CÁC HƯỚNG DẪN QUỐC TẾ
VỀ HIV/AIDS VÀ QUYỀN CON NGƯỜI, 1996
(Được
thông qua tại Hội nghị tư vấn quốc tế lần thứ hai về HIV/AIDS và quyền con người,
do Cao ủy Liên Hợp Quốc / Trung tâm Quyền con người và Chương trình về HIV/AIDS
của Liên Hợp Quốc (UNAIDS) đồng tổ chức ở Geneva trong các ngày 23-25/9/1996).
LỜI NÓI ĐẦU
Văn kiện này bao gồm những hướng dẫn
được thông qua tại Hội nghị tư vấn quốc tế lần thứ hai về HIV/AIDS và quyền con
người, do Cao ủy Liên Hợp Quốc/Trung tâm Quyền con người và Chương trình về
HIV/AIDS của Liên Hợp Quốc (UNAIDS) đồng tổ chức ở Geneva trong các ngày
23-25/9/1996, nhằm hỗ trợ các quốc gia xác lập một cách ứng xử với HIV/AIDS
mang tính tích cực và dựa trên quyền, điều mà sẽ tạo hiệu quả trong việc giảm
thiểu sự lây truyền và ảnh hưởng của đại dịch, trong khi vẫn bảo đảm sự tôn trọng
các quyền và tự do cơ bản của con người.
Việc soạn thảo các Hướng dẫn về
HIV/AIDS và quyền con người lần đầu tiên được đề cập tại Hội nghị tư vấn quốc tế
về AIDS và quyền con người do Trung tâm Quyền con người của Liên Hợp Quốc và Tổ
chức Y tế Thế giới đồng phối hợp tổ chức vào năm 1989. Ủy ban Quyền con người của
Liên Hợp Quốc và Tiểu ban chống phân biệt đối xử và bảo vệ người thiểu số sau
đó nhiều lần nhắc lại sự cần thiết phải xây dựng Hướng dẫn này. Cộng đồng quốc
tế ngày càng thừa nhận sự cần thiết phải cụ thể hóa những nguyên tắc hiện hành
về quyền con người để áp dụng vào bối cảnh HIV/AIDS, và xác định những hành động
cụ thể mà các quốc gia phải tiến hành để bảo vệ quyền con người và y tế công
trong bối cảnh HIV/AIDS.
Mục đích của các Hướng dẫn này là
hỗ trợ các quốc gia trong việc vận dụng những quy phạm quốc tế về quyền con người
vào hoạt động thực tiễn trong bối cảnh HIV/AIDS. Nhằm đạt được mục tiêu đó, văn
kiện này được chia thành hai phần: phần thứ nhất xác định những nguyên tắc
cơ bản về quyền con người làm nền tảng cho cách ứng xử tích cực trong bối cảnh
HIV/AIDS; phần thứ hai đưa ra các biện pháp mang tính định hướng hành động
mà các chính phủ cần thực hiện trong các lĩnh vực pháp luật, chính sách và thực
tiễn quản lý hành chính nhằm bảo vệ các quyền con người và đạt được các mục
tiêu về bảo vệ y tế công liên quan tới HIV/AIDS.
Hướng dẫn thừa nhận rằng các quốc
gia ứng xử với HIV/AIDS bằng những giá trị kinh tế, xã hội, văn hóa, những truyền
thống và tập tục - một sự đa dạng cần được tôn vinh như một nguồn lực giàu có để
tạo nên sự đối phó có hiệu quả với đại dịch. Để đạt được lợi ích từ sự đa dạng
đó, tiến trình tư vấn và hợp tác mang tính cùng tham gia đã được áp dụng khi soạn
thảo văn kiện này; vì vậy, các Hướng dẫn phản ánh được những trải nghiệm của những
người bị ảnh hưởng bởi đại dịch HIV/AIDS, nêu lên được những nhu cầu có liên
quan và những triển vọng hợp tác khu vực trong lĩnh vực này. Hơn thế, các Hướng
dẫn xác nhận rằng, có thể và cần thiết phải tạo ra những ứng xử đa dạng với đại
dịch, trong khuôn khổ các chuẩn mực quốc tế về quyền con người đã được thừa nhận
một cách phổ biến.
Dự kiến những chủ thể chủ yếu sử dụng
Hướng dẫn này sẽ là các nhà nước, những nhà lập pháp, nhà hoạch định chính sách
của chính phủ, bao gồm các quan chức tham gia những chương trình phòng chống
AIDS quốc gia và quan chức của các bộ ngành liên quan như Bộ Y tế, Bộ Ngoại
giao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động, Bộ Phúc lợi Xã hội và Bộ Giáo dục. Những
đối tượng hưởng lợi khác sẽ là các tổ chức liên chính phủ (IGOs), các tổ chức
phi chính phủ (NGOs), mạng lưới những người sống chung với HIV/AIDS (PLHAs),
các tổ chức dựa trên cộng đồng, mạng lưới các tổ chức hoạt động trên các lĩnh vực
đạo đức, luật, quyền con người và dịch vụ HIV/AIDS (ASOs). Số người sử dụng các
Hướng dẫn này càng lớn sẽ càng làm tăng tác động của nó và biến nội dung các hướng
dẫn trở thành hiện thực.
Các Hướng dẫn này đề cập đến nhiều
vấn đề khó khăn, phức tạp, trong đó một số điều có thể phù hợp với một nước này
mà có thể không phù hợp với một số nước khác. Với lý do đó, rất cần thiết có những
nhà phê bình ở cấp độ quốc gia hay cộng đồng xem xét các Hướng dẫn này theo một
quy trình đối thoại rộng rãi với những người có ảnh hưởng trực tiếp nhất đối với
những vấn đề được đưa ra trong văn kiện. Quy trình tư vấn này sẽ tạo điều kiện
cho các chính phủ và các cộng đồng vận dụng các Hướng dẫn phù hợp với tình hình
cụ thể của nước mình, xem xét các vấn đề ưu tiên được đưa ra trong các các Hướng
dẫn và xác lập những biện pháp có hiệu quả nhằm thực hiện các Hướng dẫn trong bối
cảnh riêng của nước mình.
Trong khi thực hiện các Hướng dẫn
này, cần lưu ý rằng việc đạt được sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các
vấn đề mang tính kinh tế, xã hội, văn hóa hay nhân đạo, hay trong việc tăng cường
và khuyến khích sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của tất cả mọi người là
một trong những mục tiêu chủ yếu của Liên Hợp Quốc. Theo nghĩa này, hợp tác quốc
tế, trong đó bao gồm những trợ giúp về kỹ thuật, tài chính, là nhiệm vụ của các
quốc gia trong bối cảnh đại dịch HIV/AIDS và các quốc gia phát triển cần hành động
trên tinh thần đoàn kết, thông qua việc giúp đỡ các quốc gia đang phát triển thực
hiện những yêu cầu nêu ra trong các Hướng dẫn này.
I. CÁC NGHĨA VỤ QUỐC
TẾ VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ HIV/AIDS
Giới thiệu: HIV/AIDS, quyền con
người và y tế công
Kinh nghiệm thu được trong những
năm chống chọi với đại dịch HIV/AIDS cho phép khẳng định rằng, việc thúc đẩy và
bảo vệ các quyền con người là một yếu tố cấu thành trong việc phòng chống sự
lây truyền của HIV, cũng như trong việc giảm thiểu những hậu quả của HIV/AIDS.
Việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người là cần thiết để bảo vệ nhân phẩm của
những người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS trong khi vẫn đạt được những mục tiêu về
y tế công mà liên quan đến việc làm giảm tính dễ bị tổn thương của việc lây nhiễm
HIV, giảm thiểu tác động tiêu cực của HIV/AIDS với những người bị ảnh hưởng và
trao quyền cho các cá nhân và cộng đồng đang đấu tranh chống đại dịch.
Nhìn chung, các quyền con người và
y tế công có cùng một mục tiêu là thúc đẩy và bảo vệ các quyền và phúc lợi của
tất cả mọi người. Từ góc độ quyền con người, mục tiêu này có thể đạt được một
cách tốt nhất bằng cách thúc đẩy và bảo vệ các quyền và nhân phẩm của tất cả mọi
người, đặc biệt là những người bị phân biệt đối xử hoặc bị xâm phạm các quyền.
Tương tự, các mục tiêu về y tế công có thể được thực hiện một cách tốt nhất bằng
việc thúc đẩy sức khỏe của tất cả mọi người, đặc biệt là những người dễ bị tổn
thương trước những mối đe dọa về thể chất, tâm thần và phúc lợi xã hội. Do đó,
y tế công và quyền con người bổ sung và củng cố cho nhau trong mọi hoàn cảnh, kể
cả trong bối cảnh HIV/AIDS.
Nhiều công trình nghiên cứu đã cho
thấy tính phụ thuộc lẫn nhau của các quyền con người và y tế công khi chứng
minh rằng những chương trình phòng chống HIV mang tính cưỡng bức và trừng phạt
đều dẫn tới kết quả làm giảm sự tham gia và làm tăng sự xa lánh xã hội của những
người có nguy cơ lây nhiễm. Đặc biệt, những người này sẽ không tìm đến các dịch
vụ tư vấn, xét nghiệm, điều trị và hỗ trợ liên quan đến HIV nếu họ thấy các dịch
vụ đó khiến họ phải đối mặt với sự phân biệt đối xử, hay thiếu sự bảo mật thông
tin hoặc gây ra những hậu quả tiêu cực khác. Bởi vậy, các biện pháp y tế công
mang tính cưỡng bức thực chất đã khiến những người có nhu cầu nhiều nhất về những
dịch vụ y tế liên quan đến HIV xa lánh các dịch vụ này và do đó, các biện pháp
này đã thất bại trong việc đạt được các mục tiêu phòng ngừa nhằm bảo vệ sức khỏe
cộng đồng thông qua thay đổi hành vi, chăm sóc và hỗ trợ về mặt y tế.
Thực tế cũng cho thấy rõ một khía
cạnh khác về tính liên kết giữa việc bảo vệ các quyền con người và tính hiệu quả
của các chương trình về HIV/AIDS, đó là phạm vi ảnh hưởng hoặc sự lây truyền của
HIV/AIDS giữa các nhóm xã hội là không đồng đều. Phụ thuộc vào tính chất của đại
dịch và tình hình kinh tế, xã hội, pháp lý ở từng quốc gia, các nhóm có thể bị ảnh
hưởng nhiều nhất bao gồm phụ nữ, trẻ em, những người nghèo, các nhóm thiểu số,
bản địa, những người nhập cư, người tỵ nạn, người di tản, những người khuyết tật,
người bị giam giữ, người làm mại dâm, người đồng tính luyến ái nam, người sử dụng
ma túy - tức là những nhóm đồng thời cũng không được hưởng sự bảo vệ đầy đủ về
các quyền con người, phải chịu đựng sự phân biệt đối xử và/hoặc bị đặt ra ngoài
lề sự phát triển của xã hội bởi vị thế pháp lý của họ. Thiếu sự bảo vệ đầy đủ về
quyền con người tước đi của những nhóm này khả năng phòng chống sự lây nhiễm và
khả năng đối phó với HIV/AIDS, khi mà họ đã bị lây nhiễm.
Ngoài ra, có một sự thống nhất
quan điểm ngày càng cao ở phạm vi quốc tế đó là, cách tiếp cận tổng hợp mà huy
động sự tham gia rộng rãi của những người sống chung với HIV/AIDS vào tất cả
các vấn đề có liên quan là đặc trưng chính của các chương trình phòng chống đại
dịch thành công. Một cấu thành quan trọng khác trong cách tiếp cận toàn diện đó
là sự tạo lập và hỗ trợ một môi trường đạo đức, pháp lý thuận lợi cho việc bảo
vệ các quyền con người. Điều này đòi hỏi phải có những biện pháp nhằm bảo đảm rằng
các chính phủ, các cộng đồng và cá nhân sẽ tôn trọng các quyền và nhân phẩm của
con người, và phải hành động theo tinh thần khoan dung, tình thương, và đoàn kết.
Một bài học cốt yếu rút ra từ hoạt
động phòng chống HIV/AIDS đó là các chuẩn mực về quyền con người đã được thừa
nhận trên toàn cầu cần phải trở thành các nguyên tắc hướng dẫn của những nhà lập
pháp khi soạn thảo các chính sách và đường lối liên quan đến HIV, cũng như phải
trở thành một phần không thể thiếu trong nội dung của mọi hoạt động phòng chống
HIV/AIDS ở cấp độ quốc gia và địa phương.
A. Các chuẩn mực
về quyền con người và bản chất của các nghĩa vụ quốc gia.
Tuyên bố Viên và Chương trình hành
động, được thông qua tại Hội nghị Thế giới về Quyền con người lần thứ hai tổ chức
vào tháng 6/1993, đã tái khẳng định rằng tất cả các quyền con người là phổ biến,
không thể chia tách, phụ thuộc và liên kết với nhau. Trong khi cần lưu ý đến tầm
quan trọng của tính đặc thù khu vực và quốc gia và những nền tảng tôn giáo, văn
hóa, lịch sử khác nhau, các nhà nước, bất kể theo hệ thống văn hóa, kinh tế hay
chính trị nào, đều có nghĩa vụ thúc đẩy và bảo vệ các quyền và tự do của con
người đã được thừa nhận trên toàn cầu, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về
quyền con người.
