NGHỊ ĐỊNH THƯ
VỀ CHỐNG ĐƯA NGƯỜI DI CƯ TRÁI PHÉP BẰNG ĐƯỜNG BỘ, ĐƯỜNG BIỂN
VÀ ĐƯỜNG KHÔNG, BỔ SUNG CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ CHỐNG TỘI PHẠM CÓ TỔ
CHỨC XUYÊN QUỐC GIA, 2000
(Được thông qua và mở cho các quốc gia
ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết số 55/25 ngày 15/11/2000 của Đại hội
đồng Liên Hợp Quốc)
Lời
nói đầu
Các
quốc gia thành viên của Nghị định thư này,
Tuyên
bố rằng hành động hữu hiệu để ngăn ngừa và đấu tranh chống việc đưa
người di cư trái phép bằng đường bộ, đường biển và đường không đòi hỏi một cách
tiếp cận quốc tế toàn diện, bao gồm việc hợp tác, trao đổi thông tin và các biện
pháp thích hợp khác, kể cả các biện pháp kinh tế-xã hội, ở cấp độ quốc gia, khu
vực và quốc tế,
Nhắc
lại Nghị quyết số 54/212 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ngày
22/12/1999, trong đó Đại hội đồng kêu gọi các quốc gia thành viên và hệ thống
Liên Hợp Quốc tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực di cư quốc tế và phát
triển để giải quyết các nguyên nhân sâu xa của việc di cư, đặc biệt là những
nguyên nhân liên quan tới nghèo đói, và để tối đa hoá lợi ích của di cư quốc tế
cho các bên liên quan, và khuyến khích, nếu thích hợp, các cơ chế liên khu vực,
khu vực và tiểu khu vực tiếp tục giải quyết vấn đề di cư và phát triển,
Tin
tưởng vào sự cần thiết phải đối xử nhân đạo và bảo vệ đầy đủ các
quyền của người di cư,
Xét
đến thực tế là, mặc dù công việc đã được tiến hành tại các diễn đàn
quốc tế khác, chưa có một văn kiện có tính chất toàn cầu nào đề cập đến mọi
khía cạnh của việc đưa người di cư trái phép và các vấn đề liên quan khác,
Lo
ngại về mức độ gia tăng nhanh chóng trong các hoạt động của các
nhóm tội phạm có tổ chức chuyên đưa người di cư trái phép và các hoạt động tội
phạm liên quan khác được quy định trong Nghị định thư này, có ảnh hưởng nghiêm
trọng tới các quốc gia liên quan,
Cũng
lo ngại rằng việc đưa người di cư trái phép có thể làm nguy hại tới
cuộc sống và an toàn của những người di cư liên quan,
Nhắc
lại Nghị quyết số 53/111 của Đại hội đồng ngày 9/12/1998, trong đó
Đại hội đồng quyết định thành lập một uỷ ban liên chính phủ đặc biệt nhằm soạn
thảo một công ước quốc tế toàn diện về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia
và thảo luận việc soạn thảo, không kể những văn kiện khác, một văn kiện quốc tế
xử lý nạn buôn bán và đưa người di cư trái phép, kể cả bằng đường biển.
Tin
tưởng rằng việc bổ sung cho Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tội
phạm có tổ chức xuyên quốc gia bằng một văn kiện quốc tế về chống đưa người di
cư trái phép bằng đường bộ, đường biển và đường không sẽ rất hữu ích trong việc
ngừa và chống loại tội phạm này,
Đã
thoả thuận như sau:
I. Các điều khoản chung
Điều 1. Quan hệ với Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tội
phạm có tổ chức xuyên quốc gia
1. Nghị định thư này bổ sung cho Công ước của
Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Nghị định thư này được
giải thích cùng với Công ước.
2. Các quy định của Công ước được áp dụng cho
Nghị định thư này với những sửa đổi cần thiết, trừ trường hợp Nghị định thư này
có quy định khác.
3. Những hành vi phạm tội được theo quy định tại
Điều 6 Nghị định thư này sẽ được coi là hành vi phạm tội theo quy định trong
Công ước.
Điều 2. Mục đích của Nghị định thư
Mục đích của Nghị định thư này là nhằm ngăn ngừa
và chống việc đưa người di cư trái phép, cũng như tăng cường việc hợp tác giữa
các quốc gia thành viên để thực hiện mục đích này, đồng thời bảo vệ quyền lợi của
những người di cư bị đưa đi trái phép.
