NGHỊ ĐỊNH THƯ
VỀ VIỆC NGĂN NGỪA, PHÒNG CHỐNG VÀ TRỪNG TRỊ VIỆC BUÔN BÁN
NGƯỜI, ĐẶC BIỆT LÀ PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM, BỔ SUNG CÔNG ƯỚC VỀ CHỐNG TỘI PHẠM CÓ
TỔ CHỨC XUYÊN QUỐC GIA CỦA LIÊN HỢP QUỐC
(Được
thông qua và mở cho các quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết số
55/25 ngày 15/11/2000 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc)
Lời mở đầu
Các
quốc gia thành viên Nghị định thư này,
Tuyên
bố rằng hành động hiệu quả để ngăn ngừa và chống buôn bán người, đặc
biệt là phụ nữ và trẻ em, đòi hỏi một cách tiếp cận quốc tế toàn diện tại các
nước gốc, nước quá cảnh và nước đến, trong đó bao gồm những biện pháp để ngăn
ngừa việc buôn bán đó, để trừng trị những kẻ buôn bán người và để bảo vệ các nạn
nhân của những hành vi buôn bán đó, kể cả việc bảo vệ những quyền con người được
cộng đồng quốc tế thừa nhận.
Xét
đến một thực tế là dù đã có một loạt văn kiện quốc tế trong đó có
những quy tắc và biện pháp thiết thực để chống bóc lột con người, đặc biệt là
phụ nữ và trẻ em, nhưng vẫn chưa có một văn kiện có tính chất toàn cầu nào xử
lý tất cả các khía cạnh của việc buôn bán người.
Quan
ngại rằng vì thiếu một văn kiện như vậy, những người dễ bị tổn
thương bởi việc buôn bán người sẽ không được bảo vệ đầy đủ.
Nhắc
lại nghị quyết 53/111 ngày 09/12/1998 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc
trong đó Đại hội đồng đã quyết định thành lập một uỷ ban liên chính phủ đặc biệt
để soạn thảo một công ước quốc tế toàn diện chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia và để thảo luận về việc soạn thảo một văn kiện quốc tế, không kể những văn
kiện khác, xử lý việc buôn bán phụ nữ và trẻ em.
Tin
tưởng rằng việc bổ sung Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tội phạm
có tổ chức xuyên quốc gia bằng một văn kiện quốc tế về việc ngăn ngừa, chống và
trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, sẽ rất hữu ích
trong việc ngăn ngừa và chống loại tội phạm này,
Đã
thoả thuận như sau:
I. Các
điều khoản chung
1. Nghị định thư này bổ sung Công ước của Liên Hợp
Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Nghị định thư này sẽ được giải
thích cùng với Công ước.
2. Các quy định của Công ước được áp dụng cho
Nghị định thư này với những sửa đổi cần thiết, trừ trường hợp trong Nghị định
thư này có quy định khác.
3. Những hành vi phạm tội theo quy định tại điều
5 Nghị định thư này sẽ được coi là những hành vi phạm tội theo quy định trong
Công ước.
Mục đích của Nghị định thư này là:
a) ngăn chặn và chống việc buôn bán người, trong
đó đặc biệt chú ý đến phụ nữ và trẻ em;
b) bảo vệ và hỗ trợ các nạn nhân của việc buôn
bán này, cùng với việc tôn trọng đầy đủ các quyền con người của họ; và
c) thúc đẩy sự hợp tác giữa các quốc gia thành viên
để đạt được mục tiêu này.
Trong Nghị định thư này, những thuật ngữ dưới
đây được hiểu như sau:
a) "Buôn bán người" có nghĩa là việc
mua bán, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và nhận người nhằm mục đích bóc lột
bằng cách sử dụng hay đe doạ sử dụng vũ lực hay bằng các hình thức ép buộc, bắt
cóc, gian lận, lừa gạt, hay lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương hay
bằng việc đưa hay nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người
đang kiểm soát những người khác.