Bởi vậy, một cách tiếp cận với
HIV/AIDS dựa trên quyền con người phải dựa trên những nghĩa vụ quốc gia trong
việc bảo vệ các quyền con người. HIV/AIDS cho thấy tính chất không thể chia
tách của các quyền con người, bởi lẽ sự thừa nhận các quyền về kinh tế, xã hội,
văn hóa cũng như các quyền dân sự, chính trị là yếu tố thiết yếu để đảm bảo sự
phản ứng có hiệu quả với đại dịch. Ngoài ra, một cách tiếp cận với HIV/AIDS dựa
trên quyền là nền tảng trong tư tưởng về nhân phẩm và sự bình đẳng của con người
mà có thể tìm thấy trong tất cả các truyền thống và các nền văn hóa.
Các nguyên tắc chủ yếu về quyền
con người mà đóng vai trò thiết yếu cho hành động đối phó có hiệu quả của các
quốc gia với HIV/AIDS có thể viện dẫn trong nhiều văn kiện quốc tế trên lĩnh vực
này, chẳng hạn như trong Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người; Công ước
quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; Công ước quốc tế về các quyền
dân sự, chính trị; Công ước quốc tế về xóa bỏ tất cả những hình thức phân biệt
chủng tộc; Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại
phụ nữ; Công ước về chống tra tấn và các hình thức trừng phạt, đối xử tàn ác,
vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm; và Công ước về quyền trẻ em. Nhiều văn kiện
khu vực, chẳng hạn như Công ước châu Mỹ về quyền con người; Công ước châu Âu về
bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của con người; Hiến chương châu Phi về quyền của
các dân tộc và của con người cũng bao gồm các nghĩa vụ quốc gia có thể áp dụng
trong bối cảnh HIV/AIDS. Thêm vào đó, một số công ước và khuyến nghị của Tổ chức
Lao động quốc tế (ILO) cũng đặc biệt liên quan đến vấn đề HIV/AIDS, chẳng hạn
như các văn kiện của ILO về chống phân biệt đối xử trong lao động, việc làm,
cho thôi việc, bảo vệ sự riêng tư, sự an toàn và sức khỏe của người lao động ở
nơi làm việc.
Dưới đây là một số trong những
nguyên tắc về quyền con người liên quan đến vấn đề HIV/AIDS:
1. Quyền không bị phân biệt đối xử, được bình đẳng trước pháp
luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng.
2. Quyền được sống;
3. Quyền được đạt tới chuẩn mực cao nhất có thể về sức khỏe thể
chất và tinh thần;
4. Quyền được tự do và an toàn cá nhân;
5. Quyền tự do đi lại;
6. Quyền được tìm kiếm và được cho lánh nạn;
7. Quyền được bảo vệ sự riêng tư;
8. Quyền được tự do tư tưởng, diễn đạt và tự do nhận, trao đổi
thông tin;
9. Quyền được tự do lập hội;
10. Quyền
được làm việc;
11. Quyền
được kết hôn và lập gia đình;
12. Quyền
bình đẳng trong tiếp cận với giáo dục;
13. Quyền
được có mức sống thích đáng;
14. Quyền
được hưởng an sinh, trợ cấp và cứu trợ xã hội;
15. Quyền
được chia sẻ những tiến bộ khoa học và những lợi ích mang lại từ những tiến bộ
đó;
16. Quyền
được tham gia vào đời sống văn hóa và công cộng của cộng đồng;
17. Quyền
không bị tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân
phẩm;
18. Quyền
của phụ nữ và trẻ em.
B. Những giới hạn
và hạn chế
Theo luật quốc tế về quyền con người,
các nhà nước có thể đưa ra những giới hạn với một số quyền trong một vài bối cảnh
do nhà nước xác định, với điều kiện là các giới hạn đó là cần thiết cho lợi ích
chung, chẳng hạn như để bảo đảm sức khỏe của cộng đồng, các quyền của người
khác, đạo đức, trật tự xã hội, hay lợi ích chung trong một xã hội dân chủ hoặc
để bảo đảm an ninh quốc gia. Tuy nhiên, có một số quyền mà các nhà nước không
được hạn chế trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Để chứng tỏ sự hạn chế các quyền con
người là hợp pháp, các nhà nước phải bảo đảm:
1. Các giới hạn đó phải được quy định và thực hiện theo đúng
pháp luật, chẳng hạn như trong một văn bản pháp luật cụ thể có nội dung rõ
ràng, chính xác mà mọi người đều có thể tiếp cận, để chứng tỏ là mọi cá nhân đều
có thể biết và phải tuân thủ các quy định đó.
2. Các giới hạn đó phải được xác lập dựa trên một lợi ích hợp
pháp, chẳng hạn như để bảo đảm các quyền của người khác.
3. Các giới hạn đó phải tương thích với các lợi ích được bảo vệ
và tối thiểu hóa đến mức có thể những biện pháp xâm hại hay hạn chế và phải phù
hợp trong một xã hội dân chủ, chẳng hạn như phải được đưa ra bằng một tiến
trình ra quyết định phù hợp với các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền.
Bảo đảm sức khỏe cộng đồng là một
lý do được các nhà nước viện dẫn nhiều nhất cho việc hạn chế các quyền con người
trong bối cảnh HIV/AIDS. Tuy nhiên, có nhiều giới hạn như vậy vi phạm các
nguyên tắc về không phân biệt đối xử, ví dụ như khi tình trạng có HIV được sử dụng
như là cơ sở cho những đối xử khác biệt trong các lĩnh vực giáo dục, việc làm,
chăm sóc sức khỏe, đi lại, an sinh xã hội, nhà ở hay cho phép lánh nạn. Quyền về
đời tư cũng thường bị vi phạm thông qua việc cưỡng bức xét nghiệm và công khai
hóa tình trạng có HIV; quyền tự do cá nhân cũng bị vi phạm khi HIV được sử dụng
để biện minh cho việc tước bỏ tự do hay để chia tách những người có HIV với những
người bình thường. Mặc dù những biện pháp như vậy có thể có hiệu quả với những
bệnh dễ lây truyền thông qua tiếp xúc thông thường và qua quá trình điều trị,
chúng không có hiệu quả khi áp dụng với HIV/AIDS, bởi HIV không lây truyền qua
tiếp xúc thông thường. Thêm vào đó, những biện pháp cưỡng chế như vậy không phải
là những biện pháp đã giảm thiểu tính hạn chế đến mức có thể và thường gây ra
những sự phân biệt đối xử với những nhóm dễ bị tổn thương. Cuối cùng, và trên tất
cả, những biện pháp cưỡng bức như vậy làm cho mọi người xa lánh những chương
trình phòng chống đại dịch, do đó hạn chế tính hiệu quả của các chương trình y
tế công. Bởi vậy, có một ngoại lệ trong y tế công, đó là hiếm khi có một cơ sở
hợp pháp cho những giới hạn về quyền con người trong bối cảnh HIV/AIDS.
C. Việc áp dụng
một số quyền con người cụ thể trong bối cảnh đại dịch HIV/AIDS
Phần dưới đây đưa ra những ví dụ về
việc áp dụng các quyền con người cụ thể vào bối cảnh HIV/AIDS. Các quyền này
không được xem xét một cách tách rời, mà trong mối quan hệ tương tác với các
quyền khác có liên quan đến các Hướng dẫn được nêu trong văn kiện này. Khi áp dụng
các quyền này, cần lưu ý đến tính đặc thù và những bối cảnh khác nhau về tôn
giáo, văn hóa và lịch sử giữa các quốc gia. Tuy nhiên, những điều đó không được
làm ảnh hưởng đến nghĩa vụ của các nhà nước trong việc thúc đẩy và bảo vệ tất cả
các quyền con người, phù hợp với bối cảnh văn hóa của nước mình.
1. Không phân biệt đối xử và bình
đẳng trước pháp luật
Luật quốc tế về quyền con người bảo
đảm quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật và không bị phân biệt đối xử vì
bất cứ lý do gì như về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan
điểm chính trị và quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, dòng
dõi hoặc những tình trạng khác. Sự phân biệt đối xử dựa trên bất cứ yếu tố nào
kể trên cũng đều không chỉ trái với luật quốc tế về quyền con người mà còn tạo
ra và củng cố những điều kiện dẫn đến làm tăng tính dễ bị tổn thương về mặt xã
hội với HIV, bao gồm việc thiếu một môi trường thuận lợi cho việc thúc đẩy sự
thay đổi về mặt hành vi cũng như cho phép mọi người đối phó hiệu quả với
HIV/AIDS. Các nhóm phải chịu đựng những sự phân biệt đối xử như vậy đồng thời
cũng bị tổn thương trong bối cảnh HIV/AIDS, bao gồm phụ nữ, trẻ em, những người
nghèo, các nhóm thiểu số, bản địa, những người nhập cư, người di tản, người bị
mất nơi ở, những người khuyết tật, người bị giam giữ, người làm mại dâm, người
đồng tính luyến ái nam, người sử dụng ma túy.
Những biện pháp mà các nhà nước sử
dụng để đối phó với đại dịch cần bao gồm việc thực hiện các luật và chính sách
nhằm xóa bỏ sự phân biệt đối xử có hệ thống ở bất cứ nơi nào tình trạng đó tồn
tại, và với bất cứ nhóm xã hội nào.
Ủy ban quyền con người của Liên Hợp
Quốc đã khẳng định rằng, cụm từ ”những tình trạng khác” trong các quy định về cấm
phân biệt đối xử mà đã được nêu ở trên bao gồm tình trạng về sức khỏe, trong đó
có việc nhiễm HIV/AIDS. Điều đó có nghĩa là các nhà nước không thể phân biệt đối
xử với những người sống chung với HIV/AIDS hoặc với các thành viên của các nhóm
được coi là có nguy cơ bị ảnh hưởng do thực tế họ bị lây nhiễm hoặc bị cho là
lây nhiễm HIV.
Ủy ban giám sát việc thực hiện
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị đã nêu rõ rằng, quyền được bảo
vệ một cách bình đẳng trước pháp luật hàm nghĩa cấm phân biệt đối xử trong pháp
luật và trong thực tế trên bất kỳ lĩnh vực nào mà được quy định hoặc bảo vệ bởi
các nhà chức trách, và một sự khác biệt về đối xử không nhất thiết bị coi là
phân biệt đối xử nếu như điều đó dựa trên những yếu tố khách quan và hợp lý. Vì
vậy, cấm phân biệt đối xử có nghĩa là yêu cầu các nhà nước phải rà soát và nếu
cần thiết, sửa đổi hay bổ sung các luật, chính sách và hành động mà tạo ra sự đối
xử tùy tiện mang tính phân biệt trên cơ sở những yếu tố liên quan đến HIV.
2. Các quyền của phụ nữ
Sự phân biệt đối xử chống lại phụ
nữ trong pháp luật hay trên thực tế đều có thể dẫn đến làm tăng tính dễ bị tổn
thương của phụ nữ với HIV/AIDS so với các nhóm xã hội khác. Vai trò phụ thuộc của
phụ nữ trong gia đình và trong đời sống công cộng là một trong những nguyên
nhân gốc rễ khiến cho tỷ lệ lây nhiễm HIV trong phụ nữ gia tăng ngày càng
nhanh. Điều này cũng làm giảm khả năng của phụ nữ trong việc giải quyết những hậu
quả từ việc lây nhiễm của bản thân họ, và/hoặc của những người thân trong gia
đình họ, xét theo các khía cạnh riêng tư, kinh tế và xã hội.
Để ngăn chặn sự lây nhiễm HIV
trong phụ nữ, các quyền của phụ nữ và trẻ em gái như quyền được hưởng các chuẩn
mực cao nhất có thể về sức khỏe thể chất và tâm lý; quyền được tự do biểu đạt;
tự do tiếp nhận và phổ biến thông tin; cần phải được áp dụng để trở thành quyền
được bình đẳng trong tiếp cận với các thông tin và giáo dục liên quan đến HIV,
với giáo dục, với các biện pháp phòng ngừa và các dịch vụ y tế. Tuy nhiên, thậm
chí khi những thông tin và dịch vụ như vậy đã sẵn có, phụ nữ và trẻ em gái vẫn
thường không thể thương lượng được về vấn đề tình dục an toàn hoặc tránh được
những hậu quả liên quan đến HIV xuất phát từ các thói quen tình dục của chồng
hay bạn tình của họ. Điều này là kết quả từ vị thế phụ thuộc của phụ nữ về mặt
xã hội, tình dục, và kinh tế. Việc bảo vệ quyền về sức khỏe sinh sản và tình dục
của phụ nữ và trẻ em gái, bởi vậy, là mang tính cốt yếu. Điều này bao gồm các
quyền của phụ nữ được kiểm soát và được quyết định một cách tự do và có trách
nhiệm, không có sự cưỡng bức, sự phân biệt đối xử và bạo lực, về các vấn đề
liên quan đến tình dục, bao gồm sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục. Các biện
pháp để xóa bỏ bạo lực và cưỡng bức tình dục chống lại phụ nữ trong gia đình và
trong đời sống công cộng không chỉ bảo vệ phụ nữ chống lại những vi phạm về quyền
con người mà còn bảo vệ họ khỏi sự tác động của HIV - hậu quả của những vi phạm
quyền con người.