Điều 3. Các thuật ngữ được sử dụng
Trong Nghị định thư này các thuật ngữ được sử dụng
như sau:
(a) “Đưa người di cư trái phép” nghĩa là việc
giao dịch, để đạt được trực tiếp hoặc gián tiếp lợi ích về tài chính hoặc lợi
ích vật chất khác từ việc một người nhập cảnh trái phép vào một quốc gia thành
viên mà người này không phải là công dân của quốc gia đó hoặc thường trú tại quốc
gia đó;
(b) “Nhập cảnh trái phép” nghĩa là vượt qua biên
giới mà không tuân thủ các yêu cầu cần thiết đối với việc nhập cảnh hợp pháp
vào quốc gia tiếp nhận;
(c) “Giấy tờ thông hành hoặc nhận dạng gian lận”
nghĩa là bất kỳ giấy tờ thông hành hay nhận dạng:
(i) Đã được làm giả hoặc sửa đổi bằng một cách hữu
hình nào đó bởi một người không phải là cá nhân hay tổ chức được ủy quyền hợp
pháp làm hoặc cấp giấy tờ thông hành hoặc nhận dạng thay mặt cho một quốc gia;
hoặc
(ii) Đã được cấp hoặc lấy được không đúng cách
thông qua việc xuyên tạc, hối lộ hoặc cưỡng ép hoặc bằng bất kỳ cách thức bất hợp
pháp nào khác; hoặc
(iii) Do một người không phải là người nắm giữ hợp
pháp sử dụng;
(d) “Tàu” nghĩa là bất kỳ một loại tàu thuỷ nào,
kể cả tàu không có trọng lượng nước rẽ và thủy phi cơ, được sử dụng hoặc có thể
được sử dụng như một phương tiện vận chuyển bằng đường thuỷ, ngoại trừ tàu chiến,
các phương tiện của hải quân hoặc các loại tàu khác do nhà nước sở hữu hoặc vận
hành và được dùng, trong thời gian hiện hành, chỉ để cho dịch vụ phi thương mại
của chính phủ.
Điều 4. Phạm vi áp dụng
Nghị định thư này sẽ được áp dụng, trừ trường hợp
có quy định khác, để ngăn ngừa, điều tra và truy tố các hành vi phạm tội được
quy định tại Điều 6 Nghị định thư này, khi những hành vi phạm tội này có tính
chất xuyên quốc gia và liên quan tới một nhóm tội phạm có tổ chức, cũng như để
bảo vệ quyền của những người là đối tượng của các hành vi phạm tội này.
Điều 5. Trách nhiệm hình sự của người di cư
Người di cư sẽ không bị truy tố trách nhiệm hình
sự theo Nghị định này vì họ là đối tượng của hành vi được quy định tại Điều 6
Nghị định này.
Điều 6. Hình sự hoá
1. Mỗi quốc gia thành viên sẽ áp dụng các biện
pháp lập pháp và các biện pháp khác nếu cần thiết để hình sự hóa các hành vi dưới
đây, khi chúng được thực hiện một cách cố ý và nhằm đạt được trực tiếp hoặc
gián tiếp một lợi ích tài chính hoặc lợi ích vật chất khác:
(a) Đưa người di cư trái phép;
(b) Khi thực hiện các hành vi sau với mục đích tạo
điều kiện cho việc đưa người di cư trái phép:
(i) Làm giả giấy tờ thông hành hoặc nhận dạng;
(ii) Mua, cung cấp hoặc chiếm hữu giấy tờ đó;
(c) Tạo điều kiện để một người không phải là
công dân hoặc người thường trú có thể ở lại quốc gia liên quan mà không tuân thủ
các yêu cầu cần thiết để ở lại một cách hợp pháp trong quốc gia này bằng các biện
pháp được nhắc tới trong đoạn (b) của khoản này hoặc bằng bất kỳ biện pháp bất
hợp pháp nào khác.
2. Mỗi quốc gia thành viên sẽ áp dụng các biện
pháp lập pháp và các biện pháp khác nếu cần thiết để hình sự hóa các hành vi dưới
đây:
(a) Cố gắng thực hiện một hành vi phạm tội được
quy định tại khoản 1 của điều này, theo các khái niệm cơ bản trong hệ thống
pháp luật của quốc gia đó;
(b) Tham gia như một đồng phạm trong một hành vi
phạm tội được quy định tại khoản 1 (a), (b) (i) hoặc (c) của điều này, và theo
các khái niệm cơ bản trong hệ thống pháp luật của quốc gia đó, tham gia như một
đồng phạm trong một hành vi phạm tội được xác định theo khoản 1 (b) (ii) của điều
này;
(c) Tổ chức hoặc chỉ đạo những người khác thực
hiện một hành vi phạm tội được xác định theo khoản 1 của điều này.
3. Mỗi quốc gia thành viên sẽ áp dụng các biện
pháp lập pháp và các biện pháp khác nếu cần thiết để xác định các tình tiết
tăng nặng đối với các hành vi phạm tội được quy định tại khoản 1 (a), (b) (i)
và (c) của điều này và, theo các khái niệm cơ bản trong hệ thống pháp luật của
quốc gia đó, đối với các hành vi phạm tội được quy định tại khoản 2 (b) và (c)
của điều này, những tình tiết sau:
(a) Đe dọa, hoặc có khả năng đe dọa cuộc sống
hay sự an toàn của những người di cư liên quan; hoặc
(b) Dẫn đến sự đối xử vô nhân đạo hoặc hạ thấp
nhân phẩm, kể cả để bóc lột những người di cư này.
4. Không một quy định nào trong Nghị định này
ngăn cản một quốc gia thành viên áp dụng các biện pháp chống lại một người mà
hành vi của người đó cấu thành một tội phạm theo pháp luật trong nước của quốc
gia đó.
II. Đưa người di cư bất hợp pháp bằng đường biển
Điều 7. Hợp tác
Các quốc gia thành viên sẽ hợp tác trong chừng mực
tối đa có thể để ngăn ngừa và chống việc đưa người di cư bất hợp pháp bằng đường
biển, phù hợp với Luật biển quốc tế.
