôi, xây dựng mạng lưới cung cấp thông
tin.
- Hỗ trợ các thiết bị đo môi
trường chủ yếu, hỗ trợ chi phí xét nghiệm tôm giống trước khi thả nuôi và xét
nghiệm mẫu tôm giống định kỳ trong chu kỳ nuôi.
- Xây dựng các mô hình nuôi
an toàn vệ sinh thực phẩm, vùng nuôi an toàn, từng bước đăng ký và quảng bá
thương hiệu làm cơ sở nhân rộng mô hình.
2.3. Thông tin và đào tạo:
- Xây dựng các biểu mẫu về
các tổ cộng đồng để thực hiện công tác báo cáo định kỳ về tình hình sản xuất
theo tuần, tháng, vụ nuôi.
- Xây dựng các bộ tài liệu
phân phát đến các hộ nuôi phù hợp với từng tổ để nhanh chóng ứng dụng vào sản
xuất.
- Phổ biến các kết quả
nghiên cứu cho ngư dân. Nâng cao nhận thức về phát triển tổ chức nuôi theo tổ gắn
với bảo vệ môi trường. Tập huấn các phương pháp nuôi an toàn không ảnh hưởng đến
môi trường và nguồn lợi thủy sản.
- Tổ chức tham quan các mô
hình, các tổ chức cộng đồng hoạt động có hiệu quả để học tập kinh nghiệm.
- Theo dõi, hỗ trợ kỹ thuật
cho các mô hình.
- Đào tạo các nghề nuôi mới
theo nhóm nghề nhằm cải thiện các hoạt động sinh kế.
2.4. Xây dựng các mối liên kết
lâu dài:
- Mối liên kết giữa các nhà
khoa học, nhà quản lý, doanh nghiệp với các tổ cộng đồng: là nơi truyền bá
thông tin khoa học, giá cả sản phẩm và quản lý đến các nông ngư dân nhanh nhất.
- Mối liên kết giữa các tổ cộng
đồng trong thôn, xã, phường nhằm phối hợp trong tổ chức sản xuất, thông tin về
thị trường.
- Mối liên kết giữa các cộng
đồng lân cận.
IV. NHU CẦU
VỐN ĐẦU TƯ
Để thực hiện đề án theo các
yêu cầu như trên thì cần nguồn kinh phí từ nguồn ngân sách Nhà nước phân theo từng
giai đoạn như sau:
ĐVT:
triệu đồng
TT
|
Nội dung
|
Diễn giải
|
Đến năm 2010
|
Đến năm 2015
|
Tổng
|
Số lượng
|
Thành tiền
|
Số lượng
|
Thành tiền
|
1
|
Hỗ trợ các thiết bị đo môi
trường cho các tổ (gồm máy đo pH nước, đất, dụng cụ đo độ mặn)
|
Mỗi tổ sẽ hỗ trợ 1 bộ thiết
bị đo môi trường chủ yếu khoảng 5 triệu đồng/bộ/tổ.
|
111
|
555
|
65
|
325
|
880
|
2
|
Hỗ trợ xét nghiệm mẫu tôm
giống đầu vụ và xét nghiệm mẫu TS và MT trong quá trình nuôi nuôi
|
Mỗi tổ sẽ hỗ trợ để xét
nghiệm 10 mẫu kiểm tra tôm giống đầu vụ và 15 mẫu kiểm tra trong quá trình
nuôi, tương ứng 25 mẫu/tổ x 200.000 VND/mẫu = 5 triệu đồng/tổ
|
111 tổ
|
555
|
65
|
325
|
880
|
3
|
Tập huấn kỹ thuật cho các
tổ
|
2 triệu đồng/tổ
|
111 tổ
|
222
|
65
|
130
|
352
|
4
|
Hỗ trợ chi phí đi lại cho
cán bộ theo dõi mô hình
|
Trung bình 500.000 đồng/tổ.