Thêm vào đó, nhằm trao cho phụ nữ
quyền được rời bỏ các mối quan hệ hoặc các công việc mà họ có nguy cơ bị lây
nhiễm HIV, và để giúp họ đối phó với hoàn cảnh mà các thành viên trong gia đình
bị nhiễm HIV/AIDS, các nhà nước cần bảo đảm các quyền của phụ nữ, trong đó đặc
biệt là các quyền liên quan đến các vấn đề như: bình đẳng về tư cách pháp lý,
bình đẳng trong gia đình, bình đẳng với đàn ông trong trả công khi làm các công
việc như nhau, bình đẳng trong tiếp cận với những vị trí ra quyết định, với các
biện pháp giảm thiểu xung đột giữa trách nhiệm gia đình và nghề nghiệp, và
trong việc bảo vệ phụ nữ khỏi bị quấy rối tình dục ở nơi làm việc. Phụ nữ cũng
cần phải được bảo đảm sự tiếp cận bình đẳng với các nguồn lực kinh tế, bao gồm
các khoản tín dụng, các tiêu chuẩn sống thích đáng, sự tham gia vào đời sống
chính trị và cộng đồng, và trong việc hưởng thụ lợi ích của các tiến bộ khoa học,
công nghệ mà có thể giảm thiểu những tác động của HIV.
Thông thường, các hoạt động ngăn
ngừa HIV/AIDS và chăm sóc phụ nữ hay bị ảnh hưởng bởi những nhận thức sai lầm
mang tính phổ biến về tính chất dịch tễ học và đặc điểm lây nhiễm của HIV. Có một
xu hướng quy kết cho phụ nữ là “những chủ thể truyền bệnh”, bất kể nguồn gốc của
bệnh là gì. Hậu quả là những phụ nữ có HIV hoặc bị coi là có HIV phải đối mặt với
bạo lực và sự phân biệt đối xử cả ở trong gia đình và ngoài xã hội. Những phụ nữ
mại dâm thường bị buộc phải xét nghiệm mà không nhận được sự hỗ trợ về các biện
pháp phòng ngừa, nhằm khuyến khích hoặc yêu cầu các khách hàng của họ phải mang
bao cao su khi quan hệ tình dục; và những phụ nữ này cũng thường không được tiếp
cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Nhiều chương trình về HIV/AIDS nhằm vào
phụ nữ chỉ tập trung vào các phụ nữ mang thai và thường áp dụng các biện pháp
cưỡng bức hướng vào các nguy cơ truyền HIV từ mẹ sang con, chẳng hạn như bắt buộc
làm các xét nghiệm trước và sau khi sinh, kèm theo đó là buộc phải phá thai hay
triệt sản nếu phát hiện có sự lây nhiễm. Các chương trình như vậy ít khi trao
cho phụ nữ quyền được phòng chống lây nhiễm liên quan đến hôn nhân, bằng cách
giáo dục phòng ngừa trước khi kết hôn, và bằng việc cung cấp những dịch vụ y tế
cũng như chú ý đến những nhu cầu của đặc thù của phụ nữ.
Công ước về xóa bỏ tất cả các hình
thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ buộc các Quốc gia thành viên phải giải
quyết tất cả những khía cạnh của sự phân biệt đối xử dựa trên cơ sở giới trong
pháp luật, chính sách và thực tiễn. Các nhà nước cũng được yêu cầu phải có những
biện pháp phù hợp để sửa đổi những định kiến văn hóa và xã hội mà dựa trên nhận
thức về tính ưu việt/không ưu việt của giới này so với giới kia, hoặc dựa trên
những vai trò rập khuôn của nam và nữ. Ủy ban giám sát công ước này đã nhấn mạnh
sự liên kết giữa vai trò sinh sản của phụ nữ và vị thế xã hội phụ thuộc của họ
với sự gia tăng tính dễ bị tổn thương của phụ nữ trước tác động của HIV.
3. Các quyền con người của trẻ em
Các quyền của trẻ em được bảo vệ bởi
tất cả các văn kiện quốc tế về quyền con người, đặc biệt là trong Công ước về
quyền trẻ em, mà trong đó đưa ra một định nghĩa mang tính quốc tế về trẻ em “là
tất cả những người dưới 18 tuổi”, trừ khi luật pháp áp dụng với trẻ em quy định
độ tuổi thấp hơn (Điều 1 Công ước tái khẳng định trẻ em được hưởng nhiều quyền
quy định cho người lớn (ví dụ như quyền sống; quyền không bị phân biệt đối xử;
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm; quyền tự do và an toàn
cá nhân; quyền về đời tư; quyền về lánh nạn; quyền được biểu đạt; quyền lập hội
và hội họp; quyền được giáo dục và chăm sóc y tế), ngoài những quyền quy định
riêng với trẻ em.
Nhiều quyền trong số các quyền của
trẻ em có liên quan đến vấn đề ngăn ngừa HIV/AIDS, qua việc chăm sóc và hỗ trợ
trẻ, chẳng hạn như quyền được bảo vệ trước sự buôn bán, mại dâm, bóc lột và lạm
dụng tình dục, bởi lẽ bạo lực tình dục chống lại trẻ em, trong số những vấn đề
khác, làm tăng tính dễ bị tổn thương của trẻ trước HIV/AIDS. Quyền tự do tìm kiếm,
tiếp nhận và trao đổi thông tin và quan điểm về tất cả các vấn đề, cũng như quyền
về giáo dục cung cấp cho trẻ em khả năng được tiếp nhận tất cả các thông tin
liên quan đến HIV mà các em cần để tránh bị ảnh hưởng và để đối phó với tình
hình trong trường hợp bị lây nhiễm. Quyền được hỗ trợ và bảo vệ đặc biệt với những
trẻ em bị tước môi trường gia đình, bao gồm việc được nhận làm con nuôi và cung
cấp sự bảo vệ, chăm sóc thay thế, có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ những
trẻ em bị mồ côi bởi HIV/AIDS.
Quyền của trẻ em khuyết tật được
hưởng một cuộc sống đầy đủ và tử tế và được chăm sóc đặc biệt, cũng như các quyền
liên quan đến việc xóa bỏ những tập tục truyền thống mà có hại cho sức khỏe của
trẻ em, chẳng hạn như tục tảo hôn, tục cắt bỏ âm vật nữ, tục trọng nam khinh nữ
trong nuôi dưỡng, chăm sóc và thừa kế tài sản, liên quan mật thiết với bối cảnh
HIV/AIDS. Theo Công ước về quyền trẻ em, quyền không bị phân biệt đối xử và quyền
được bảo vệ đời tư phải được áp dụng với những trẻ em sống chung với HIV/AIDS.
Cuối cùng, các quyền của trẻ em được bày tỏ ý kiến, quan điểm và quyết định sự
phát triển của bản thân mình mà cho phép các em tham gia vào các quá trình ra
quyết định về cuộc sống của các em, từ đó trao quyền cho các em được tham gia
vào việc xây dựng và thực hiện chương trình liên quan đến HIV cho trẻ em.
4. Quyền được kết hôn, lập gia
đình và bảo vệ gia đình
Quyền được kết hôn và lập gia đình
bao gồm quyền “của đàn ông và phụ nữ đến độ tuổi theo quy định, không hạn chế về
chủng tộc, dân tộc hoặc tôn giáo, được kết hôn và lập gia đình”, cần được “bảo
đảm các quyền bình đẳng khi kết hôn, trong thời gian hôn nhân và khi hôn nhân kết
thúc”, và gia đình cần được bảo vệ bởi nhà nước và xã hội như là “một tế bào tự
nhiên và cơ bản của xã hội”. Bởi vậy, việc bắt buộc xét nghiệm trước hôn nhân
và/hoặc yêu cầu phải có “chứng nhận không mang bệnh AIDS” như là một tiền đề để
cấp giấy đăng ký kết hôn theo luật pháp quốc gia rõ ràng là một sự vi phạm quyền
của những người sống chung với HIV/AIDS. Thứ hai là, việc cưỡng bức phá thai hoặc
triệt sản với những phụ nữ người sống chung với HIV/AIDS là sự vi phạm quyền
con người được lập gia đình, cũng như vi phạm quyền tự do và bất khả xâm phạm của
cá nhân. Phụ nữ cần phải được cung cấp những thông tin chính xác về các nguy cơ
lây nhiễm HIV trong hôn nhân và được hỗ trợ để họ tự ra quyết định và các lựa
chọn liên quan đến việc sinh sản. Thứ ba là, các biện pháp nhằm bảo đảm các quyền
bình đẳng của phụ nữ trong gia đình là cần thiết để cho phép phụ nữ khả năng
thương lượng với chồng/bạn tình của họ về tình dục an toàn, cũng như khả năng rời
bỏ các mối quan hệ mà nếu tiếp tục duy trì họ sẽ không thể bảo vệ được các quyền
của mình (xem phần về các quyền con người của phụ nữ nêu ở trên). Cuối cùng, việc
thừa nhận gia đình như là một tế bào cơ bản của xã hội có thể bị tổn hại bởi những
chính sách mà phá hoại tính toàn vẹn của gia đình. Trong trường hợp những người
nhập cư, nhiều nhà nước không cho phép họ được mang gia đình đi theo, bởi vậy,
dẫn đến kết quả là làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV trong nhóm này. Trong trường
hợp những người di tản, việc bắt buộc xét nghiệm như là một điều kiện tiên quyết
để cho phép lánh nạn dẫn đến hậu quả là những thành viên nhiễm HIV có thể không
được phép lánh nạn trong khi những người khác trong gia đình họ có thể được hưởng
quyền này.
5. Quyền về đời tư
Điều 17 của Công ước quốc tế về
các quyền dân sự, chính trị quy định rằng: “không ai có thể bị can thiệp một
cách độc đoán hoặc trái pháp luật vào đời tư, gia đình, nhà cửa hoặc thư tín của
họ, hoặc có thể bị xúc phạm danh dự, thanh danh một cách trái pháp luật. Tất cả
mọi người có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những sự can thiệp và xúc phạm
như vậy”. Quyền về đời tư bao gồm các nghĩa vụ tôn trọng tính riêng tư về thể
chất, kể cả những nghĩa vụ phải tôn trọng sự tự nguyện trong việc xét nghiệm
HIV và bảo mật thông tin, cũng như tôn trọng nhu cầu được tôn trọng tính bảo mật
của tất các thông tin cá nhân liên quan đến tình trạng lây nhiễm HIV của một
người.
Nhu cầu về tính riêng tư của một
cá nhân đặc biệt gắn với bối cảnh HIV/AIDS; đầu tiên là bởi tính chất cưỡng bức
trong việc bắt buộc xét nghiệm HIV, và sau nữa là bởi sự quy kết và phân biệt đối
xử kèm theo những tổn hại về đời tư và tính bảo mật nếu tình trạng có HIV của một
người bị công khai hóa.
Các cộng đồng sẽ được hưởng lợi
trong việc bảo đảm tính riêng tư của các cá nhân mà từ đó tạo cho mọi thành
viên trong cộng đồng cảm giác an toàn và thoải mái khi sử dụng các dịch vụ y tế
công, chẳng hạn như các dịch vụ về phòng chống HIV/AIDS. Nhu cầu về y tế công
không thể biện minh cho việc bắt buộc xét nghiệm HIV hoặc đăng ký về tình trạng
nhiễm HIV, trừ một số trường hợp như truyền máu, cho tặng các bộ phận cơ thể,
các mô để cấy ghép cho người khác. Tất cả các thông tin thu được trong quá
trình xét nghiệm HIV trong các hoàn cảnh đó phải được tuyệt đối bảo mật.
Bởi vậy, nghĩa vụ của các nhà nước
trong việc bảo vệ quyền về đời tư bao gồm nghĩa vụ bảo đảm rằng có sự bảo vệ
thích đáng để không có trường hợp nào bị bắt buộc xét nghiệm HIV, và việc bảo mật
thông tin trong những trường hợp xét nghiệm ngoại lệ kể trên phải được bảo đảm,
đặc biệt trong các cơ sở bảo trợ xã hội và cơ sở y tế; và rằng các thông tin về
tình trạng HIV của một người không thể bị tiết lộ cho các bên thứ ba mà không
có sự đồng ý của người đó. Trong bối cảnh này, các nhà nước phải bảo đảm rằng
các thông tin cá nhân liên quan đến HIV được bảo vệ trong quá trình báo cáo và
thu thập tài liệu thống kê về dịch tễ học, và rằng các cá nhân phải được bảo vệ
khỏi sự can thiệp vô cớ vào đời tư trong quá trình thu thập và đưa tin của giới
truyền thông.