Điều 8. Các biện pháp chống việc đưa người di cư bất hợp
pháp bằng đường biển
1. Nếu một quốc gia thành viên có những cơ sở hợp
lý để nghi ngờ rằng một con tàu đang treo cờ của quốc gia đó hoặc khai báo đăng
ký tại quốc gia đó, hoặc con tàu đó không có quốc tịch hoặc, mặc dù treo cờ nước
ngoài hoặc từ chối treo cờ nhưng trên thực tế có quốc tịch của quốc gia thành
viên đó, được sử dụng để đưa người di cư trái phép bằng đường biển, thì quốc
gia đó có thể yêu cầu sự giúp đỡ của các quốc gia thành viên khác để ngăn ngừa
việc sử dụng con tàu cho mục đích này. Các quốc gia thành viên được yêu cầu phải
hỗ trợ trong chừng mực có thể trong phạm vi các phương tiện của mình.
2. Nếu một quốc gia thành viên có những cơ sở hợp
lý để nghi ngờ rằng một con tàu đang thực hiện quyền tự do qua lại phù hợp với
luật pháp quốc tế và đang treo cờ hoặc hiển thị các dấu hiệu đăng ký thuộc một
quốc gia thành viên khác, được sử dụng vào việc đưa người di cư trái phép bằng
đường biển, thì quốc gia đó có thể thông báo cho quốc gia mà tàu treo cờ, yêu cầu
xác nhận đăng ký của con tàu đó và, nếu đã xác nhận được, quốc gia đó có thể
yêu cầu quốc gia mà tàu treo cờ uỷ quyền cho mình thực hiện các biện pháp thích
hợp đối với con tàu đó. Quốc gia mà tàu treo cờ có thể uỷ quyền cho quốc gia
yêu cầu thực hiện các biện pháp sau, không kể những biện pháp khác:
(a) Lên con tàu đó;
(b) Khám xét tàu; và
(c) Nếu phát hiện ra bằng chứng cho thấy con tàu
đó đang được sử dụng vào việc đưa người di cư trái phép bằng đường biển, có thể
áp dụng các biện pháp thích hợp đối với tàu, người và hàng hoá trên tàu, như đã
được quốc gia mà tàu treo cờ uỷ quyền.
3. Một quốc gia thành viên đã áp dụng bất kỳ biện
pháp nào phù hợp với khoản 2 của điều này phải thông báo ngay lập tức cho quốc
gia mà tàu treo cờ liên quan về kết quả của các biện pháp đó.
4. Một quốc gia thành viên phải đáp ứng nhanh
chóng yêu cầu của một quốc gia thành viên khác nhằm xác định một con tàu khai
báo đăng ký hoặc đang treo cờ của quốc gia đó có hay không có quyền làm như vậy
và đáp ứng nhanh chóng yêu cầu được uỷ quyền theo khoản 2 của điều này.
5. Một quốc gia mà tàu treo cờ, phù hợp với điều
7 của Nghị định thư này, có thể uỷ quyền theo các điều kiện được thỏa thuận với
quốc gia yêu cầu ủy quyền, bao gồm các điều kiện liên quan tới trách nhiệm và
phạm vi các biện pháp hữu hiệu sẽ được thực hiện. Một quốc gia thành viên sẽ
không áp dụng bất kỳ biện pháp bổ sung nào mà không được sự uỷ quyền của quốc
gia mà tàu treo cờ, ngoại trừ các biện pháp cần thiết để tránh sự nguy hiểm sẽ
xảy ra với sinh mạng của con người hoặc ngoại trừ các biện pháp được quy định
trong các thoả thuận song phương hoặc đa phương liên quan.
6. Mỗi quốc gia thành viên sẽ chỉ định một một
hoặc nhiều cơ quan có thẩm quyền nếu cần thiết để tiếp nhận và đáp ứng các yêu
cầu tương trợ đối với việc xác nhận đăng ký hoặc quyền của con tàu treo cờ của
quốc gia đó và đối với yêu cầu được uỷ quyền để thực hiện các biện pháp thích hợp.
Việc chỉ định này phải được thông báo cho tất cả các quốc gia thành viên thông
qua Tổng thư ký trong vòng một tháng kể từ ngày chỉ định.
7. Nếu một quốc gia thành viên có những cơ sở hợp
lý để nghi ngờ rằng một con tàu đang được sử dụng để đưa người di cư trái phép
bằng đường biển và con tàu đó không có quốc tịch hoặc có thể coi là tàu không
quốc tịch, thì quốc gia đó có thể lên tàu và khám xét tàu. Nếu tìm thấy bằng chứng
xác nhận sự nghi ngờ, quốc gia thành viên đó phải áp dụng các biện pháp cần thiết
phù hợp với luật quốc gia và quốc tế liên quan.
Điều 9. Các điều khoản an toàn
1. Nếu một quốc gia thành viên áp dụng các biện
pháp đối với một con tàu theo điều 8 của Nghị định thư này, quốc gia này phải:
(a) Bảo đảm an toàn và đối xử nhân đạo đối với
những người trên tàu;
(b) Lưu tâm thích đáng tới sự cần thiết không
làm phương hại an toàn của con tàu hoặc hàng hoá trên tàu;
(c) Lưu tâm thích đáng tới sự cần thiết không
làm phương hại lợi ích thương mại hoặc pháp lý của quốc gia mà tàu treo cờ hoặc
bất kỳ một quốc gia liên quan nào khác;
(d) Trong phạm vi các phương tiện sẵn có, bảo đảm
rằng các biện pháp được áp dụng đối với con tàu là hợp lý về mặt môi trường.