|
111
|
55,5
|
65
|
32,5
|
88
|
5
|
Xây dựng mô hình Nuôi thủy
sản nước lợ theo hướng cộng đồng và từng bước xây dựng thương hiệu vùng nuôi
an toàn, có chứng nhận cơ sở NTTS theo hướng bền vững (BMP, GAP, CoC)
|
Trung bình 1 mô hình 20
triệu, bao gồm hỗ trợ tài liệu, hồ sơ ghi chép, đăng ký và xây dựng thương hiệu,
thủ tục cấp giấy chứng nhận
|
10 Mô hình
|
200
|
5
|
100
|
300
|
6
|
Kinh phí đào tạo phương
pháp thực hiện và kỹ năng quản lý cho cán bộ địa phương và các tổ trưởng
|
Tổng cộng 10 khóa, mỗi
khóa khoản 5 triệu
|
6
|
30
|
4
|
20
|
50
|
7
|
Kinh phí quản lý, văn
phòng phẩm
|
10 triệu đồng/năm
|
|
30
|
|
20
|
50
|
8
|
Hội thảo tổng kết mô hình
|
2 hội thảo/kỳ x 10 triệu đồng/HT
|
2
|
20
|
2
|
20
|
40
|
Tổng cộng
|
|
|
1.667,5
|
|
972,5
|
2.640
|
Như vậy, để thực hiện đề án
thì đến năm 2010 nhu cầu kinh phí là 1.667,5 triệu đồng; đến năm 2015 nhu cầu
kinh phí là 972,5 triệu đồng. Tổng kinh phí thực hiện đề án đến năm 2015 là
2.640 triệu đồng. Nguồn kinh phí được bố trí từ kinh phí từ các chương trình của
trung ương và ngân sách tỉnh.
V. HIỆU
QUẢ CỦA ĐỀ ÁN:
1. Hiệu quả về môi trường:
Nhân dân có sự đồng thuận
trong tổ chức sản xuất, áp dụng các biện pháp khoa học để quản lý môi trường ao
nuôi và khơi thông hệ thống kênh mương, thực hiện các công nghệ nuôi sạch, an
toàn về môi trường và dịch bệnh góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường, tạo sản phẩm
sạch có giá trị cao, góp phần giảm thiểu thiệt hại do dịch bệnh xảy ra trên động
vật thủy sản nuôi.
2. Hiệu quả về kinh tế:
Tăng nhanh giá trị kim ngạch
xuất khẩu, góp phần tạo động lực quan trọng tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
Giảm thiểu dịch bệnh, nâng
cao giá trị và năng suất trên một đơn vị diện tích, góp phần đem lại hiệu quả
kinh tế cho người dân.
3. Hiệu quả về xã hội:
- Tạo ra sự đồng thuận cao
trong cộng đồng, các mâu thuẫn trong vùng do quá trình nuôi sẽ được giải quyết,
góp phần ổn định chính trị và xây dựng nông thôn mới.
- Góp phần phát triển cơ sở
hạ tầng nông thôn thông qua việc đầu tư, qui hoạch lại, cải tạo lại các hệ thống
kênh mương.
- Người dân không còn tình
trạng bỏ trống ao đìa, khơi dậy bản sắc văn hóa làng nghề NTTS thắm đượm tình
đoàn kết.
- Từng bước nâng cao đời sống
cho nhân dân trong vùng.
VI. CÁC
GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
1. Giải pháp về tổ chức cộng
đồng nuôi thủy sản nước lợ:
- Trên cơ sở các tổ cộng đồng
hiện có, thực hiện chỉ đạo sản xuất có hiệu quả, cho người dân tham quan học tập
để làm cơ sở tuyên truyền và nhân rộng.
- Thành lập các tổ cộng đồng
trên cơ sở tự nguyện với nguyên tắc phát triển bền vững.
- Sử dụng tiết kiệm tài
nguyên, các tổ cộng đồng tiến hành tổ chức nuôi theo hướng có hiệu quả kinh tế
nhưng không làm ô nhiễm môi trường, tạo ra các sản phẩm sạch, gắn với thị trường
tiêu thụ.
2. Về công tác quy hoạch
và thực hiện quy hoạch:
- Hiện nay trên lĩnh vực
nuôi tôm nước lợ UBND tỉnh Quảng Nam đã phê duyệt qui hoạch chi tiết nuôi tôm
nước lợ các huyện, thị phố ven biển, tuy nhiên vấn đề thực thi là rất khó vì
đòi hỏi nguồn kinh phí lớn. Do vậy, cần thực hiện qui hoạch thí điểm một hoặc
vài vùng nuôi. Ví dụ, chọn những vùng có ao nuôi lộn xộn, không có hệ thống cấp
thoát nước với qui mô từ 10 -20 ha để thực hiện qui hoạch và thiết kế lại vùng
nuôi. Cần vận động tuyên truyền người dân góp đất để xây dựng kênh mương cấp,
thoát nước. Trong thiết kế, xây dựng mới ao nuôi phải đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật
đối với từng hình thức nuôi.
- Cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất NTTS cho nhân dân; xác định rõ khu vực nào không giao, khu vực nào
giao tạm thời và khu vực nào giao đất lâu dài để người dân yên tâm đầu tư, nâng
cấp công trình và thu hồi dần vốn đầu tư. Đồng thời là cơ sở để xây dựng các tổ
cộng đồng, xây dựng các vùng nuôi an toàn và quảng bá thương hiệu, cần thiết kết
hợp giữa NTTS với du lịch sinh thái.
- Về qui hoạch hệ thống thủy
lợi: Trong NTTS, để đảm bảo vấn đề an toàn môi trường và dịch bệnh thì hệ thống
cấp và thoát nước phải riêng biệt, nước được cấp vào kênh cấp lúc triều cường
và thải ra kênh thoát lúc triều kém, cần thiết phải có ao xử lý môi trường ở cuối
kênh cấp trước khi thải ra sông. Kênh cấp công trình phải cao hơn đấy ao và
kênh thoát phải thấp hơn đáy ao. Do vậy cần phải đo đạc cẩn thận trước khi thiết
kế công trình.
- Về hệ thống thủy lợi nước
ngọt đối với vùng nuôi tôm nước lợ: Những vùng nuôi có độ mặn cao (trên 20%o),
tập trung, cần có hệ thống thủy lợi nước ngọt để giúp vật nuôi phát triển
nhanh, hạn chế dịch bệnh. Do vậy, đối với những vùng nuôi tập trung cần tiến
hành đầu tư cơ sở hạ tầng như: điện, giao thông, thủy lợi nước ngọt, hệ thống
kênh cấp và thoát nước, ao xử lý nước thải.
- Vấn đề giao thông đường thủy
nội địa: Những ao hồ lấn chiếm và cản trở hành lang an toàn giao thông đường thủy
thì cần giải tỏa để tạo sự thông thoáng cho lòng sông và tạo hành lang thoát
lũ, đồng thời là cơ sở để sự lưu thông nước giữa biển và nội địa được nhanh
chóng theo thủy triều.
3. Giải pháp về đối tượng
nuôi, khoa học công nghệ:
Song song với các giải pháp
về qui hoạch và công trình ao nuôi, đòi hỏi cần phải có đồng bộ nhiều giải pháp
khác như:
3.1. Về đối tượng nuôi:
Tập trung nuôi những đối tượng có giá trị xuất khẩu, chủ động được nguồn giống
(nhất là phải sinh sản nhân tạo tại chỗ). Công tác dự báo về thị trường và đối
tượng nuôi cần phải được cập nhật thường xuyên để người dân yên tâm đầu tư sản
xuất. Tập trung giải quyết những vấn đề liên quan đến con giống, công tác kiểm
tra chất lượng và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất giống để cho ra con
giống có chất lượng tốt, giá cả thấp, đủ số lượng, phù hợp với mùa vụ nuôi.
3.2. Về công tác dự báo
môi trường, chuyển giao KHKT:
- Công tác giám sát và cảnh
báo môi trường vùng ven sông, ven biển phải kịp thời và chính xác. Chọn những
vùng cửa sông, những vùng nuôi tập trung để thực hiện việc đặt các trạm quan trắc
hoặc thực hiện việc thu mẫu và đánh giá chất lượng nước kết hợp với chế độ thủy
triều. Tăng cường giám sát trong mùa vụ chính, nhất là trong những tháng nhạy cảm
hay xảy ra dịch bệnh. Công tác dự báo môi trường cần cập nhật thường xuyên đến
người nuôi tôm thông qua cơ chế linh hoạt, tránh thủ tục giấy tờ rườm rà; cần
thiết thông tin kịp thời trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là các
bản tin tại địa phương.