Hành vi bóc lột sẽ bao gồm, ít nhất, việc bóc lột mại dâm những người
khác hay những hình thức bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay phục
vụ cưỡng bức, nô lệ hay những hình thức tương tự nô lệ, khổ sai hoặc lấy các bộ
phận cơ thể;
b) Sự chấp thuận của một nạn nhân của việc buôn
bán người đối với sự bóc lột có chủ ý được nêu ra trong khoản (a) của điều này
là không thích đáng nếu bất kỳ cách thức nào nêu trong khoản (a) đã được sử dụng.
c) Việc mua, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hay
nhận một đứa trẻ nhằm mục đích bóc lột sẽ bị coi là "buôn bán người"
ngay cả khi việc này được thực hiện không cần dùng đến bất kỳ cách thức nào được
nói đến trong khoản (a) điều này;
d) "Trẻ em" có nghĩa là bất kỳ người
nào dưới 18 tuổi.
Trừ trường hợp có quy định khác, Nghị định thư
này sẽ áp dụng để ngăn ngừa, điều tra và truy tố các hành vi phạm tội quy định
tại điều 5 Nghị định thư, khi những hành vi phạm tội này có tính chất xuyên quốc
gia và liên quan đến một nhóm tội phạm có tổ chức cũng như để bảo vệ các nạn
nhân của những hành vi phạm tội này.
1. Mỗi quốc gia thành viên sẽ áp dụng những biện
pháp lập pháp cũng như các biện pháp khác khi cần thiết để hình sự hóa những
hành vi nêu tại điều 3 Nghị định thư này khi những hành vi này được thực hiện một
cách cố ý.
2. Mỗi quốc gia thành viên cũng sẽ áp dụng những
biện pháp lập pháp và các biện pháp khác khi cần thiết để hình sự hóa những
hành vi sau đây:
a) cố gắng thực hiện một hành vi phạm tội được
quy định tại khoản 1 của điều này, theo các khái niệm cơ bản trong hệ thống
pháp luật của quốc gia đó;
b) tham gia như một đồng phạm trong một hành vi
phạm tội được quy định tại khoản 1 của điều này; và
c) tổ chức hay chỉ đạo những người khác thực hiện
một hành vi phạm tội được quy định tại khoản 1 của điều này.
II. Bảo vệ
các nạn nhân của việc buôn bán người
1. Trong những trường hợp thích hợp và trong chừng
mực có thể theo pháp luật trong nước, mỗi quốc gia thành viên sẽ bảo vệ sự
riêng tư và nhân thân của các nạn nhân của việc buôn bán người bằng những biện
pháp, bao gồm, không kể những biện pháp khác, việc tiến hành tố tụng pháp lý đối
với hành vi buôn bán đó một cách bí mật.
2. Tuỳ từng trường hợp cụ thể, mỗi quốc gia
thành viên sẽ bảo đảm rằng hệ thống pháp luật và hành chính của nước mình có những
biện pháp để cung cấp cho các nạn nhân của việc buôn bán người:
a) thông tin thích hợp về toà án và thủ tục hành
chính;
b) sự hỗ trợ để các nạn nhân được trình bày các
quan điểm và mối quan ngại của họ và được xem xét trong những giai đoạn thích hợp
của quá trình tố tụng hình sự đối với người phạm tội, theo cách thức không làm ảnh
hưởng đến quyền bào chữa.
3. Mỗi quốc gia thành viên sẽ cân nhắc việc áp dụng
những biện pháp để các nạn nhân của việc buôn bán người có thể phục hồi về thể
chất, tinh thần và xã hội, tuỳ từng trường hợp cụ thể, bao gồm cả việc hợp tác
với các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức liên quan khác và các thiết chế xã hội
dân sự, và đặc biệt là cung cấp:
a) nơi ở thích hợp;
a) những hướng dẫn và thông tin, đặc biệt đối với
các quyền hợp pháp của các nạn nhân của việc buôn bán người bằng ngôn ngữ mà họ
có thể hiểu được;
c) hỗ trợ y tế, tinh thần và vật chất; và
d) các cơ hội việc làm, giáo dục và đào tạo.