2. Nếu những cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp
phù hợp với điều 8 của Nghị định thư này là vô căn cứ, con tàu sẽ được bồi thường
đối với bất kỳ mất mát hoặc hư hại nào, với điều kiện con tàu này không thực hiện
bất kỳ hành vi nào chống lại các biện pháp được áp dụng.
3. Bất kỳ biện pháp nào được thực hiện, áp dụng
hoặc triển khai phù hợp với chương này phải lưu tâm thích đáng tới sự cần thiết
không can thiệp hoặc ảnh hưởng tới:
(a) Quyền và nghĩa vụ và việc thực hiện quyền
tài phán của các quốc gia ven biển phù hợp với luật biển quốc tế, hoặc
(b) Cơ quan có thẩm quyền của quốc gia mà tàu
treo cờ thực hiện quyền tài phán và kiểm soát hành chính, kỹ thuật và xã hội
liên quan tới con tàu.
4. Bất kỳ biện pháp nào được thực hiện trên biển
theo các quy định trong chương này chỉ được tiến hành bằng tàu chiến hoặc máy
bay quân sự, hoặc bằng bất kỳ một con tàu hoặc máy bay nào khác có dấu hiệu rõ
ràng và có thể nhận biết được là của chính phủ và được quyền thực hiện biện
pháp đó.
III. Ngăn ngừa, hợp tác và các biện pháp khác
Điều 10. Thông tin
1. Không làm phương hại tới các điều
27 và 28 của Công ước, nhằm thực hiện các mục đích của Nghị định thư này,
các quốc gia thành viên, đặc biệt là các quốc gia có chung đường biên giới hoặc
nằm trên tuyến đường mà người di cư được đưa đi bất hợp pháp, phù hợp với hệ thống
pháp luật quốc gia và các hệ thống hành chính của mỗi nước, sẽ trao đổi với
nhau các thông tin liên quan đến những vấn đề sau:
(a) Các địa điểm lên tàu và các địa điểm đến,
cũng như các tuyến đường, các phương tiện và biện pháp vận chuyển, được biết hoặc
nghi ngờ là đang được sử dụng bởi một nhóm tội phạm có tổ chức tham gia thực hiện
các hành vi được quy định tại điều 6 Nghị định thư này;
(b) Dấu hiệu nhận biết và các biện pháp của các
tổ chức hoặc nhóm tội phạm có tổ chức được biết hoặc nghi ngờ là đang tham gia
thực hiện được sử dụng các hành vi được quy định tại điều 6 Nghị định thư này;
(c) Tính xác thực và mẫu hợp thức của các giấy tờ
thông hành được cấp bởi một quốc gia thành viên và việc lấy cắp hoặc sử dụng
sai mục đích các giấy tờ thông hành hoặc nhận dạng trắng;
(d) Các phương tiện hoặc các biện pháp che dấu
và chuyên chở người, việc sửa đổi, tái chế hoặc sở hữu bất hợp pháp hoặc việc sử
dụng sai mục đích khác các giấy loại giấy tờ thông hành hoặc nhận dạng cho các
hành vi được quy định tại điều 6 Nghị định thư này và các biện pháp để phát hiện
chúng;
(e) Các kinh nghiệm và thực tiễn lập pháp và các
biện pháp để ngăn ngừa và chống các hành vi được quy định tại điều 6 Nghị định
thư này; và
(f) Các thông tin khoa học và kỹ thuật hữu ích
cho việc thực thi pháp luật, để có thể tăng cường khả năng trong việc ngăn ngừa,
phát hiện và điều tra các hành vi được quy định tại điều 6 Nghị định thư này và
để truy tố những người liên quan.
2. Một quốc gia thành viên nhận được thông tin sẽ
tuân thủ bất kỳ yêu cầu nào của quốc gia thành viên cung cấp thông tin về các
điều kiện hạn chế trong khi sử dụng thông tin đó.
Điều 11. Các biện pháp tại biên giới
1. Không làm phương hại tới các cam kết quốc tế
liên quan đến việc tự do đi lại của người dân, các quốc gia thành viên, trong
chừng mực có thể, tăng cường các biện pháp kiểm soát biên giới cần thiết để
ngăn ngừa và phát hiện việc đưa người di cư trái phép.
2. Mỗi quốc gia thành viên phải áp dụng các biện
pháp lập pháp và các biện pháp phù hợp khác để ngăn chặn việc các phương tiện vận
chuyển điều hành bởi các hãng vận chuyển thương mại bị sử dụng để thực hiện các
hành vi phạm tội được quy định tại khoản 1(a) điều 6 Nghị định thư này, trong
chừng mực có thể.
3. Nếu thích hợp, và không làm phương hại tới các
công ước quốc tế đang được áp dụng, những biện pháp như vậy sẽ bao gồm việc đặt
ra những nghĩa vụ cho các hãng vận chuyển thương mại, bao gồm bất kỳ công ty vận
chuyển nào hay chủ sở hữu hoặc người điều khiển bất kỳ phương tiện vận chuyển
nào, phải bảo đảm rằng mọi hành khách đều có giấy tờ thông hành cần thiết để nhập
cảnh vào quốc gia tiếp nhận.