- Triển khai các mô hình
nuôi thủy sản nước lợ theo hướng quản lý cộng đồng. Bên cạnh đó, cần xúc tiến
xây dựng các mô hình nuôi bền vững như: quản lý thực hành NTTS tốt hơn (BMP),
GAP, CoC tiến tới việc xây dựng các vùng nuôi an toàn, bền vững, xây dựng
thương hiệu.
- Tăng cường công tác thông
tin tuyên truyền cũng như hỗ trợ kỹ thuật, đồng thời giúp nông ngư dân trong việc
tính toán để giảm chi phí đầu vào của sản xuất và thường xuyên thông báo tình
hình thị trường đến các hộ ngư dân trong mùa vụ sản xuất, từ đó họ có kế hoạch
sản xuất cho phù hợp.
- Xây dựng các mô hình nuôi
thủy sản kết hợp hoặc nuôi xen để đa dạng sản phẩm và giảm sự tác động của các
đối tượng nuôi đến môi trường như mô hình nuôi tôm - cá, tôm - nhuyển thể, tôm
- rong biển,.... Khuyến khích các hộ nuôi 1 vụ tôm, một vụ cá để cải thiện môi
trường.
- Mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức về kỹ thuật và quản lý cho các tổ trưởng cộng đồng và các hộ nông ngư
dân để nâng cao năng lực về quản lý và tổ chức sản xuất.
- Nghiên cứu và hoàn thiện
các công nghệ mới về xử lý môi trường, chẩn đoán và phòng trừ dịch bệnh, bảo quản
sản phẩm sau thu hoạch, các hình thức nuôi mới trên cơ sở hiệu quả và bền vững.
Tuyên truyền các hộ không sử dụng các chất kháng sinh, hóa chất bị cấm trong
nuôi trồng thủy sản.
- Tổ chức sơ kết, tổng kết
các mô hình, nhân rộng các điển hình tiên tiến.
- Cũng cố và tăng cường,
nâng cao chất lượng các hoạt động khuyến ngư. Thông qua các mạng lưới khuyến
ngư viên tự nguyện và các tổ trưởng cộng đồng để truyền đạt, áp dụng các tiến bộ
kỹ thuật vào sản xuất.
4. Về chính sách và nguồn
vốn đầu tư:
Đối với những hộ đạt tiêu
chí kinh tế trang trại, thì áp dụng theo cơ chế phát triển kinh tế trang trại để
hỗ trợ sản xuất theo cơ chế mà UBND tỉnh đã ban hành.
Khuyến khích các thành phần
kinh tế đầu tư vào sản xuất để nâng cao hiệu quả kinh tế. Khuyến khích các tổ cộng
đồng góp vốn thành lập quỹ để hỗ trợ sản xuất.
Vận dụng sự giúp đỡ của các
chương trình, dự án trong và ngoài nước; hoặc dưới các hình thức viện trợ, hỗ
trợ kỹ thuật các phương pháp nuôi có hiệu quả của các tổ chức tại các tổ cộng đồng.
Tranh thủ nguồn vốn Ngân
sách của Trung ương, của tỉnh để thực hiện đề án hỗ trợ thành lập các tổ cộng đồng,
đào tạo, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, xây dựng mô hình...
Ban hành cơ chế phòng chống
dịch bệnh và hỗ trợ cho các tổ cộng đồng trong trường hợp ao nuôi bị thiệt hại
do dịch bệnh, thiên tai, bão lũ.
5. Về thị trường tiêu thụ
sản phẩm:
Sản phẩm từ nuôi thủy sản nước
lợ có thị trường tiêu thụ nội địa và xuất khẩu là rất lớn. Khuyến khích các chủ
doanh nghiệp, các chủ nậu vựa ký kết các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm cho tổ cộng
đồng.
Xúc tiến xây dựng các vùng
nuôi sạch, xây dựng vùng nuôi an toàn theo các tiêu chuẩn đăng ký, đảm bảo an
toàn vệ sinh thực phẩm không ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng và đáp ứng
các yêu cầu, rào cản kỹ thuật của các thị trường nhập khẩu nước ngoài.