4. Trong khi áp dụng các quy định của điều này,
mỗi quốc gia thành viên sẽ xem xét đến độ tuổi, giới tính và những nhu cầu đặc
biệt của nạn nhân của việc buôn bán người, cụ thể là những nhu cầu đặc biệt của
trẻ em, bao gồm cả nhà ở, giáo dục và sự chăm sóc thích hợp.
5. Mỗi quốc gia thành viên sẽ cố gắng bảo đảm sự
an toàn thân thể cho các nạn nhân của việc buôn bán người khi họ đang ở trong
lãnh thổ của quốc gia đó.
6. Mỗi quốc gia thành viên sẽ bảo đảm rằng trong
hệ thống pháp luật quốc gia của mình có các biện pháp giúp cho các nạn nhân của
việc buôn bán người có thể được đền bù cho những thiệt hại mà họ phải chịu.
1. Bên cạnh việc thực thi các biện pháp theo quy
định tại điều 6 của Nghị định thư này, mỗi quốc gia thành viên sẽ cân nhắc việc
áp dụng các biện pháp lập pháp và các biện pháp khác để các nạn nhân của việc
buôn bán người có thể được ở lại trên lãnh thổ của mình, tạm thời hay vĩnh viễn,
tuỳ từng trường hợp cụ thể.
2. Khi thực hiện quy định tại khoản 1 của điều
này, mỗi quốc gia thành viên sẽ xem xét thích đáng các yếu tố nhân đạo và nhân
ái.
1. quốc gia thành viên mà một nạn nhân của việc buôn
bán người là công dân hay có quyền thường trú ở đó tại thời điểm vào lãnh thổ của
quốc gia thành viên tiếp nhận sẽ tạo điều kiện và chấp nhận việc hồi hương của
người đó, có cân nhắc đầy đủ đến sự an toàn của người đó mà không có sự chậm trễ
vô lý hoặc không xác đáng nào.
2. Khi một quốc gia thành viên đưa một nạn nhân
của việc buôn bán người trở về một quốc gia thành viên mà người đó là công dân
hay có quyền thường trú ở đó tại thời điểm vào lãnh thổ của quốc gia thành viên
tiếp nhận, việc hồi hương này sẽ được xem xét cùng với sự an toàn của người đó
và tình trạng của bất kỳ thủ tục pháp lý nào liên quan đến việc người đó là nạn
nhân của hành vi buôn bán người và phải hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện.
3. Theo yêu cầu của quốc gia thành viên tiếp nhận,
quốc gia thành viên được yêu cầu sẽ xác minh người là nạn nhân của việc buôn
bán người đó có là công dân hay có quyền thường trú trên lãnh thổ của mình tại
thời điểm vào lãnh thổ của quốc gia thành viên tiếp nhận hay không, mà không có
sự chậm trễ vô lý hoặc không xác đáng nào.
4. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc hồi hương
của một nạn nhân của việc buôn bán người nhưng không có giấy tờ cần thiết, quốc
gia thành viên mà người đó là công dân hay có quyền thường trú ở đó tại thời điểm
nhập cảnh vào lãnh thổ của quốc gia thành viên tiếp nhận, theo yêu cầu của quốc
gia thành viên tiếp nhận, sẽ đồng ý cấp giấy tờ thông hành hay những giấy phép
khác cần thiết để người đó có thể đi lại và trở về lãnh thổ nước mình.
5. Điều này không làm phương hại đến bất kỳ quyền
nào của các nạn nhân của việc buôn bán người theo pháp luật quốc gia của quốc
gia thành viên tiếp nhận.
6. Điều này không làm phương hại đến bất kỳ hiệp
định hay thoả thuận song phương hay đa phương nào điều chỉnh, toàn bộ hay một
phần, việc hồi hương của các nạn nhân của việc buôn bán người.