4. Mỗi quốc gia thành viên sẽ áp dụng những biện
pháp cần thiết, phù hợp với pháp luật quốc gia của mình, để trừng phạt các trường
hợp vi phạm nghĩa vụ được quy định tại khoản 3 của điều này.
5. Phù hợp với pháp luật quốc gia của mình, mỗi
quốc gia thành viên sẽ xem xét việc áp dụng các biện pháp cho phép từ chối cho
nhập cảnh hoặc thu hồi thị thực của những người liên quan đến việc thực hiện
các hành vi phạm tội được xác định theo các quy định của Nghị định thư này.
6. Không làm phương hại tới điều 27 của Công ước, các quốc gia thành viên xem xét việc tăng cường hợp tác giữa
các cơ quan kiểm soát biên giới bằng cách thiết lập và duy trì các kênh thông
tin trực tiếp, bên cạnh những phương thức khác.
Điều 12. An ninh và kiểm soát giấy tờ
Mỗi quốc gia thành viên sẽ áp dụng các biện pháp
cần thiết trong phạm vi các phương tiện sẵn có để:
(a) Bảo đảm rằng các giấy tờ thông hành hoặc nhận
dạng do mình cấp có đặc tính không thể dễ dàng bị sử dụng sai mục đích và không
thể dễ dàng hoặc bị giả mạo hoặc thay đổi, sao chép hay cấp một cách bất hợp
pháp; và
(b) Bảo đảm tính toàn vẹn và an toàn của các giấy
tờ thông hành hoặc nhận dạng được cấp bởi quốc gia thành viên đó hay cấp thay mặt
quốc gia thành viên đó và ngăn ngừa việc tạo ra, cấp hoặc sử dụng những giấy tờ
này một cách bất hợp pháp.
Điều 13. Tính hợp pháp và giá trị pháp
lý của các giấy tờ
Theo yêu cầu của một quốc gia thành viên khác, một
quốc gia thành viên, phù hợp với pháp luật quốc gia của mình và trong một thời
hạn hợp lý, sẽ xác minh tính hợp pháp và giá trị pháp lý của các giấy tờ thông
hành hoặc nhận dạng được cấp hoặc dường như được cấp nhân danh quốc gia đó và bị
nghi ngờ là đang được sử dụng để thực hiện các hành vi được quy định tại điều 6
Nghị định thư này.
Điều 14. Đào tạo và hợp tác kỹ thuật
1. Các quốc gia thành viên phải cung cấp hoặc
tăng cường đào tạo chuyên sâu cho các cán bộ quản lý nhập cư và cán bộ liên
quan khác về ngăn ngừa các hành vi được quy định tại điều 6 Nghị định thư này
và đối xử nhân đạo đối với người di cư là đối tượng của các hành vi đó, đồng thời
tôn trọng các quyền của người di cư theo các quy định trong Nghị định thư này.
2. Các quốc gia thành viên sẽ hợp tác với nhau
và với các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức
liên quan khác và các đơn vị xã hội dân sự khác liên quan để bảo đảm việc đào tạo
đầy đủ về nhân sự trong lãnh thổ quốc gia của mình để ngăn ngừa, chống và bài
trừ các hành vi được quy định tại điều 6 Nghị định thư này và để bảo vệ quyền của
người di cư là đối tượng của các hành vi đó. Việc đào tạo đó bao gồm:
(a) Nâng cao độ an toàn và chất lượng của các giấy
tờ thông hành;
(b) Nhận diện và phát hiện các giấy tờ thông
hành hoặc nhận dạng giả;
(c) Tập hợp tin tức về tội phạm, đặc biệt các
thông tin liên quan đến dấu hiệu nhận biết các nhóm tội phạm có tổ chức được biết
hoặc bị nghi ngờ là tham gia thực hiện các hành vi được quy định tại điều 6 Nghị
định thư này, các phương pháp được sử dụng để vận chuyển người di cư trái phép,
việc sử dụng sai mục đích các giấy tờ thông hành hoặc nhận dạng cho các hành vi
được quy định tại điều 6 và các biện pháp che dấu được sử dụng trong việc đưa
người di cư trái phép;
(d) Cải tiến các thủ tục để phát hiện những người
được đưa đi trái phép tại các cửa khẩu thông thường và đặc biệt; và
(e) Đối xử nhân đạo đối với người di cư và bảo vệ
các quyền của họ như được quy định trong Nghị định thư này.
3. Các quốc gia thành viên có chuyên môn phù hợp
sẽ xem xét việc cung cấp sự trợ giúp kỹ thuật cho các quốc gia thường xuyên là
nước gốc hoặc nước quá cảnh của những người là đối tượng của những hành vi được
quy định tại điều 6 Nghị định thư này. Các quốc gia thành viên sẽ cố gắng cung
cấp các thiết bị cần thiết, như xe cộ, hệ thống máy tính và các thiết bị kiểm
tra giấy tờ để chống các hành vi được quy định tại điều 6.