Trong những xã hội và các nền văn
hóa mà có truyền thống đặt lợi ích của cộng đồng cao hơn lợi ích cá nhân, các bệnh
nhân có thể sẵn sàng hơn trong việc cho phép thông báo tin tức về bệnh tình của
họ với những người thân trong gia đình hoặc với cộng đồng. Trong những bối cảnh
này, việc cung cấp thông tin như vậy chỉ có thể được thực hiện nhằm đảm bảo lợi
ích của những người có liên quan và không được vi phạm nghĩa vụ bảo đảm tính bảo
mật của thông tin.
Ủy ban giám sát Công ước quốc tế về
các quyền dân sự, chính trị đã phát hiện ra rằng, quyền được bảo vệ đời tư quy
định trong Điều 17 của công ước này bị vi phạm bởi pháp luật của các quốc gia
mà hình sự hóa các hành vi tình dục đồng tính mang tính tự nguyện giữa những
người lớn. Ủy ban cho rằng: “ ...việc hình sự hóa các hành vi tình dục đồng
tính không thể xem là một biện pháp hợp lý hoặc giải pháp tương thích để đạt được
mục tiêu ngăn chặn sự lây truyền của HIV/AIDS... bằng cách khiến cho nhiều người
rơi vào nguy cơ bị ảnh hưởng... việc này rõ ràng đi ngược lại với việc thực hiện
có hiệu quả các chương trình giáo dục nhằm ngăn chặn HIV/AIDS”.
Ủy ban cũng nêu rằng, khái niệm
“tình dục” trong Điều 26 của công ước mà cấm phân biệt đối xử trên những cơ sở
khác nhau bao gồm khía cạnh “xu hướng tình dục”. Tại nhiều quốc gia, có những
văn bản pháp luật quy định các hình phạt với các quan hệ hoặc hành vi tình dục
nhất định, mang tính tự nguyện giữa những người lớn, chẳng hạn như hành vi
thông dâm, ngoại tình, thủ dâm và tình dục bằng miệng. Việc hình sự hóa như vậy
không chỉ can thiệp vào quyền về đời tư mà còn gây trở ngại đến hoạt động giáo
dục và phòng ngừa HIV/AIDS.
6. Quyền được hưởng thụ các lợi
ích từ những tiến bộ khoa học và việc áp dụng các tiến bộ đó
Quyền được hưởng thụ các lợi ích từ
những tiến bộ khoa học và việc áp dụng các tiến bộ đó là quan trọng trong bối cảnh
HIV/AIDS, theo nghĩa nó làm cho việc xét nghiệm, điều trị được nhanh chóng, hiệu
quả, cũng như để sản xuất ra các vắc-xin hữu ích. Ngày càng có nhiều tiến bộ
khoa học liên quan đến HIV/AIDS trong các vấn đề về truyền máu, sử dụng các biện
pháp phòng ngừa phổ biến mà có thể ngăn chặn được sự lây truyền của HIV được áp
dụng trong các bối cảnh khác nhau, bao gồm việc chăm sóc y tế. Tuy nhiên, trong
vấn đề này, các nước đang phát triển hiện ở trong tình trạng thiếu nguồn lực
nghiêm trọng, không chỉ thể hiện ở việc hạn chế được tiếp cận với những tiến bộ
như vậy, mà còn ở việc thiếu những phương tiện phòng ngừa và thuốc điều trị.
Thêm vào đó, các nhóm thiệt thòi và/hoặc bị gạt ra lề ở các xã hội không có hoặc
không thể đủ khả năng tiếp cận với các giải pháp điều trị HIV hiện có, hay được
tham gia vào các cuộc thử nghiệm vắc-xin phòng bệnh. Vì vậy, vấn đề cần được
quan tâm sâu sắc ở đây là nhu cầu chia sẻ kiến thức và thuốc men một cách không
thiên vị giữa các quốc gia và giữa các nhóm xã hội trong một quốc gia, cũng như
là về khả năng cải tiến những liệu pháp điều trị hiện quá đắt đỏ và phức tạp.
7. Quyền được tự do đi lại
Quyền được tự do đi lại bao gồm
các quyền của mọi người được đi lại một cách hợp pháp, được tự do lựa chọn nơi
cư trú trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia, cũng như các quyền được rời khỏi
và trở về đất nước của mình. Tương tự, một người nước ngoài có vị thể hợp pháp ở
một nước khác chỉ có thể bị trục xuất theo một quyết định pháp lý được đưa ra
theo một tiến trình phù hợp.
Không thể viện dẫn yếu tố y tế
công để biện minh cho việc hạn chế tự do đi lại hoặc lựa chọn nơi ở mà liên đến
vấn đề HIV. Theo các quy định quốc tế hiện hành về y tế, chỉ có duy nhất bệnh sốt
vàng da là cần phải xin giấy phép khi đi lại trong phạm vi quốc tế. Bởi vậy, bất
kỳ sự hạn chế nào về các quyền này mà lấy lý do từ tình trạng có hoặc nghi ngờ
có HIV, bao gồm việc kiểm tra HIV với những du khách quốc tế, đều là sự phân biệt
đối xử và không thể biện minh bởi những lo lắng về y tế công.
Khi các nhà nước cấm những người sống
chung với HIV/AIDS không được cư trú ở một nơi nào đó với lý do về những chi
phí kinh tế, các nhà nước không được cá biệt hóa vấn đề HIV/AIDS mà trái với
các điều kiện tương tự để đưa ra cách giải quyết như vậy, và không được quy định
rằng những chi phí như vậy chỉ áp dụng với những người nước ngoài tìm kiếm nơi
cư trú. Trong việc xem xét các đơn xin nhập cảnh, các lý do nhân đạo, chẳng hạn
như việc tái hòa nhập gia đình hay nhu cầu tìm kiếm nơi lánh nạn, phải được đặt
cao hơn những quan tâm về kinh tế.
8. Quyền được tìm kiếm và được cho
phép lánh nạn
Tất cả mọi người đều có quyền tìm
kiếm và được các nước khác cho phép lánh nạn để tránh bị đàn áp. Theo Công ước
về vị thế của người tỵ nạn năm 1951 và căn cứ vào luật tập quán quốc tế, các
nhà nước không thể, phù hợp với nguyên tắc không đẩy trả lại, buộc những người
tỵ nạn phải trở về nước họ nếu như họ đang phải đối mặt với sự đàn áp ở đó. Bởi
vậy, các nhà nước không thể đẩy một người tỵ nạn vào hoàn cảnh bị đàn áp bởi lý
do họ có liên quan đến HIV. Thêm vào đó, việc nước gốc bị coi là đối xử phân biệt
với những người sống chung với HIV/AIDS cũng là cơ sở để xem xét và cấp quy chế
tỵ nạn cho một người có HIV.
Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tỵ nạn
đã ban hành các hướng dẫn chính sách có liên quan đến vấn đề trên từ tháng 3
năm 1988, theo đó quy định rằng, không được coi những người tỵ nạn và người tìm
kiếm nơi lánh nạn là mục tiêu để áp dụng những biện pháp đặc biệt liên quan đến
HIV, và rằng, không thể biện minh cho việc xét nghiệm để loại trừ những người
có HIV khỏi diện được cấp quy chế lánh nạn.
Ủy ban giám sát thực hiện Công ước
quốc tế về các quyền dân sự, chính trị cũng đã khẳng định rằng, quyền được bảo
vệ bình đẳng trước pháp luật cấm sự phân biệt đối xử trong pháp luật và trong
thực tế trên bất cứ lĩnh vực nào mà được quản lý và bảo vệ bởi các nhà chức
trách có thẩm quyền. Điều này bao gồm các quy định pháp luật về đi lại, các yêu
cầu xuất nhập cảnh, các thủ tục xét cho lánh nạn. Bởi vậy, mặc dù không có quyền
nào quy định cho người nước ngoài được nhập cảnh vào một quốc gia hoặc được cho
phép lánh nạn ở bất kỳ quốc gia cụ thể nào, sự phân biệt đối xử dựa trên cơ sở
tình trạng về HIV trong các lĩnh vực như quy định pháp luật về đi lại, các yêu
cầu xuất nhập cảnh, các thủ tục xét cho lánh nạn cũng cấu thành sự vi phạm quyền
được bình đẳng trước pháp luật.
9. Quyền được tự do và an toàn cá nhân
Điều 9 Công ước quốc tế về các quyền
dân sự, chính trị quy định rằng: “Mọi người có quyền được tự do và an toàn cá
nhân. Không ai có thể bị bắt và giam cầm một cách vô cớ. Không ai có thể bị tước
tự do trừ khi điều đó dựa trên cơ sở và phù hợp với những thủ tục quy định
trong pháp luật”.
Vì vậy, quyền được tự do và an
toàn cá nhân không bao giờ có thể bị xâm phạm một cách tùy tiện chỉ đơn giản bởi
lý do tình trạng liên quan đến HIV của một cá nhân, qua các biện pháp như cách
ly, giam giữ ở những khu vực đặc biệt, hoặc cô lập họ. Không thể lấy lý do bảo
vệ sức khỏe cộng đồng để biện minh cho sự tước đoạt tự do như vậy. Thực tế đã
chứng tỏ rằng các lợi ích về y tế công đạt được bằng cách hội nhập những người
sống chung với HIV/AIDS vào cộng đồng và khuyến khích họ tham gia vào đời sống
công cộng và kinh tế.
Trong những trường hợp ngoại lệ
liên quan đến các phán quyết khách quan của tòa án mà nhằm vào những thái độ
nguy hiểm hoặc cố ý thì có thể áp dụng những hạn chế về tự do. Song những trường
hợp ngoại lệ này vẫn cần phải tuân thủ các quy định thông thường trong luật về
y tế công, hoặc trong luật hình sự, nhằm bảo đảm sự bảo vệ thích đáng với những
người có liên quan.
Bắt buộc xét nghiệm HIV có thể cấu
thành hành vi tước đoạt tự do và sự vi phạm quyền về an toàn cá nhân. Biện pháp
cưỡng bức này thường được sử dụng với những nhóm mà ít có khả năng tự bảo vệ
mình, bởi vì họ đang thuộc quyền quản lý của một cơ quan chính quyền hoặc theo
luật hình sự, ví dụ như binh sĩ, tù nhân, những người làm nghề mại dâm, những
người sử dụng ma túy, những người đồng tính luyến ái nam. Cũng không thể viện dẫn
lý do y tế công để biện minh cho việc bắt buộc xét nghiệm HIV như vậy. Việc tôn
trọng quyền được toàn vẹn về thể chất yêu cầu rằng các xét nghiệm phải được thực
hiện trên cơ sở tự nguyện và có sự đồng ý của những người được xét nghiệm.
10. Quyền được giáo dục
Điều 26 Tuyên ngôn Toàn thế giới về
Quyền con người nêu rõ rằng: “Mọi người đều có quyền được giáo dục... Giáo dục
phải hướng tới sự phát triển đầy đủ nhân cách và tăng cường sự tôn trọng các
quyền và tự do cơ bản của con người. Nó cũng cần phải thúc đẩy sự hiểu biết,
khoan dung và tình hữu nghị…” Quyền này bao gồm ba hợp phần lớn mà có thể áp dụng
trong bối cảnh HIV/AIDS. Thứ nhất, cả trẻ em và người lớn đều có quyền tiếp nhận
giáo dục về HIV/AIDS, đặc biệt là các kiến thức liên quan đến phòng ngừa đại dịch
và chăm sóc người bị lây nhiễm. Tiếp cận với giáo dục liên quan đến HIV/AIDS là
một yếu tố cốt yếu trong các chương trình phòng ngừa và chăm sóc có hiệu quả.
Các nhà nước, bất kể trong truyền thống tôn giáo và văn hóa nào, đều có nghĩa vụ
bảo đảm có các biện pháp thích hợp để lồng ghép một cách có hiệu quả các thông
tin về HIV/AIDS vào các chương trình giáo dục ở trong và ngoài nhà trường. Việc
cung cấp cho trẻ em các kiến thức và thông tin về HIV không có nghĩa là khuyến
khích trẻ em có những trải nghiệm tình dục sớm, mà như nhiều nghiên cứu đã chỉ
ra là nhằm để làm chậm lại những hoạt động tình dục của trẻ. Thứ hai là, các
nhà nước cần bảo đảm rằng cả trẻ em và người lớn sống chung với HIV/AIDS không
bị từ chối quyền được giáo dục theo một cách thức phân biệt đối xử, bao gồm việc
từ chối không được đến trường phổ thông, trường đại học, từ chối được nhận các
học bổng, việc tiếp cận với giáo dục quốc tế hoặc bị hạn chế các cơ hội đó bởi
vị thế liên quan đến HIV của họ. Không có yếu tố nào về y tế công có thể sử dụng
để biện minh cho những biện pháp như vậy, bởi lẽ thông thường không có nguy cơ
lây truyền HIV thông qua các hoạt động giáo dục. Thứ ba là, các nhà nước cần
thông qua giáo dục để thúc đẩy sự hiểu biết, tôn trọng, khoan dung và phân biệt
đối xử với những người sống chung với HIV/AIDS.