III. Ngăn
ngừa, hợp tác và các biện pháp khác
1. Các quốc gia thành viên sẽ đề ra các chính
sách, chương trình toàn diện và các biện pháp khác để:
a) ngăn ngừa và chống việc buôn bán người; và
b) bảo vệ các nạn nhân của việc buôn bán người,
đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, không bị trở thành nạn nhân của việc buôn bán người
một lần nữa.
2. Các quốc gia thành viên sẽ nỗ lực thi hành
các biện pháp như nghiên cứu, thông tin và các chiến dịch truyền thông đại
chúng cũng như các sáng kiến xã hội và kinh tế để ngăn ngừa và chống hành vi
buôn bán người.
3. Các chính sách, chương trình và các biện pháp
khác được đề ra theo điều này, nếu thích hợp, sẽ bao gồm việc hợp tác với các tổ
chức phi chính phủ, các tổ chức liên quan khác và các thiết chế xã hội dân sự.
4. Các quốc gia thành viên sẽ thực hiện và tăng
cường các biện pháp, bao gồm việc thông qua hợp tác song phương hoặc đa phương,
để loại bỏ các nhân tố làm cho những người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, trở
thành các đối tượng dễ bị xâm hại của việc buôn bán người, chẳng hạn như nghèo
đói, kém phát triển và thiếu cơ hội bình đẳng.
5. Các quốc gia thành viên sẽ áp dụng hay tăng
cường các biện pháp lập pháp hay các biện pháp khác, chẳng hạn như các biện
pháp giáo dục, xã hội hay văn hoá, bao gồm việc thông qua sự hợp tác song
phương và đa phương, để ngăn chặn, giảm bớt những nhu cầu thúc đẩy các hình thức
bóc lột con người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, mà dẫn đến việc buôn bán người.
1. Các cơ quan hành pháp, nhập cư và các cơ quan
liên quan khác của các quốc gia thành viên, khi thích hợp, sẽ hợp tác với nhau
bằng cách trao đổi thông tin, phù hợp với pháp luật quốc gia mình, để có thể
xác định:
a) những cá nhân đi qua hay cố gắng đi qua biên
giới quốc tế với giấy tờ thông hành của người khác hay không có giấy tờ thông
hành là thủ phạm hay nạn nhân của việc buôn bán người;
b) những loại giấy tờ thông hành mà các cá nhân
đã sử dụng hay cố gắng sử dụng để đi qua biên giới quốc tế vì mục đích buôn bán
người; và
c) những phương tiện và biện pháp được các nhóm
tội phạm có tổ chức sử dụng vì mục đích buôn bán người, bao gồm việc tuyển mộ
và chuyên chở nạn nhân, các tuyến đường và mối liên kết giữa các các nhân và
các nhóm tham gia vào việc buôn bán người đó, và những biện pháp thích hợp để
phát hiện ra chúng.
2. Các quốc gia thành viên sẽ cung cấp hay tăng
cường việc đào tạo cho các cán bộ hành pháp hay quản lý nhập cư và các cán bộ
liên quan khác về ngăn ngừa buôn bán người. Các khoá đào tạo nên tập trung vào
các phương pháp được sử dụng để ngăn ngừa việc buôn bán người, truy tố những kẻ
buôn bán người và bảo vệ quyền của các nạn nhân, bao gồm bảo vệ các nạn nhân khỏi
những kẻ buôn bán người. Việc đào tạo cũng cần tính đến sự cần thiết phải xem
xét các quyền con người và những vấn đề nhạy cảm liên quan đến trẻ em và giới
tính và cần khuyến khích sự hợp tác với các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức
liên quan khác và các đơn vị xã hội dân sự.
3. Một quốc gia thành viên nhận được thông tin sẽ
tuân theo bất kỳ yêu cầu nào về việc hạn chế sử dụng thông tin đó mà quốc gia
thành viên đã cung cấp thông tin đưa ra.
1. Không làm phương hại đến các cam kết quốc tế
liên quan đến tự do đi lại của người dân, các quốc gia thành viên, trong chừng
mực có thể, tăng cường sự kiểm soát biên giới cần thiết để ngăn ngừa và phát hiện
việc buôn bán người.