Điều 15. Các biện pháp ngăn ngừa khác
1. Mỗi quốc gia thành viên sẽ áp dụng các biện
pháp để bảo đảm rằng quốc gia đó cung cấp hoặc tăng cường các chương trình
thông tin để nâng cao nhận thức của người dân về việc các hành vi được quy định
tại điều 6 Nghị định thư này là hoạt động tội phạm phổ biến do các nhóm tội phạm
có tổ chức thực hiện vì mục đích lợi nhuận và điều này dẫn đến những mối nguy
hiểm nghiêm trọng cho những người di cư liên quan.
2. Phù hợp với điều 31 của Công ước,
các quốc gia thành viên sẽ hợp tác trong lĩnh vực thông tin công cộng nhằm ngăn
chặn việc những người có khả năng di cư trở thành nạn nhân của các nhóm tội phạm
có tổ chức.
3. Mỗi quốc gia thành viên sẽ thúc đẩy hoặc tăng
cường, nếu thích hợp, các chương trình phát triển và hợp tác ở cấp độ quốc gia,
khu vực và quốc tế, có tính đến các yếu tố kinh tế – xã hội của vấn đề nhập cư
và lưu ý đặc biệt đến các khu vực kém phát triển về kinh tế và xã hội, nhằm đấu
tranh chống lại những nguyên nhân kinh tế - xã hội gốc rễ của việc đưa người di
cư trái phép, như nghèo đói và kém phát triển.
Điều 16.Các biện pháp bảo vệ và hỗ trợ
1. Trong khi thực hiện Nghị định thư này, mỗi quốc
gia thành viên, phù hợp với các nghĩa vụ của mình theo luật pháp quốc tế, sẽ áp
dụng các biện pháp thích hợp, bao gồm biện pháp lập pháp, nếu cần thiết, để giữ
gìn và bảo vệ quyền của những người là đối tượng của các hành vi được quy định
tại điều 6 Nghị định thư này phù hợp với luật pháp quốc tế có thể được áp dụng,
đặc biệt là quyền sống và quyền không bị tra tấn hoặc đối xử hay sự trừng phạt
tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm.
2. Mỗi quốc gia thành viên sẽ áp dụng các biện
pháp thích hợp để bảo vệ những người di cư khỏi hành vi bạo lực do các cá nhân
hoặc các nhóm tội phạm gây ra cho họ vì họ là đối tượng của các hành vi được
quy định tại điều 6 Nghị định thư này.
3. Mỗi quốc gia thành viên sẽ hỗ trợ một cách
thích hợp cho những người di cư mà cuộc sống và sự an toàn của họ bị đe doạ vì
họ là đối tượng của các hành vi được quy định tại điều 6 Nghị định thư này.
4. Trong khi áp dụng các quy định tại điều này,
các quốc gia thành viên phải lưu ý đến những nhu cầu đặc biệt của phụ nữ và trẻ
em.
5. Trong trường hợp phải giam giữ một người là đối
tượng của các hành vi được quy định tại điều 6 Nghị định thư này, mỗi quốc gia
thành viên phải tuân thủ các nghĩa vụ của mình theo Công ước Viên về quan hệ
lãnh sự, nếu được áp dụng, bao gồm việc thông tin không chậm trễ cho người bị
giam giữ về các quy định liên quan tới việc thông báo và liên lạc với các viên
chức lãnh sự.
Điều 17. Các hiệp định và thoả thuận
Các quốc gia thành viên sẽ xem xét việc ký kết các
hiệp định song phương hoặc khu vực hoặc các thoả thuận hay bản ghi nhớ nhằm:
(a) Lập ra các biện pháp hiệu quả và phù hợp nhất
để ngăn ngừa và chống các hành vi được quy định tại điều 6 Nghị định thư này;
hoặc
(b) Củng cố các quy định của Nghị định thư này
giữa các quốc gia thành viên với nhau.
Điều 18. Việc hồi hương người di cư bị
đưa đi trái phép
1. Mỗi quốc gia thành viên thoả thuận tạo điều
kiện thuận lợi và chấp thuận việc hồi hương một người đã là đối tượng của các
hành vi được quy định tại điều 6 Nghị định thư này và là người có quốc tịch của
quốc gia đó hoặc có quyền thường trú trên lãnh thổ của quốc gia đó tại thời điểm
hồi hương mà không có sự chậm trễ vô lý hay không xác đáng nào.
2. Mỗi quốc gia thành viên sẽ xem xét khả năng tạo
điều kiện thuận lợi và chấp thuận việc hồi hương của một người đã là đối tượng
của các hành vi được quy định tại điều 6 Nghị định thư này và là người đã có
quyền thường trú trên lãnh thổ của quốc gia đó tại thời điểm nhập cảnh vào nước
tiếp nhận phù hợp với pháp luật quốc gia của mình.
3. Theo yêu cầu của quốc gia thành viên tiếp nhận,
quốc gia thành viên được yêu cầu sẽ xác minh người đã là đối tượng của các hành
vi được quy định tại điều 6 Nghị định thư này có là công dân hay có quyền thường
trú trên lãnh thổ mình hay không, mà không có sự chậm trễ vô lý hay không xác
đáng nào.
4. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc hồi hương
của một người đã là đối tượng của các hành vi được quy định tại điều 6 Nghị định
thư này nhưng không có các giấy tờ thích hợp, quốc gia thành viên mà người đó
là công dân hay có quyền thường trú ở đó, theo yêu cầu của quốc gia thành viên
tiếp nhận, sẽ đồng ý cấp các giấy tờ thông hành đó hoặc giấy phép khác cần thiết
để người đó có thể đi lại và trở về lãnh thổ nước mình.