VII. TỔ
CHỨC QUẢN LÝ - THỰC HIỆN
1. Sở Nông nghiệp
&PTNT Quảng Nam: là cơ quan thường trực, trực tiếp phân công các đơn vị
trực thuộc và phối hợp với các huyện, thành phố nghề cá ven biển trong việc triển
khai thành lập và chỉ đạo sản xuất trong quá trình hình thành, phát triển các tổ
cộng đồng trong từng vùng nuôi; có trách nhiệm lập phương án xây dựng cơ sở hạ
tầng, hạn mục nhằm bảo vệ môi trường cho phát triển bền vững. Trước mắt phối hợp
với các địa phương trọng điểm thành lập các tổ cộng đồng thí điểm đối với nghề
nuôi thủy sản nước lợ.
Tiến hành xây dựng kế hoạch,
phương án và biện pháp triển khai thực hiện một cách cụ thể cho từng năm. Phối
hợp với Phòng Kinh tế, Phòng Nông nghiệp &PTNT các huyện, thành phố, ủy ban
nhân dân các xã, phường có nghề nuôi thủy sản nước lợ xây dựng đội ngũ khuyến
ngư viên tự nguyện tại các tổ cộng đồng, đồng thời theo dõi hướng dẫn các địa
phương tiếp tục triển khai nhân rộng các mô hình thí điểm trên địa bàn toàn tỉnh.
2. Sở tài nguyên và Môi
trường:
Cùng với các địa phương xúc
tiến nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nuôi trồng thủy sản cho
nhân dân.
Phối hợp với ngành Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn tăng cường công tác quản lý vệ sinh môi trường trong sản
xuất thủy sản.
3. Sở Tài chính:
Ưu tiên tăng nguồn vốn ngân
sách tập trung cho phát triển nuôi trồng thủy sản; các hoạt động của công tác
khuyến ngư, nhất là hỗ trợ nguồn kinh phí cho những người làm công tác Khuyến
ngư viên, cộng tác viên ở các xã, phường nghề cá.
4. Sở Kế hoạch và Đầu tư:
Tổng hợp các nguồn vốn các dự
án phát triển thủy sản, đồng thời tìm nguồn vốn và ưu tiên phân bổ vốn đầu tư
các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển NTTS và giống thủy sản.
5. UBND các huyện, thành
nghề cá:
- Chỉ đạo các phòng ban chức
năng, các tổ chức Hội, đoàn thể, UBND các xã, phường có nuôi trồng thủy sản nước
lợ tuyên truyền, giáo dục để các chủ hộ hiểu rõ tầm quan trọng, lợi ích thiết
thực của việc tổ chức sản xuất theo tổ cộng đồng.
- Chỉ đạo UBND các xã, phường
tổ chức hướng dẫn, quyết định thành lập và tổ chức quản lý các tổ cộng đồng
nuôi thủy sản nước lợ trên địa bàn xã, phường; hướng dẫn xây dựng và phê duyệt
qui ước, tổ chức chỉ đạo việc cam kết ràng buộc giữa các chủ hộ, báo cáo kết quả
thực hiện cho UBND huyện, thị xã để tổng hợp báo cáo gửi UBND tỉnh và Sở Nông
nghiệp &PTNT.
VIII. KẾT
LUẬN
Đề án Chiến lược quản lý
nuôi trồng thủy sản nước lợ theo hướng quản lý dựa vào cộng đồng tại Quảng Nam
giai đoạn (2008-2015) đã căn cứ vào hiện trạng phát triển nuôi trồng thủy sản
nước lợ trên địa bàn tỉnh; tiềm năng các nguồn lực hiện có của tỉnh, tình hình
thị trường và xu thế phát triển của ngành trong cả nước, của thế giới và khu vực
để đưa ra những phương hướng, mục tiêu, giải pháp chủ yếu nhằm đưa lĩnh vực
NTTS nước lợ phát triển theo hướng một cách bền vững, đáp ứng các yêu cầu về đảm
bảo vệ sinh môi trường, thực phẩm, phòng chống dịch bệnh và tăng hiệu quả sản
xuất cho người nuôi thủy sản nước lợ; góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Nam trong những năm đến.
Với nguyên tắc phát triển bền
vững, bên cạnh dựa vào tiềm năng nội lực hiện có, rất cần sự tiếp tục hỗ trợ
nhiều hơn nữa của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương, đồng thời
huy động được mọi nguồn lực của tỉnh để thực hiện thành công đề án quan trọng
này./.
|
TM. ỦY BAN
NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Nguyễn Ngọc Quang
|