2. Mỗi quốc gia thành viên phải áp dụng các biện
pháp lập pháp và các biện pháp khác để ngăn chặn việc các phương tiện vận chuyển
điều hành bởi các hãng vận chuyển thương mại bị sử dụng để thực hiện các hành
vi phạm tội được quy định tại điều 5 Nghị định thư này, trong chừng mực có thể.
3. Nếu thích hợp và không làm phương hại đến các
công ước quốc tế đang được áp dụng, những biện pháp như vậy sẽ bao gồm việc đặt
ra những nghĩa vụ cho các hãng vận chuyển thương mại, bao gồm bất kỳ một công
ty vận chuyển nào hay chủ sở hữu hoặc người điều khiển bất kỳ phương tiện vận
chuyển nào, để bảo đảm rằng mọi các hành khách đều có giấy tờ thông hành cần
thiết để nhập cảnh vào quốc gia tiếp nhận.
4. Mỗi quốc gia thành viên sẽ áp dụng những biện
pháp cần thiết, phù hợp với pháp luật quốc gia của mình, để trừng phạt các những
trường hợp vi phạm nghĩa vụ nêu ra tại khoản 3 điều này.
5. Phù hợp với pháp luật quốc gia của mình, mỗi
quốc gia thành viên sẽ xem xét việc áp dụng các biện pháp cho phép từ chối cho
nhập cảnh hay thu hồi thị thực của những người liên quan đến việc thực hiện các
hành vi phạm tội theo quy định của Nghị định thư này.
6. Không làm phương hại đến điều 27 của Công ước,
các quốc gia thành viên xem xét việc tăng cường hợp tác giữa các cơ quan kiểm
soát biên giới bằng cách thiết lập và duy trì các kênh thông tin trực tiếp bên
cạnh những phương thức khác.
Mỗi quốc gia thành viên sẽ áp dụng những biện
pháp cần thiết trong phạm vi các phương tiện sẵn có để:
a) bảo đảm rằng các giấy tờ thông hành hoặc nhận
dạng do mình cung cấp có đặc tính không thể dễ dàng bị sử dụng sai mục đích và
không thể dễ dàng bị giả mạo hoặc thay đổi, sao chép hay cấp một cách bất hợp
pháp; và
b) bảo đảm tính toàn vẹn và an toàn của các giấy
tờ thông hành hay nhận dạng được cấp bởi quốc gia thành viên đó hay cấp thay mặt
quốc gia thành viên đó và ngăn ngừa việc tạo ra, cấp và sử dụng những giấy tờ
này một cách bất hợp pháp.
Theo yêu cầu của một quốc gia thành viên khác, một
quốc gia thành viên, phù hợp với pháp luật quốc gia của mình và trong một thời
hạn hợp lý, sẽ xác minh tính hợp pháp và giá trị pháp lý của các giấy tờ thông
hành hoặc nhận dạng được cấp hay dường như được cấp nhân danh quốc gia đó và bị
nghi ngờ là đang được sử dụng vào việc buôn bán người.
IV. Các
điều khoản cuối cùng
1. Không một quy định nào trong Nghị định thư
này ảnh hưởng đến các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm khác của các quốc gia và
cá nhân theo quy định của luật pháp quốc tế, bao gồm luật nhân đạo quốc tế và
luật quốc tế về quyền con người và cụ thể là, nếu có thể áp dụng được, Công ước
năm 1951 và Nghị định thư năm 1967 về Vị thế của người tị nạn và nguyên tắc
không đẩy trở lại được quy định trong đó.
2. Các biện pháp được nêu trong Nghị định thư
này sẽ không được giải thích và áp dụng theo cách phân biệt đối xử đối với một
người với lý do người này là nạn nhân của việc buôn bán người. Việc giải thích
và áp dụng những biện pháp đó phải phù hợp với các nguyên tắc không phân biệt đối
xử được quốc tế công nhận.