5. Mỗi quốc gia thành viên liên quan đến việc hồi
hương một người đã là đối tượng của các hành vi được quy định tại điều 6 Nghị định
thư này sẽ áp dụng các biện pháp thích hợp để thực hiện việc hồi hương theo
đúng thủ tục và lưu ý đến sự an toàn và phẩm giá của người đó.
6. Các quốc gia thành viên có thể hợp tác với
các tổ chức quốc tế liên quan để thực hiện các quy định tại điều này.
7. Điều này không làm phương hại đến bất kỳ quyền
nào của những người là đối tượng của các hành vi được quy định tại điều 6 Nghị
định thư này theo pháp luật quốc gia của quốc gia thành viên tiếp nhận.
8. Điều này không làm ảnh hưởng đến các nghĩa vụ
theo bất kỳ điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương nào khác có thể được áp
dụng, hoặc theo bất kỳ hiệp định hoặc thoả thuận hiện hành nào khác có thể được
áp dụng, trong đó điều chỉnh, toàn bộ hoặc một phần, việc hồi hương những người
là đối tượng của các hành vi được quy định tại điều 6 Nghị định thư này.
IV. Điều khoản cuối cùng
Điều 19. Điều khoản an toàn
1. Không một quy định nào trong Nghị định thư
này ảnh hưởng đến các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm khác của các quốc gia và
cá nhân theo quy định của luật pháp quốc tế, bao gồm luật nhân đạo quốc tế và
luật quốc tế về quyền con người, cụ thể là, nếu có thể áp dụng được, Công ước
1951 và Nghị định thư 1967 về Vị thế của người tỵ nạn và nguyên tắc không đẩy
trở lại được quy định trong đó.
2. Các biện pháp được quy định trong Nghị định
thư này sẽ không được giải thích và áp dụng theo cách phân biệt đối xử đối với
những người là đối tượng của các hành vi được quy định tại điều 6 Nghị định thư
này. Việc giải thích và áp dụng những biện pháp đó phải phù hợp với các nguyên
tắc không phân biệt đối xử được quốc tế công nhận.
Điều 20. Giải quyết tranh chấp
1. Các quốc gia thành viên sẽ cố gắng giải quyết
các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Nghị định thư này thông
qua thương lượng.
2. Bất kỳ tranh chấp nào giữa hai hay nhiều quốc
gia thành viên liên quan đến việc giải thích và áp dụng Nghị định thư này mà
không thể giải quyết thông qua thương lượng trong một thời gian thích hợp sẽ được
đưa ra trọng tài theo đề nghị của một trong các quốc gia thành viên đó. Nếu sau
sáu tháng kể từ ngày yêu cầu đưa ra trọng tài giải quyết mà các quốc gia thành
viên không thể thoả thuận về tổ chức của trọng tài, bất kỳ một trong các quốc
gia thành viên này đều có thể yêu cầu đưa tranh chấp ra Toà án Công lý Quốc tế
theo Quy chế của Toà án.
3. Mỗi quốc gia thành viên, vào thời điểm ký,
phê chuẩn, chấp thuận hay phê duyệt hoặc gia nhập Nghị định thư này, đều có thể
tuyên bố rằng quốc gia đó không bị ràng buộc bởi khoản 2 điều này. Các quốc gia
thành viên khác sẽ không bị ràng buộc bởi khoản 2 điều này đối với bất kỳ quốc
gia thành viên nào đã đưa ra bảo lưu như vậy.
4. Bất kỳ quốc gia thành viên nào đã đưa ra một
bảo lưu theo quy định tại khoản 3 điều này có thể rút bảo lưu đó vào bất kỳ lúc
nào, bằng cách thông báo cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
Điều 21. Ký, phê chuẩn, chấp thuận,
phê duyệt và gia nhập
1. Nghị định thư này sẽ được mở cho tất cả các
quốc gia ký từ ngày 12 đến ngày 15/12/2000 tại Pa-léc-mô, I-ta-li-a và sau đó tại
trụ sở của Liên Hợp Quốc cho đến ngày 12/12/2002.
2. Nghị định thư này cũng sẽ được mở cho các tổ
chức hội nhập kinh tế khu vực ký, với điều kiện là có ít nhất một quốc gia
thành viên của tổ chức đó đã ký Nghị định thư này theo khoản 1 điều này.
3. Nghị định thư này phải được phê chuẩn, chấp
thuận hoặc phê duyệt. Văn kiện phê chuẩn, chấp thuận hoặc phê duyệt sẽ được nộp
lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Một tổ chức hội nhập kinh tế khu vực
có thể nộp lưu chiểu văn kiện phê chuẩn, chấp thuận hoặc phê duyệt nếu có ít nhất
một quốc gia thành viên của mình đã làm như vậy. Trong văn kiện phê chuẩn, chấp
thuận hoặc phê duyệt, tổ chức đó sẽ tuyên bố phạm vi thẩm quyền của mình đối với
những vấn đề mà Nghị định thư này điều chỉnh. Tổ chức đó cũng sẽ thông báo cho
cơ quan lưu chiểu bất kỳ sửa đổi nào liên quan về phạm vi thẩm quyền của mình.