11. Tự do biểu đạt và thông tin
Điều 19 Công ước quốc tế về các
quyền dân sự, chính trị quy định rằng: “Mọi người đều có quyền giữ quan điểm mà
không bị can thiệp...Mọi người có quyền tự do biểu đạt; quyền này bao gồm tự do
tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá thông tin và các ý tưởng dưới mọi hình thức…”
Bởi vậy, quyền này bao gồm quyền được tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá thông
tin liên quan đến phòng ngừa và điều trị HIV. Những tài liệu giáo dục về vấn đề
này cần thiết phải đề cập những thông tin chi tiết về những nguy cơ lây nhiễm
mà có thể, ở những nơi cần thiết, cần nhằm vào những đối tượng có những ứng xử
trái pháp luật, chẳng hạn như những người sử dụng ma túy, những người sinh hoạt
tình dục đồng giới; những ấn phẩm như vậy không nên nhìn nhận một cách sai lầm
là đối tượng của luật về kiểm duyệt hoặc của luật về chống văn hóa đồi trụy,
hay luật về truyền bá những thông tin “cổ vũ, khuyến khích” tội phạm hình sự.
Các nhà nước có trách nhiệm bảo đảm rằng những thông tin thích hợp và hiệu quả
về các biện pháp phòng ngừa lây nhiễm HIV sẽ được phổ biến cho mọi người trong
những bối cảnh văn hóa và truyền thống tôn giáo khác nhau. Giới truyền thông cần
tôn trọng các quyền và nhân phẩm của con người, đặc biệt là quyền về đời tư, và
cần sử dụng những ngôn ngữ phù hợp khi đưa tin về HIV/AIDS. Thông tin về
HIV/AIDS cần phải chính xác, thực tế, nhạy cảm và cần phải tránh những định kiến
rập khuôn hoặc sự quy kết.
12. Tự do hội họp và lập hội
Điều 20 Tuyên ngôn Toàn thế giới về
Quyền con người quy định rằng: “Mọi người có quyền được hội họp và lập hội một
cách hòa bình”. Quyền này thường bị từ chối với những tổ chức phi chính phủ hoạt
động trên lĩnh vực quyền con người, với mạng lưới các tổ chức hoạt động trên
các lĩnh vực đạo đức, luật, quyền con người và dịch vụ HIV/AIDS, và các tổ chức
dựa vào cộng đồng, bằng cách từ chối không cho đăng ký hoạt động khi những tổ
chức này chỉ trích chính phủ hoặc hướng sự điều tra vào một số lĩnh vực nhạy cảm,
chẳng hạn như vấn đề lao động tình dục. Nhìn chung, các tổ chức phi chính phủ
và các thành viên của các tổ chức này tham gia vào lĩnh vực quyền con người cần
được hưởng các quyền và tự do được quy định trong các văn kiện về quyền con người
và được pháp luật quốc gia bảo vệ. Trong bối cảnh HIV/AIDS, tự do lập hội và hội
họp với người khác là yếu tố quan trọng để tiến hành các hoạt động vận động,
tuyên truyền về HIV, để cho các nhóm tự giúp nhau thể hiện những nhu cầu và nhằm
đáp ứng các nhu cầu của các nhóm khác nhau bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, bao gồm cả
những người sống chung với HIV/AIDS. Y tế công và sự phản ứng hiệu quả với
HIV/AIDS sẽ bị ảnh hưởng bởi việc ngăn cản sự liên hệ và đối thoại giữa các
nhóm khác nhau và giữa các thành viên trong các nhóm đó, và với những nhà hoạt
động xã hội, các tổ chức xã hội dân sự và các quan chức chính phủ.
Thêm vào đó, những người sống
chung với HIV/AIDS cần được bảo vệ để chống lại những sự phân biệt đối xử trực
tiếp hoặc gián tiếp căn cứ vào tình trạng về HIV của họ, liên quan đến việc được
chấp nhận vào các tổ chức của những người sử dụng lao động, hay các công đoàn,
hoặc được tiếp tục là thành viên hay tiếp tục được tham gia các hoạt động trong
các tổ chức như vậy, phù hợp với các văn kiện của ILO về tự do lập hội và thỏa
ước tập thể. Tương tự, những người lao động và người sử dụng lao động là những
đối tượng quan trọng cần được nâng cao nhận thức về các vấn đề liên quan đến
HIV/AIDS, cũng như trong việc đối phó với những hậu quả của đại dịch ở nơi làm
việc.
13. Quyền được tham gia vào đời sống
văn hóa, chính trị
Thừa nhận quyền được tham gia vào
các hoạt động công cộng, cũng như vào đời sống văn hóa, là yếu tố quan trọng để
bảo đảm sự tham gia của những người bị ảnh hưởng nặng nhất bởi HIV/AIDS vào việc
xây dựng và thực hiện các chương trình và chính sách liên quan đến vấn đề HIV.
Các quyền con người này được củng cố bởi các nguyên tắc của nền dân chủ cùng
tham gia, trong đó đảm bảo sự tham gia của những người sống chung với HIV/AIDS
và các thành viên trong gia đình họ, của phụ nữ, trẻ em, và các nhóm dễ bị tổn
thương với HIV/AIDS khác trong việc xây dựng và thực hiện các chương trình mà kết
quả của chúng sẽ phụ thuộc vào việc có phản ánh được nhu cầu cụ thể của các
nhóm này hay không. Một điều quan trọng là cần đảm bảo rằng những người sống
chung với HIV/AIDS được tham gia một cách đầy đủ vào các khía cạnh của đời sống
văn hóa, xã hội, kinh tế và chính trị của cộng đồng.
Những người sống chung với
HIV/AIDS có quyền có bản sắc văn hóa của họ, và quyền sáng tạo dưới các hình thức
khác nhau, cả hai quyền này như là một cách thức biểu hiện nghệ thuật và như là
một liệu pháp điều trị. Sự thừa nhận ngày càng tăng các quyền này tạo ra một
phương tiện phổ biến để truyền bá các thông tin về HIV/AIDS, để chống sự kỳ thị,
và như là một liệu pháp của tình đoàn kết.
14. Quyền được hưởng chuẩn mực cao
nhất có thể về sức khỏe tâm lý và thể chất
Quyền được hưởng chuẩn mực cao nhất
có thể về sức khỏe tâm lý và thể chất bao gồm, ngoài những khía cạnh khác, “việc
phòng ngừa, điều trị và kiểm soát đại dịch..” và “việc tạo ra các điều kiện mà
bảo đảm rằng tất cả các dịch vụ y tế và sự chăm sóc y tế được dành cho mọi người
đau ốm”.
Nhằm thực hiện những nghĩa vụ này
trong bối cảnh HIV/AIDS, các nhà nước cần bảo đảm rằng việc cung cấp các thông
tin thích hợp, giáo dục và hỗ trợ về HIV, bao gồm việc tiếp cận với các dịch vụ
nhằm hạn chế các căn bệnh lây qua đường tình dục, các phương tiện phòng ngừa
(ví dụ như bao cao su, kim tiêm sạch), và phải bảo đảm sự xét nghiệm là tự nguyện,
bảo mật kết quả, có tư vấn trước và sau xét nghiệm, nhằm cho phép mọi cá nhân
có thể tự bảo vệ mình và bảo vệ người khác khỏi ảnh hưởng của đại dịch. Các nhà
nước cũng cần phải bảo đảm nguồn cung cấp máu sạch và thực hiện “những cảnh báo
phổ biến” nhằm ngăn ngừa sự lây truyền HIV ở các cơ sở như các bệnh viện, các
phòng khám, các cơ sở nha khoa, các cơ sở châm cứu, cũng như những cơ sở không
chính thức khác, chẳng hạn như các nhà hộ sinh gia đình.
Các nhà nước cũng cần phải bảo đảm
sự tiếp cận thích đáng với điều trị y tế và thuốc men, trong bối cảnh tổng thể
của các chính sách y tế công của nước mình, nhằm giúp những người sống chung với
HIV/AIDS có thể sống lâu và thoải mái đến mức có thể. Những người sống chung với
HIV/AIDS cũng cần được tiếp cận với các thử nghiệm y tế và được tự do lựa chọn
trong tất cả các loại thuốc và liệu pháp sẵn có, bao gồm cả các liệu pháp thay
thế. Sự ủng hộ quốc tế, từ cả khối nhà nước và tư nhân, cho các quốc gia đang
phát triển để tăng cường sự tiếp cận với các dịch vụ y tế và điều trị, thuốc
men và thiết bị, là mang tính thiết yếu. Trong bối cảnh này, các nhà nước cần bảo
đảm rằng không cung cấp viện trợ bằng những loại thuốc đã quá hạn sử dụng hoặc
bằng những loại vật tư không có giá trị.
Các nhà nước có thể phải thực thi
những biện pháp đặc biệt nhằm bảo đảm rằng tất cả các nhóm trong xã hội, đặc biệt
là các nhóm bị đẩy ra ngoài lề của sự phát triển, được bình đẳng trong việc tiếp
cận với các dịch vụ điều trị, chăm sóc và phòng ngừa HIV. Các nghĩa vụ về quyền
con người của các nhà nước trong việc phòng chống sự phân biệt đối xử và nhằm bảo
đảm các dịch vụ và sự quan tâm y tế cho tất cả mọi người lâm vào tình cảnh đau ốm
yêu cầu các nhà nước phải bảo đảm rằng không ai có thể bị phân biệt đối xử
trong chăm sóc y tế với lý do họ có những liên quan đến HIV.
15. Quyền được có tiêu chuẩn sống
thích đáng và được hưởng các dịch vụ an sinh xã hội
Điều 25 Tuyên ngôn Toàn thế giới về
Quyền con người nêu rằng: “Mọi người có quyền được có một tiêu chuẩn sống thích
đáng cho sức khỏe và sự yên vui của bản thân và gia đình mình, bao gồm được có
lương thực, quần áo, nhà ở, chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết, và
quyền được bảo đảm an sinh trong các trường hợp bị thất nghiệp, đau ốm, khuyết
tật, góa bụa, già cả hoặc mất nguồn sống ngoài sự kiểm soát của mình”. Việc hưởng
thụ quyền được có tiêu chuẩn sống thích đáng là thiết yếu đối với việc giảm thiểu
tính dễ bị tổn thương với các nguy cơ và hậu quả của việc lây nhiễm HIV. Điều
này đặc biệt liên quan đến việc đáp ứng các nhu cầu của những người sống chung
với HIV/AIDS và/hoặc những thành viên trong gia đình họ, những người bị bần
cùng hóa bởi HIV/AIDS, do sự hoành hành của bệnh tật phát sinh từ AIDS, và/hoặc
do sự phân biệt đối xử mà có thể dẫn tới bị thất nghiệp, vô gia cư hay nghèo
đói. Nếu các nhà nước đặt ưu tiên cho việc cung cấp các dịch vụ nhằm hỗ trợ những
đối tượng này, thì những người sống chung với HIV/AIDS và những người ở trong
hoàn cảnh tương tự hoặc bị tổn hại bởi HIV sẽ có thể được hưởng những đối xử
thích hợp nhằm giảm bớt những đau khổ xuất phát từ hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
của họ.
Các nhà nước cần thực hiện các bước
nhằm bảo đảm rằng những người sống chung với HIV/AIDS không bị từ chối một cách
phân biệt đối xử trong việc hưởng quyền được có tiêu chuẩn sống thích đáng,
và/hoặc được bảo đảm an sinh xã hội, được cung cấp các dịch vụ căn cứ vào vị thế
của họ.
16. Quyền được làm việc
"Mọi người có quyền được làm
việc... [và] được có một điều kiện làm việc công bằng, thuận lợi". Quyền
được làm việc bao gồm quyền của tất cả mọi người được tiếp cận với việc làm mà
không bị định kiến, ngoại trừ các yêu cầu về mặt chuyên môn cần thiết. Sẽ bị
coi là vi phạm quyền này khi một người xin việc hoặc một người lao động bị yêu
cầu phải làm xét nghiệm bắt buộc về HIV, và bị từ chối nhận vào làm việc, bị sa
thải hoặc tước bỏ các lợi ích khi họ bị phát hiện là có HIV. Các nhà nước cần bảo
đảm rằng những người sống chung với HIV/AIDS được phép làm việc cho đến khi nào
họ còn có thể đảm đương các công việc được giao phó. Sau đó, giống như với các
trường hợp đau ốm khác, những người sống chung với HIV/AIDS phải được tạo điều
kiện để có thể tiếp tục làm việc đến khi có thể, và khi không thể tiếp tục làm
việc gì nữa, họ phải được đối xử bình đẳng như với các trường hợp đau ốm hay
khuyết tật khác. Người xin việc và người lao động không thể bị yêu cầu khai báo
về tình trạng liên quan đến HIV của họ với người sử dụng lao động, hoặc liên
quan đến các vấn đề về bồi thường, trợ cấp hưu trí hay bảo hiểm y tế. Các nhà
nước có nghĩa vụ ngăn chặn tất cả các hình thức phân biệt đối xử ở nơi làm việc,
bao gồm sự phân biệt đối xử dựa trên cơ sở HIV/AIDS. Nghĩa vụ này phải mở rộng
đến khu vực kinh tế tư nhân.