1. Các quốc gia thành viên sẽ cố gắng giải quyết
các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Nghị định thư này thông
qua thương lượng.
2. Bất kỳ tranh chấp nào giữa hai hay nhiều quốc
gia thành viên liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Nghị định thư này mà
không thể giải quyết thông qua thương lượng trong một thời gian thích hợp sẽ được
đưa ra toà trọng tài theo đề nghị của một trong các quốc gia thành viên đó. Nếu
sau sáu tháng kể từ ngày yêu cầu đưa ra trọng tài giải quyết mà các quốc gia
thành viên này không thể thỏa thuận về tổ chức của toà trọng tài, bất kỳ một
trong các quốc gia thành viên này đều có thể yêu cầu đưa tranh chấp ra Toà án
Công lý quốc tế theo Quy chế của Toà án.
3. Mỗi quốc gia thành viên, vào thời điểm ký,
phê chuẩn, chấp thuận hay phê duyệt hoặc gia nhập Nghị định thư này, đều có thể
tuyên bố rằng quốc gia đó không bị ràng buộc bởi khoản 2 điều này. Các quốc gia
thành viên khác sẽ không bị ràng buộc với khoản 2 điều này đối với bất kỳ quốc
gia nào đã đưa ra bảo lưu như vậy.
4. Bất kỳ quốc gia thành viên nào đã đưa ra một
bảo lưu theo quy định tại khoản 3 điều này có thể rút bảo lưu đó vào bất kỳ lúc
nào bằng cách thông báo cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
1. Nghị định thư này sẽ được mở cho tất các các
quốc gia ký từ ngày 12 đến ngày 15/12/2000 tại Palermo, Italia và sau đó tại trụ
sở Liên Hợp Quốc tại New York cho đến ngày 12/12/2002.
2. Nghị định thư này cũng sẽ được mở cho các tổ
chức hội nhập kinh tế khu vực ký với điều kiện là có ít nhất một quốc gia thành
viên của tổ chức đó đã ký Nghị định thư này theo quy định tại khoản 1 điều này.
3. Nghị định thư này phải được phê chuẩn, chấp
thuận hay phê duyệt. Văn kiện phê chuẩn, chấp thuận hay phê duyệt sẽ được nộp
lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Một tổ chức hội nhập kinh tế khu vực
có thể nộp lưu chiểu văn kiện phê chuẩn, chấp thuận hay phê duyệt nếu có ít nhất
một quốc gia thành viên của mình đã làm như vậy. Trong văn kiện phê chuẩn, chấp
thuận hay phê duyệt, tổ chức đó sẽ tuyên bố phạm vi thẩm quyền của mình đối với
những vấn đề mà Nghị định thư này điều chỉnh. Tổ chức đó cũng sẽ thông báo cho
cơ quan lưu chiểu bất kỳ sửa đổi liên quan nào về phạm vi thẩm quyền của mình.
4. Nghị định thư này được mở để bất kỳ một quốc
gia hay tổ chức hội nhập kinh tế khu vực nào đã có ít nhất một quốc gia thành
viên của mình là thành viên của Nghị định thư, gia nhập. Các văn kiện gia nhập
sẽ được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Tại thời điểm gia nhập, một
tổ chức hội nhập kinh tế khu vực sẽ tuyên bố phạm vi thẩm quyền của mình đối với
các vấn đề mà Nghị định thư này điều chỉnh. Tổ chức đó cũng sẽ thông báo cho cơ
quan lưu chiểu bất kỳ sửa đổi nào liên quan đến phạm vi thẩm quyền của mình.
1. Nghị định thư này bắt đầu có hiệu lực vào
ngày thứ 90 sau ngày văn kiện phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hay gia nhập thứ
40 được nộp lưu chiểu, trừ việc Nghị định thư này sẽ không bắt đầu có hiệu lực
trước khi Công ước bắt đầu có hiệu lực. Vì mục đích của khoản này, bất kỳ văn
kiện nào mà một tổ chức hội nhập kinh tế khu vực nộp lưu chiểu sẽ không được
tính thêm với những văn kiện được nộp lưu chiểu bởi các quốc gia thành viên của
tổ chức đó.