4. Nghị định thư này được mở để bất kỳ quốc gia
hay tổ chức hội nhập kinh tế đã có ít nhất một quốc gia thành viên của mình là
thành viên của Nghị định thư, gia nhập. Các văn kiện gia nhập sẽ được nộp lưu
chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Tại thời điểm gia nhập, một tổ chức hội nhập
kinh tế khu vực sẽ tuyên bố phạm vi thẩm quyền của mình đối với những vấn đề mà
Nghị định thư này điều chỉnh. Tổ chức đó cũng thông báo cho cơ quan lưu chiểu bất
kỳ sửa đổi nào liên quan đến phạm vi thẩm quyền của mình.
Điều 22. Hiệu lực
1. Nghị định thư này bắt đầu có hiệu lực vào
ngày thứ 90 sau ngày văn kiện phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập thứ
bốn mươi được nộp lưu chiểu, trừ việc Nghị định thư này không bắt đầu có hiệu lực
trước khi Công ước bắt đầu có hiệu lực. Vì mục đích của khoản này, bất kỳ văn
kiện nào mà một tổ chức hội nhập kinh tế khu vực nộp lưu chiểu sẽ không được
tính thêm với những văn kiện được nộp lưu chiểu bởi các quốc gia thành viên của
tổ chức đó.
2. Đối với mỗi quốc gia hay tổ chức hội nhập
kinh tế khu vực đã phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập Nghị định thư
này sau khi văn kiện phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập thứ 40 được
nộp lưu chiểu, Nghị định thư này sẽ bắt đầu có hiệu lực vào ngày thứ 30 sau
ngày quốc gia hoặc tổ chức đó nộp lưu chiểu văn kiện liên quan hay vào ngày mà
Nghị định thư này bắt đầu có hiệu lực theo khoản 1 điều này nếu như thời điểm
này diễn ra sau.
Điều 23. Sửa đổi
1. Sau năm năm kể từ ngày Nghị định thư này bắt
đầu có hiệu lực, một quốc gia thành viên của Nghị định thư có thể đề xuất sửa đổi
và gửi đề xuất này tới Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Sau đó, Tổng thư ký sẽ thông
báo đề xuất sửa đổi này cho các quốc gia thành viên và cho Hội nghị các quốc
gia thành viên của Công ước để xem xét và quyết định về đề xuất đó. Các quốc
gia thành viên Nghị định thư tham dự Hội nghị các quốc gia thành viên của Công
ước sẽ cố gắng đạt được sự đồng thuận về mọi sửa đổi. Nếu mọi cố gắng để đạt được
sự đồng thuận đã được thực hiện đến cùng mà không đạt được một thoả thuận nào,
sửa đổi sẽ được thông qua, như phương thức cuối cùng, nếu đạt 2/3 đa số phiếu của
các quốc gia thành viên Nghị định thư có mặt và bỏ phiếu tại cuộc họp của Hội
nghị.
2. Các tổ chức hội nhập kinh tế khu vực, trong
những vấn đề thuộc phạm vi thẩm quyền của mình, sẽ thực hiện quyền bỏ phiếu
theo điều này với số phiếu bằng với số lượng quốc gia thành viên của mình là
thành viên của Nghị định thư này. Các tổ chức đó sẽ không thực hiện quyền bỏ
phiếu của mình nếu các quốc gia thành viên của các tổ chức đó đã thực hiện quyền
bỏ phiếu của họ và ngược lại.
3. Một sửa đổi được thông qua theo với khoản 1 của
điều này phải được các quốc gia thành viên phê chuẩn, chấp thuận hoặc phê duyệt.
4. Một sửa đổi được thông qua theo khoản 1 điều
này sẽ bắt đầu có hiệu lực đối với một quốc gia thành viên sau 90 ngày kể từ
ngày văn kiện phê chuẩn, chấp thuận hoặc phê duyệt sửa đổi đó được nộp lưu chiểu
cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
5. Khi một sửa đổi bắt đầu có hiệu lực, nó sẽ
ràng buộc các quốc gia thành viên đã bày tỏ sự chấp thuận ràng buộc bởi sửa đổi
đó. Các quốc gia thành viên khác sẽ chỉ bị ràng buộc bởi các quy định của Nghị
định thư này và bất kỳ sửa đổi nào trước đó mà họ đã phê chuẩn, chấp thuận hoặc
phê duyệt.
Điều 24. Rút khỏi Nghị định thư
1. Một quốc gia thành viên có thể rút khỏi Nghị
định thư này bằng một thông báo bằng văn bản gửi cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
Việc rút khỏi Nghị định thư sẽ có hiệu lực sau một năm kể từ ngày Tổng thư ký
nhận được thông báo.
2. Một tổ chức hội nhập kinh tế khu vực sẽ không
còn là thành viên của Nghị định thư này khi tất cả các quốc gia thành viên của
mình đã rút khỏi Nghị định thư.
Điều 25. Lưu chiểu và ngôn ngữ
1. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc được chỉ định là cơ
quan lưu chiểu Nghị định thư này.
2. Bản gốc của Nghị định thư này được làm bằng
tiếng A-rập, tiếng Trung, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Tây Ban
Nha, đều có giá trị như nhau và được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
Để làm bằng, những đại diện toàn quyền dưới đây
được uỷ quyền hợp pháp bởi các Chính phủ, đã ký Nghị định thư này.