Với ý nghĩa là một phần trong những
điều kiện thuận lợi ở nơi làm việc, tất cả người lao động có quyền được có các
điều kiện làm việc an toàn và đảm bảo sức khỏe. Tại đa số các cơ sở lao động và
nghề nghiệp, việc làm không tạo ra nguy cơ bị lây nhiễm HIV giữa những người
lao động, giữa người lao động với những người bên ngoài cơ sở lao động, hoặc giữa
những người bên ngoài cơ sở lao động với những người lao động trong doanh nghiệp.
Tuy nhiên, có một số nơi làm việc có nguy cơ lây nhiễm như vậy, chẳng hạn như ở
các cơ sở y tế. Trong điều kiện đó, các nhà nước cần phải có những biện pháp nhằm
giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm. Đặc biệt, những người lao động trong ngành y tế
phải được đào tạo một cách thích hợp về những cảnh báo phổ biến nhằm tránh tình
trạng bị lây nhiễm, và phải được cung cấp các công cụ để thực hiện các cảnh báo
đó.
17. Quyền tự do không bị tra tấn,
đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm
Quyền tự do không bị tra tấn, đối
xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm có thể được viện dẫn
trong bối cảnh HIV/AIDS, liên quan đến việc đối xử với tù nhân và vấn đề bạo lực
chống lại phụ nữ.
Giam giữ là hình thức trừng phạt bằng
cách tước tự do, nhưng không được tước các quyền con người và nhân phẩm của người
bị giam giữ. Cụ thể, các nhà nước, thông qua những nhà chức trách có thẩm quyền
ở các cơ sở giam giữ, có nghĩa vụ phải chăm sóc các tù nhân, bao gồm nghĩa vụ bảo
vệ các quyền được sống và quyền về sức khỏe của tất cả những người bị giam giữ.
Từ chối không cho phép tù nhân tiếp cận với các thông tin, giáo dục và các biện
pháp phòng ngừa HIV (chất tẩy, bao cao su, bơm kim tiêm sạch), cũng như không bảo
đảm sự xét nghiệm và tư vấn là tự nguyện, bảo mật, các dịch vụ chăm sóc y tế
liên quan đến đại dịch, sự tiếp cận và tham gia một cách tự nguyện vào những thử
nghiệm điều trị, đều có thể cấu thành hành vi tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt
tàn ác, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm. Nghĩa vụ chăm sóc cũng bao gồm trách
nhiệm ngăn chặn tình trạng hãm hiếp trong tù và những dạng cưỡng bức tình dục
khác mà có thể làm lây truyền HIV.
Bởi vậy, cần áp dụng kỷ luật với mọi
tù nhân có những hành vi nguy hiểm, bao gồm hành động hãm hiếp và cưỡng bức
tình dục. Việc kỷ luật như vậy là căn cứ vào hành vi của họ, bất kể họ có hay
không liên quan đến HIV. Không thể sử dụng vấn đề y tế hoặc an ninh công cộng để
biện minh cho việc bắt buộc tù nhân xét nghiệm HIV, hoặc từ chối không cho phép
các tù nhân sống chung với HIV/AIDS được tiếp cận với tất cả hoạt động trong tù
mà những tù nhân khác được tham gia. Thêm vào đó, chỉ có một lý do duy nhất có
thể biện minh cho việc cách ly những tù nhân sống chung với HIV/AIDS, đó là việc
đó để bảo đảm sức khỏe cho chính bản thân những người này. Những tù nhân đã ở
giai đoạn bệnh lý cuối cùng, bao gồm bệnh AIDS, cần được xem xét để được phóng
thích sớm, nhằm tạo điều kiện cho họ có thể được đối xử một cách thích hợp ở
bên ngoài nhà tù.
Bạo lực chống lại phụ nữ dưới mọi
hình thức trong thời gian hòa bình hay trong các bối cảnh có xung đột đều làm
tăng tính dễ bị tổn thương của phụ nữ và trẻ em với sự lây nhiễm HIV. Những bạo
lực chống lại phụ nữ mà có thể cấu thành hành vi tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt
tàn ác, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm bao gồm bạo lực tình dục, hãm hiếp (kể
cả hãm hiếp trong quan hệ vợ chồng), và các dạng cưỡng bức tình dục khác, cũng
như những tập tục truyền thống ảnh hưởng đến sức khỏe của phụ nữ và trẻ em. Các
nhà nước có nghĩa vụ bảo vệ phụ nữ khỏi bạo lực tình dục cả trong đời sống công
cộng và riêng tư.
II. CÁC HƯỚNG DẪN
HÀNH ĐỘNG CHO QUỐC GIA
Dưới đây là những Hướng dẫn nhằm
giúp các quốc gia thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người trong bối cảnh
HIV/AIDS. Các Hướng dẫn này gắn liền với các chuẩn mực quốc tế hiện hành về quyền
con người và dựa trên nhiều năm kinh nghiệm trong việc xác định các chiến lược
và đã được chứng minh là thành công trong việc giải quyết các vấn đề về
HIV/AIDS. Các nguyên tắc pháp lý cùng với các chiến lược thực tiễn đã cung cấp
các bằng chứng và ý tưởng cho các quốc gia trong việc tái định hướng và xây dựng
lại các chính sách và chương trình để bảo đảm việc tôn trọng các quyền liên
quan đến HIV và để đạt được hiệu quả cao nhất trong việc đối phó với đại dịch.
Các quốc gia cần có sự lãnh đạo chính trị và nguồn tài chính thỏa đáng để có thể
áp dụng các chiến lược này.
Các Hướng dẫn chú trọng vào hoạt động
của các quốc gia nhìn từ góc độ trách nhiệm của các quốc gia đó trong các văn
kiện quốc tế và khu vực về quyền con người. Tuy nhiên, điều đó không phủ định
trách nhiệm của các chủ thể cơ bản khác, như các khối tư nhân, kể cả các nhóm
chuyên môn như những người làm công tác chăm sóc sức khỏe, truyền thông, các tổ
chức tôn giáo. Các nhóm này cũng có trách nhiệm không kỳ thị và thực hiện các
chính sách và hoạt động có tính đạo đức và bảo vệ.
A. Các trách
nhiệm và tiến trình mang tính thể chế
Hướng dẫn 1: Cơ cấu tổ chức quốc
gia
Các nhà nước cần thiết lập một
cơ cấu tổ chức quốc gia hiệu quả để tiến hành những hành động đối phó với
HIV/AIDS, nhằm bảo đảm một sự tiếp cận có tính phối hợp, tính cùng tham gia,
tính minh bạch và có trách nhiệm, lồng ghép nghĩa vụ về chính sách và chương
trình liên quan đến HIV/AIDS trong hoạt động của toàn bộ các ban ngành của
chính phủ.
Dựa trên cơ cấu tổ chức hiện có, mức
độ bệnh dịch và văn hóa chính thống cũng như nhu cầu tránh trùng lặp về trách
nhiệm, những điều sau nên được lưu ý:
1. Thành
lập một ủy ban liên bộ để bảo đảm sự lồng ghép và phối hợp ở cấp cao trong các
chương trình hành động quốc gia và để điều hành, thực hiện các chiến lược về
HIV/AIDS như được đặt ra dưới đây. Trong hệ thống liên bang, cũng cần thành lập
một ủy ban liên chính phủ với đại diện của các tỉnh/các bang, và đại diện của
liên bang. Mỗi bộ cần bảo đảm rằng vấn đề HIV/AIDS và quyền con người được lồng
ghép trong toàn bộ các kế hoạch và hoạt động liên quan của mình, bao gồm:
a. Giáo
dục;
b. Luật
và thi hành pháp luật, gồm cả cảnh sát và lực lượng an ninh, bảo đảm trật tự xã
hội;
c. Khoa
học và nghiên cứu;
d. Việc
làm và dịch vụ công;
e. Phúc
lợi, an sinh xã hội và nơi ở;
f. Nhập cư, người bản địa, các hoạt động ngoại giao và hợp tác
phát triển;
g. Y
tế;
h. Kho
bạc và tài chính;
i. Quốc phòng, gồm mọi lực lượng vũ trang.
2. Bảo
đảm có một diễn đàn sẽ hoặc đang hoạt động nhằm cung cấp thông tin, thảo luận
các chính sách và cải cách pháp luật để nâng cao hiểu biết về dịch bệnh, trong
đó mọi người có quan điểm chính trị khác nhau đều được tham gia cả ở cấp quốc
gia và các cấp thấp hơn, ví dụ như thành lập các ủy ban nghị viện hay ủy ban lập
pháp có đại diện của các chính đảng của các nhóm đa số và thiểu số.
3. Thành
lập và củng cố các cơ quan cố vấn cho chính phủ về các vấn đề pháp luật và luân
lý, như các tiểu ban pháp luật và đạo đức thuộc ủy ban liên bộ. Đại diện của
các cơ quan này nên có các chuyên gia (trong các ngành công cộng, luật và giáo
dục, khoa học, y sinh học và xã hội), các nhóm tôn giáo và cộng đồng, các tổ chức
của người lao động và người sử dụng lao động, các tổ chức phi chính phủ và tổ
chức hoạt động trên lĩnh vực HIV/AIDS và quyền con người, những người được chỉ
định/chuyên gia và những người sống chung với HIV/AIDS.
4. Tác
động đến ngành tư pháp theo cách phù hợp với tính độc lập của tư pháp, trong
các vấn đề về pháp luật, đạo đức và quyền con người liên quan đến HIV/AIDS, kể
cả thông qua giáo dục về pháp luật và phát triển các tài liệu về pháp luật.
5. Sự
tác động lẫn nhau hiện có giữa các ban ngành chính phủ với các Nhóm Chủ đề về
HIV/AIDS của Liên Hợp Quốc cũng như với các đối tác quốc tế và song phương khác
có liên quan để bảo đảm rằng các hành động đối phó của chính phủ với HIV/AIDS sẽ
tiếp tục nhận được sự hỗ trợ tốt nhất từ cộng đồng quốc tế. Những mối quan hệ
tương tác này, mặt khác, sẽ củng cố sự hợp tác và hỗ trợ trên các lĩnh vực liên
quan đến HIV/AIDS và quyền con người.
Hướng dẫn 2: Hỗ trợ các tổ chức cộng
đồng
Các nhà nước cần bảo đảm, thông
qua sự ủng hộ về chính trị và tài chính, để có sự tham vấn của cộng đồng trong
mọi giai đoạn xây dựng, lên kế hoạch, thực hiện và đánh giá các chính sách về
HIV/AIDS, và bảo đảm rằng các tổ chức dựa trên cộng đồng được phép thực hiện một
cách hiệu quả các hoạt động của họ, kể cả trong các lĩnh vực về đạo đức, pháp
luật và quyền con người.
1. Đại
diện cộng đồng cần bao gồm những người sống chung với HIV/AIDS, các tổ chức dựa
trên cộng đồng, mạng lưới các tổ chức hoạt động trên các lĩnh vực đạo đức, luật,
quyền con người và dịch vụ HIV/AIDS, các tổ chức phi chính phủ về quyền con người
và các nhóm dễ bị tổn thương. Các cơ chế chính thức và thường xuyên cần được
thiết lập để tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc đối thoại và cung cấp nguồn
thông tin từ những đại diện cộng đồng như vậy vào các chính sách và chương
trình của Chính phủ liên quan đến HIV. Việc này có thể được thực hiện thông qua
chế độ thông báo định kỳ của đại diện cộng đồng lên các cơ quan của chính phủ,
các ban của nghị viện hoặc của ngành tư pháp như miêu tả trong Hướng dẫn 1, hoặc
thông qua các hội thảo có sự tham gia của các đại diện cộng đồng về các chính
sách, kế hoạch và đánh giá các hoạt động của nhà nước, hay thông qua các cơ chế
tiếp nhận các văn bản do cộng đồng gửi lên.
2. Các
chính phủ cần cung cấp đầy đủ tài chính để hỗ trợ, duy trì và phát triển các tổ
chức cộng đồng trong các việc hỗ trợ cơ bản, xây dựng năng lực và thực hiện các
hoạt động trên các lĩnh vực như liên quan đến HIV, đạo đức, quyền con người và
pháp luật. Những hoạt động như vậy có thể là các hội nghị đào tạo, hội thảo, mạng
lưới hoạt động, phát triển tài liệu giáo dục, giới thiệu khách hàng cho các tổ
chức liên quan, thu thập các thông tin về các quyền con người và về việc tuyên
truyền về quyền con người.
B. Rà soát, sửa
đổi pháp luật và các dịch vụ hỗ trợ
Hướng dẫn 3: Pháp luật về y tế
công
Các nhà nước cần xem xét và sửa
đổi pháp luật về y tế công để bảo đảm rằng các vấn đề về y tế công nảy sinh từ
khía cạnh HIV/AIDS được chú trọng thỏa đáng, rằng các quy định pháp luật áp dụng
cho các bệnh lây truyền thông thường không áp dụng cho HIV/AIDS, và rằng các
quy định pháp luật đó là phù hợp với các nghĩa vụ quốc tế về quyền con người.