2. Đối với mỗi quốc gia hay tổ chức hội nhập
kinh tế khu vực đã phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hay gia nhập Nghị định thư
này sau khi văn kiện thứ 40 được nộp lưu chiểu, Nghị định thư này sẽ bắt đầu có
hiệu lực vào ngày thứ 30 sau ngày quốc gia hay tổ chức đó nộp văn kiện liên
quan hay vào ngày mà Nghị định thư này có hiệu lực theo khoản 1 điều này, nếu
như thời điểm này diễn ra sau.
1. Sau năm năm kể từ ngày Nghị định thư này bắt đầu
có hiệu lực, một quốc gia thành viên của Nghị định thư có thể đề xuất sửa đổi
và gửi đề xuất này đến Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Tổng thư ký sau đó sẽ thông
báo đề xuất sửa đổi đó cho các quốc gia thành viên và cho Hội nghị các quốc gia
thành viên Công ước để xem xét và quyết định về đề xuất này. Các quốc gia thành
viên Nghị định thư tham dự Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước sẽ cố gắng
đạt được sự đồng thuận về mọi sửa đổi. Nếu mọi cố gắng đạt được đồng thuận đã
được thực hiện đến cùng mà không đạt được một thoả thuận nào, sửa đổi sẽ được
thông qua, như phương thức cuối cùng, nếu đạt 2/3 đa số phiếu của các quốc gia
thành viên Nghị định thư có mặt và bỏ phiếu tại cuộc họp của Hội nghị các quốc
gia thành viên.
2. Các tổ chức hội nhập kinh tế khu vực, trong
những vấn đề thuộc phạm vi thẩm quyền của mình, sẽ thực hiện quyền bỏ phiếu
theo điều này với số phiếu bằng với số lượng quốc gia thành viên của mình là
thành viên của Nghị định thư này. Các tổ chức đó sẽ không thực hiện quyền bỏ
phiếu của mình nếu các quốc gia thành viên của tổ chức đó đã thực hiện quyền bỏ
phiếu của họ và ngược lại.
3. Một sửa đổi được thông qua theo khoản 1 điều
này phải được các quốc gia thành viên phê chuẩn, chấp thuận hay phê duyệt.
4. Một sửa đổi được thông qua theo khoản 1 điều
này sẽ bắt đầu có hiệu lực đối với một quốc gia thành viên sau 90 ngày kể từ
ngày văn kiện phê chuẩn, chấp thuân hay phê duyệt sửa đổi đó được nộp lưu chiểu
cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
5. Khi một sửa đổi bắt đầu có hiệu lực, nó sẽ
ràng buộc những quốc gia thành viên đã bày tỏ sự chấp thuận ràng buộc bởi sửa đổi
đó. Các quốc gia thành viên khác sẽ chỉ bị ràng buộc bởi những quy định của Nghị
định thư này và bất kỳ sửa đổi nào trước đó mà họ đã phê chuẩn, chấp thuận hay
phê duyệt.
1. Một quốc gia thành viên có thể rút khỏi Nghị
định thư này bằng một thông báo bằng văn bản gửi cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
Việc rút khỏi Nghị định thư sẽ có hiệu lực sau một năm kể từ ngày ngày Tổng thư
ký nhận được thông báo.
2. Một tổ chức hội nhập kinh tế quốc tế sẽ không
còn là thành viên của Nghị định thư này khi tất cả các quốc gia thành viên của
mình đã rút khỏi Nghị định thư.
1. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc được chỉ định là cơ
quan lưu chiểu Nghị định thư này.
2. Bản gốc của Nghị định thư này được làm bằng
tiếng Ả-rập, tiếng Trung, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Tây Ban Nha
đều có giá trị như nhau và được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
Để làm bằng, những người đại diện toàn quyền có
tên dưới đây đã được uỷ quyền hợp lệ bởi Chính phủ của họ, đã ký Nghị định thư
này.