Luật về y tế công nên bao hàm các
phần sau:
1. Luật về y tế công nên cung cấp tài chính và trao quyền cho
các nhà chức trách về y tế công để họ có thể cung cấp được ở mức độ toàn diện
các dịch vụ về phòng ngừa và điều trị HIV/AIDS, bao gồm các thông tin và giáo dục
về các vấn đề liên quan, tư vấn và xét nghiệm tự nguyện, dịch vụ STD và các dịch
vụ tình dục và sức khỏe sinh sản cho nam giới và nữ giới, bao cao su và điều trị
nghiện ma túy, các dịch vụ và dụng cụ tiêm chích sạch, cũng như việc điều trị
thích đáng các loại bệnh liên quan đến HIV/AIDS, kể cả các vấn đề về phòng bệnh.
2. Bên cạnh những xét nghiệm giám sát và những xét nghiệm bất
chợt khác phục vụ cho mục đích dịch tễ học, luật về y tế công cần bảo đảm rằng
việc xét nghiệm HIV với các cá nhân chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý có xác
nhận của cá nhân đó. Với những trường hợp ngoại lệ, cần phải có sự cho phép
mang tính pháp lý cụ thể, và việc cho phép như vậy chỉ được thực hiện sau khi
cân nhắc các yếu tố quan trọng liên quan đến vấn đề tự do và riêng tư.
3. Xét đến tính chất nghiêm túc của việc xét nghiệm HIV và để
tối đa hóa việc phòng ngừa và chăm sóc, luật về y tế công cần bảo đảm có sự tư
vấn trước và sau khi xét nghiệm cho mọi trường hợp, nếu có thể. Trong trường hợp
có dịch vụ xét nghiệp tại gia, luật về y tế công cần bảo đảm có sự kiểm soát chất
lượng, tối đa hóa hoạt động tư vấn và các dịch vụ khác cho những người được xét
nghiệm tại gia và có các dịch vụ pháp lý và hỗ trợ cho những người là nạn nhân
của những hành động sai trái trong các xét nghiệm như vậy.
4. Luật về y tế công cần bảo đảm rằng không ai là nạn nhân của
các biện pháp cưỡng chế như cô lập, giam giữ hay cách ly do tình trạng nhiễm
HIV của họ. Khi những người sống chung với HIV bị hạn chế tự do bởi có hành vi
trái pháp luật, họ phải được hưởng những quyền liên quan đến tiến trình tố tụng
(ví dụ như quyền thông tin, quyền khiếu nại/kháng cáo, về thời hạn giam giữ và
quyền được đại diện).
5. Luật về y tế công cần bảo đảm rằng các trường hợp nhiễm
HIV/AIDS khi được báo cáo cho các cơ quan chức năng về y tế công với mục đích để
hạn chế dịch bệnh phải được áp dụng quy tắc nghiêm ngặt về bảo mật và bảo vệ
thông tin.
6. Luật về y tế công cần bảo đảm rằng thông tin liên quan đến
tình trạng HIV của cá nhân phải được bảo vệ trước các hoạt động thu thập thông
tin không được phép, trước việc sử dụng hoặc không giữ bí mật thông tin trong
các hoạt động bảo vệ sức khỏe hoặc các mục đích khác của các cơ quan/cá nhân
không có thẩm quyền và việc sử dụng các thông tin liên quan đến HIV phải có sự đồng
ý chính thức.
7. Luật về y tế công cần cho phép, nhưng không phải là bắt buộc,
trên cơ sở từng cá nhân hoặc xem xét về khía cạnh đạo đức trong từng trường hợp
cụ thể, có thể có quyết định về chuyên môn nên hay không nên cho bạn tình của
người bệnh biết về tình trạng HIV của người đó. Quyết định đó cần phù hợp với
các tiêu chí sau đây:
a. Người mắc HIV dương tính phải được trao đổi ý kiến về vấn đề
này;
b. Việc trao đổi ý kiến về việc nên có sự thay đổi hành vi phù
hợp với người mắc HIV dương tính không đạt được kết quả;
c. Người mắc HIV dương tính từ chối báo tin cho bạn tình của
người đó;
d. Nguy cơ lây truyền sang bạn tình của bệnh nhân thực sự sẽ xảy
ra;
e. Người mắc HIV dương tính được báo trước một cách hợp lý;
f. Bạn tình của người mắc HIV dương tính thực sự không
biết về tình trạng bệnh tình của người đó;
g. Cung cấp các thông tin hỗ trợ tiếp theo cho những người
trong cuộc nếu cần thiết.
8. Luật về y tế công cần bảo đảm rằng việc cung cấp máu/mô/các
cơ quan của cơ thể phải không có virus HIV và các loại bệnh lây qua đường máu
khác.
9. Luật bảo vệ y tế công cần đòi hỏi áp dụng các biện pháp
ngăn ngừa lây nhiễm trên diện rộng trong công tác chăm sóc sức khỏe và các công
việc khác liên quan đến việc tiếp xúc với máu và các chất dịch khác của cơ thể
người. Những người làm việc trong môi trường công việc như vậy phải được trang
bị các thiết bị cần thiết và được đào tạo áp dụng các biện pháp phòng ngừa.
10. Luật
về y tế công cũng cần đòi hỏi những người làm việc trong các cơ quan y tế phải
trải qua quá trình đào tạo tối thiểu về đạo đức và/hoặc về quyền con người để
được cấp phép hành nghề và cũng cần khuyến khích các hội nghề nghiệp của những
người làm công tác y tế phát triển và thực thi các bộ quy tắc ứng xử được xây dựng
dựa trên các vấn đề về đạo đức và quyền con người, gồm cả các vấn đề liên quan
đến HIV, ví dụ như về bảo mật thông tin và trách nhiệm chữa trị căn bệnh này.
Hướng dẫn 4: Luật hình sự và hệ thống
hình phạt
Các nhà nước cần rà soát và sửa
đổi luật hình sự và hệ thống hình phạt để đảm bảo rằng chúng tương thích với
các nghĩa vụ quốc tế về quyền con người và không bị lạc hậu trong bối cảnh
HIV/AIDS, hoặc không hướng vào việc chống lại những nhóm xã hội dễ bị tổn
thương.
Luật hình sự và những quy định về
y tế công không nên bao gồm những tội phạm đặc biệt về hành vi cố ý lây truyền
HIV, mà chỉ nên quy định những tội phạm chung cho những vụ việc đặc biệt đó. Sự
áp dụng này cần đảm bảo những yếu tố về động cơ, sự chuẩn bị, hậu quả và sự đồng
thuận là rõ ràng và được xác định một cách hợp pháp để có thể đưa ra một lời buộc
tội và/hoặc những hình phạt nghiêm khắc hơn.
Cần phải rà soát để hủy bỏ những
quy định hình sự cấm các hành vi tình dục (bao gồm ngoại tình, tình dục đồng giới
nam, thông dâm và mua bán dâm) giữa những người đã thành niên. Trong bất kỳ trường
hợp nào cũng không được phép cản trở những quy định về phòng chống HIV/AIDS và
dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Liên quan đến việc phi hình sự hóa lao động tình dục
của người lớn, luật hình sự cần được rà soát lại với mục đích phi hình sự hóa rồi
điều chỉnh về mặt pháp lý những điều kiện an toàn và sức khỏe nghề nghiệp để bảo
vệ những người hành nghề mại dâm và khách hàng của họ, bao gồm việc hỗ trợ hành
vi tình dục an toàn trong lao động tình dục. Luật hình sự không được cản trở
quy định về phòng chống HIV/AIDS và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho những người
hành nghề mại dâm và khách hàng của họ. Luật cần đảm bảo trẻ em và những người
lớn hành nghề mại dâm bị buôn bán hoặc bị ép buộc tham gia vào lao động tình dục
phải được bảo vệ để họ không phải tham gia vào ngành công nghiệp tình dục và
không bị truy tố vì sự tham gia này, bằng cách giải thoát họ khỏi công việc
tình dục và cung cấp cho họ các dịch vụ hỗ trợ về tâm lý xã hội và y tế, bao gồm
cả những dịch vụ liên quan đến HIV.
Luật hình sự không được ngăn cản
các biện pháp do nhà nước tiến hành nhằm làm giảm nguy cơ lây truyền HIV trong
số những người sử dụng ma túy và cung cấp sự chăm sóc, chữa trị liên quan đến
HIV cho những người này. Luật cần xem xét và cân nhắc:
1. Cho
phép hoặc hợp pháp hóa và thúc đẩy các chương trình trao đổi bơm kim tiêm.
2. Hủy
bỏ các quy định hình sự hóa việc tàng trữ, cung cấp và phân phát bơm kim tiêm.
Những cơ sở giam giữ cần áp dụng mọi
biện pháp cần thiết, bao gồm việc bố trí nhân viên phù hợp, giám sát hiệu quả
và những biện pháp kỷ luật thích đáng để bảo vệ tù nhân khỏi bị cưỡng hiếp, bạo
lực và cưỡng bức về tình dục. Những cơ sở giam giữ phải tạo điều kiện cho tù
nhân (và nhân viên nhà tù nếu cần thiết) được tiếp cận với các thông tin và
giáo dục về phòng chống HIV, việc xét nghiệm và tư vấn tự nguyện, những dụng cụ
phòng tránh (bao cao su, bơm kim tiêm sạch, chất tẩy), sự điều trị, chăm sóc và
được tham gia tình nguyện vào những thử nghiệm về chữa bệnh liên quan đến HIV
cũng như việc đảm bảo tính bí mật thông tin, cấm các hình thức xét nghiệm bắt
buộc, giam cầm cách ly và không được ngăn cản họ sử dụng các trang thiết bị của
nhà tù cũng như những đặc quyền và các chương trình dành cho những người tù nhiễm
HIV dương tính. Cần xem xét việc phóng thích ngoài chế độ những tù nhân đã chuyển
sang giai đoạn AIDS.
Hướng dẫn 5: Luật về chống phân biệt
đối xử và bảo vệ
Các nhà nước cần ban hành hoặc
củng cố luật về chống phân biệt đối xử và những luật khác để bảo vệ các nhóm xã
hội dễ bị tổn thương, những người sống chung với HIV/AIDS và những người bị tổn
hại bởi sự phân biệt đối xử, ở cả hai khu vực tư nhân và nhà nước. Điều này
liên quan đến việc đảm bảo tính riêng tư, bảo mật và đạo đức trong nghiên cứu
những vấn đề liên quan đến con người, nhấn mạnh đến giáo dục, hòa giải, đưa ra
những biện pháp dân sự, hành chính hiệu quả và nhanh chóng.
Luật về chống phân biệt nói chung
cần được ban hành hoặc rà soát để điều chỉnh những trường hợp liên quan đến những
người có triệu chứng nhiễm HIV, những người mới chỉ bị nghi ngờ nhiễm và những
người sống chung với HIV/AIDS. Luật này cũng cần bảo vệ những nhóm người dễ bị
tổn thương bởi HIV/AIDS do sự phân biệt mà họ phải đối mặt. Những luật về người
khuyết tật cần được ban hành hoặc xem xét lại để khái niệm về người khuyết tật
có thể bao hàm cả những người sống chung với HIV/AIDS. Việc ban hành các luật
như vậy cần tính đến những yếu tố sau:
Phạm vi điều chỉnh của luật cần được
mở rộng tối đa, bao gồm các vấn đề về chăm sóc sức khỏe, an sinh xã hội, phúc lợi
xã hội, lao động, giáo dục, thể thao, chỗ ở, câu lạc bộ, công đoàn lao động, tiếp
cận với giao thông và những dịch vụ khác.
Luật cần bao gồm quy định về sự
phân biệt trực tiếp hoặc gián tiếp, ngay cả khi HIV/AIDS chỉ là một trong số
vài lý do biện minh cho hành động phân biệt đối xử, và cần xem xét đưa ra quy định
cấm vu khống người khác về tình trạng HIV/AIDS.
a. Các
thủ tục hành chính tư pháp hiệu quả, nhanh chóng và độc lập cho việc yêu cầu bồi
thường, có tính đến những đặc điểm như sự quyết định nhanh chóng đối với những
vụ việc mà người thưa kiện mắc bệnh vô phương cứu chữa; những cơ quan có thẩm
quyền điều tra để xác định những trường hợp bị phân biệt đối xử một cách có hệ
thống trong chính sách và thủ tục; khả năng xem xét các vụ việc khiếu kiện đại
diện và mượn danh, bao gồm triển vọng cho phép những tổ chức phúc lợi công cộng
đưa vụ việc ra thay mặt những người nhiễm HIV/AIDS. Việc miễn trừ bảo hiểm nhân
thọ và trợ cấp hưu trí chỉ có thể liên quan đến các dữ liệu thực tế hợp lý,
theo đó, HIV/AIDS sẽ không bị đối xử khác biệt với những tình huống y tế tương
tự.
2. Các
tập quán và luật tục ảnh hưởng đến vị thế và việc điều trị cho những nhóm xã hội
khác nhau cần được xem xét lại bởi luật chống phân biệt đối xử. Nếu cần, cần phải
sửa đổi những tập quán và luật tục đó để thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người,
bởi vậy, cần quy định những hình thức khắc phục pháp lý trong trường hợp các luật
này bị vi phạm; đồng thời, cần tiến hành các hoạt động thông tin, giáo dục và
những cuộc vận động quần chúng để thay đổi những tập quán và luật tục kể trên
cũng như thái độ liên quan đến chúng.
3. Luật
về bảo mật và đời tư nói chung cần được ban hành. Những thông tin liên quan đến
HIV của cá nhân cần được bao hàm trong định nghĩa về dữ liệu cá nhân/y tế, tùy
thuộc vào sự bảo vệ, và cần cấm việc sử dụng và/hoặc xuất bản trái thẩm quyền
những thông tin dạng này. Luật về đời tư cần cho phép cá nhân có thể biết hồ sơ
của mình và có thể yêu cầu sửa đổi để đảm bảo rằng những thông tin cá nhân là
chính xác, phù hợp, hoàn chỉnh và được cập nhật. Cần thành lập một cơ quan độc
lập để bồi thường những vi phạm về bí mật đời tư. Cần ban hành các quy định ở
các cơ quan chuyên môn nhằm kỷ luật các trường hợp vi phạm bí mật đời tư xuất
phát từ những hành vi sai trái trong nghề nghiệp theo như luật về hành vi được
đề cập dưới đây. Sự xâm phạm đời tư vô lý của giới truyền thông cần phải được
đưa vào như một yếu tố cấu thành trong quy tắc nghề nghiệp của các nhà báo. Những
người sống chung với HIV/AIDS cần có quyền được yêu cầu rằng đặc điểm và đời tư
của họ phải được bảo vệ trong các tiến trình tố tụng pháp lý mà trong đó những
thông tin như vậy có thể bị tiết lộ.
4. Các
luật, quy định và thỏa ước tập thể cần được ban hành hoặc sửa đổi để đảm bảo
các quyền tại nơi làm việc:
a. Một
chính sách quốc gia về HIV/AIDS và nơi làm việc được thỏa thuận theo cơ chế ba
bên;
b. Quyền
tự do không phải xét nghiệm HIV trong lao động, thăng tiến, đào tạo và phúc lợi;.
c. Quyền
giữ bí mật liên quan đến tất cả những thông tin y tế, bao gồm tình trạng
HIV/AIDS;
d. An
toàn về việc làm cho người bị nhiễm HIV cho đến khi họ không thể làm việc được
nữa, có tính đến cả sự chuyển đổi hợp lý trong sắp xếp lao động;
e. Xác
định rõ những hành động an toàn trong sơ cứu và trang bị dụng cụ sơ cứu một
cách phù hợp;
f. Bảo vệ an sinh xã hội và những lợi ích khác cho người lao động
nhiễm HIV, bao gồm bảo hiểm nhân thọ, lương hưu, bảo hiểm y tế, sảy thai và tử
tuất;
g. Sự
chăm sóc sức khỏe thích đáng ở tại hoặc gần nơi làm việc;
h. Có
các nguồn thích hợp để cung cấp bao cao su miễn phí cho người lao động ở nơi
làm việc;
i. Sự tham gia của người lao động trong việc đưa ra những quy
định ở nơi làm việc mà liên quan đến HIV/AIDS;
j. Việc tiếp cận với những chương trình thông tin và giáo dục
về HIV/AIDS cũng như các dịch vụ tư vấn và tham khảo thích hợp;
k. Bảo
vệ người lao động khỏi bị quy kết và phân biệt đối xử bởi đồng nghiệp, khách hàng,
người sử dụng lao động và công đoàn;
l. Ban hành pháp luật bồi thường cho sự lây nhiễm HIV do nghề
nghiệp (ví dụ như bị tổn thương do bị kim tiêm châm vào), giải quyết các vấn đề
này trong một giai đoạn kéo dài với việc xét nghiệm, tư vấn và giữ bí mật.
5. Các
luật bảo vệ điều chỉnh sự bảo vệ pháp lý và đạo đức cho sự tham gia nhân đạo
trong nghiên cứu khoa học, bao gồm các nghiên cứu liên quan đến HIV/AIDS, cần
được ban hành hoặc củng cố để bao gồm các khía cạnh như:
a. Sự
lựa chọn không phân biệt đối xử về người tham gia, ví dụ phụ nữ, trẻ em người
dân tộc thiểu số;
b. Sự
đồng ý bằng văn bản;
c. Bí
mật về thông tin cá nhân;
d. Sự
tiếp cận công bằng và hợp lý các thông tin và phúc lợi từ các nghiên cứu;
e. Việc
tư vấn, bảo vệ khỏi sự phân biệt đối xử, những dịch vụ y tế và hỗ trợ trong và
sau khi tham gia nghiên cứu;
f. Thành lập các ủy ban kiểm tra đạo đức ở cấp quốc gia hoặc địa
phương, có sự tham gia của những thành viên trong cộng đồng bị nhiễm HIV để bảo
đảm có sự xem xét một cách độc lập và thường xuyên tính chất đạo đức của dự án
nghiên cứu;
g. Cho
phép sử dụng các loại vắc-xin, dụng cụ y tế, các loại dược phẩm an toàn và hiệu
quả.
6. Các
luật về chống phân biệt và bảo vệ cần được ban hành để giảm thiểu sự vi phạm về
các quyền con người chống lại phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, làm giảm tính dễ
bị tổn thương của những phụ nữ bị ảnh hưởng và bị tác động bởi HIV/AIDS. Đặc biệt,
các luật đó cần phải được rà soát và sửa đổi để đảm bảo sự bình đẳng của phụ nữ
trong các quan hệ hôn nhân và tài sản, việc tiếp cận với các cơ hội về việc làm
và kinh tế. Những giới hạn mang tính phân biệt đối xử với phụ nữ cần phải được
loại bỏ, cụ thể trong các vấn đề về quyền sở hữu, thừa kế tài sản, giao kết hợp
đồng, hôn nhân, tiếp cận với các nguồn tín dụng và tài chính, ly thân hoặc ly
hôn, chia tài sản một cách bình đẳng khi li hôn hoặc li thân, và vấn đề nuôi dưỡng
con cái. Luật cũng cần đảm bảo các quyền về tình dục và sức khỏe sinh sản của
phụ nữ, bao gồm quyền được tiếp cận độc lập với các thông tin, dịch vụ về sức
khỏe sinh sản và về STD, với các phương tiện tránh thai, bao gồm việc phá thai
an toàn và hợp pháp, quyền tự do xác định số con và khoảng cách giữa các lần
sinh, quyền được yêu cầu có hành động tình dục an toàn, quyền được bảo vệ bởi
pháp luật chống lại bạo lực tình dục trong và ngoài hôn nhân, bao gồm những quy
định pháp luật về hiếp dâm trong hôn nhân. Tuổi cho phép tình dục và hôn nhân cần
đảm bảo nhất quán cho cả nam nữ. Quyền của phụ nữ và các cô gái được từ chối
quan hệ hôn nhân và các quan hệ tình dục cần được bảo vệ bởi pháp luật. Tình trạng
HIV của cha mẹ hoặc con cái không bị coi là cơ sở để đối xử khác so với bất kỳ
tình trạng sức khỏe tương tự trong khi đưa ra những quyết định liên quan đến
chăm sóc, nuôi dưỡng hoặc nhận nuôi con nuôi.
Luật về chống phân biệt và bảo vệ
cần được ban hành để giảm thiểu sự vi phạm quyền con người chống lại trẻ em
trong bối cảnh HIV/AIDS, giảm những tổn thương cho trẻ bị nhiễm HIV và bị ảnh
hưởng bởi HIV/AIDS. Luật này cần hỗ trợ trẻ tiếp cận các thông tin và giáo dục
liên quan đến HIV, cũng như các phương tiện phòng tránh trong và ngoài trường học,
hướng trẻ đến việc xét nghiệm HIV tự nguyện, dựa trên sự đồng ý của trẻ hoặc với
sự đồng ý của cha mẹ hay người giám hộ được chỉ định; bảo vệ trẻ khỏi những xét
nghiệm bắt buộc, đặc biệt với trẻ bị mồ côi do cha mẹ nhiễm HIV/AIDS, và cung cấp
những hình thức bảo vệ khác cho trẻ em trong hoàn cảnh mồ côi, bao gồm việc thừa
kế tài sản và hoặc hỗ trợ. Những luật này cũng cần bảo vệ trẻ em chống lại sự lạm
dụng tình dục, tạo điều kiện phục hồi cho trẻ bị lạm dụng tình dục và đảm bảo rằng
các em được xem là những nạn nhân của các hành vi sai trái chứ không phải là đối
tượng để trừng phạt. Luật về người khuyết tật cần bảo đảm bảo vệ các đối tượng
khuyết tật là trẻ em.
7. Luật
về bảo vệ và chống phân biệt đối xử cần được ban hành để giảm thiểu sự vi phạm
các quyền con người chống lại những người đàn ông có quan hệ tình dục đồng giới
trong bối cảnh HIV/AIDS, làm giảm sự thương tổn của những người đàn ông có quan
hệ tình dục đồng giới bị nhiễm HIV và chịu sự tác động của HIV/AIDS. Những biện
pháp này cần bao gồm việc đưa ra những hình phạt với hành vi xúc phạm danh dự của
những người này, công nhận chính thức về mặt pháp lý với quan hệ hôn nhân và
tình dục đồng giới, điều chỉnh những quan hệ này bằng những quy định pháp luật
về vấn đề tài sản, li dị và các quy định về thừa kế. Tuổi được phép quan hệ
tình dục và kết hôn phải có sự tương thích giữa quan hệ tình dục đồng giới với
quan hệ tình dục khác giới. Các luật về hành động của cảnh sát có liên quan đến
việc ngăn chặn những sự tấn công chống lại những người đàn ông có quan hệ tình
dục đồng giới cần được rà soát để đảm bảo có sự bảo vệ pháp lý thích đáng với họ
trong những tình huống như vậy.
8. Luật
và những quy định ngăn cấm sự đi lại hoặc hội họp của những thành viên trong
các nhóm dễ bị tổn thương trong bối cảnh HIV/AIDS cần được xóa bỏ dưới cả hai
hình thức, văn bản luật và thực thi luật.
9. Các
quy định pháp luật về chống phân biệt đối xử, hình sự và y tế công cần cấm xét
nghiệm HIV bắt buộc trong những nhóm đối tượng đích, bao gồm các nhóm dễ bị tổn
thương.
Hướng dẫn 6: Tiếp cận vấn đề hỗ trợ,
chăm sóc, điều trị và phòng chống[1]
Các nhà nước cần ban hành luật
quy định về việc điều tiết hàng hóa, dịch vụ và thông tin liên quan đến HIV, nhằm
đảm bảo sự sẵn có của các phương tiện và dịch vụ phòng chống có chất lượng,
thông tin đầy đủ về chăm sóc và phòng chống HIV, và việc cấp phát thuốc an toàn
và có hiệu quả với mức giá phù hợp.
Các nhà nước cũng cần áp dụng các
biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo sự sẵn có và cơ hội tiếp cận các loại hàng hóa
có chất lượng, dịch vụ và thông tin về hỗ trợ, chăm sóc, điều trị và phòng chống
HIV/AIDS, bao gồm các loại thuốc chống tái phát bệnh, và các loại thuốc hiệu quả
và an toàn khác, các biện pháp chẩn đoán và các Công nghệ liên quan tới việc
chăm sóc mang tính phòng chống, chữa trị và giảm HIV/AIDS, các điều kiện cũng
như những cơ hội lây nhiễm liên quan đối với mọi người.
Hỗ trợ, chăm sóc, điều trị và
phòng chống là những yếu tố tác động qua lại lẫn nhau và là một chuỗi các biện
pháp đối phó có hiệu quả với HIV/AIDS. Chính vì vậy, chúng phải được lồng ghép
vào trong một phương pháp tiếp cận toàn diện, và cần có một biện pháp đối phó
đa diện. Điều trị, chăm sóc và hỗ trợ toàn diện bao gồm cả các loại thuốc chống
tái phát bệnh và các loại thuốc khác, các biện pháp chẩn đoán và các Công nghệ
liên quan đến việc chăm sóc những người sống chung với HIV/AIDS, các điều kiện
và cơ hội lây nhiễm liên quan, dinh dưỡng tốt, và sự hỗ trợ về mặt xã hội, tinh
thần và tâm lý, cũng như việc chăm sóc tại nhà, cộng đồng và gia đình. Các
phương tiện phòng chống HIV bao gồm bao cao su, thuốc bôi trơn, thiết bị gây vô
sinh, các loại thuốc chống tái phát bệnh (ví dụ, để phòng chống việc truyền từ
mẹ sang con, hay là thuốc phòng bệnh hậu tiếp xúc) và, khi đó được ứng dụng,
các loại vắc-xin và thuốc diệt vi trùng có hiệu quả và an toàn. Trên cơ sở những
nguyên tắc về quyền con người, việc tiếp cận phổ quát đòi hỏi những hàng hóa, dịch
vụ và thông tin này không chỉ sẵn có, mà còn phải có thể chấp nhận được và có
chất lượng tốt trong phạm vi điều kiện vật chất và phù hợp với tất cả mọi người.
Hướng dẫn 7: Dịch vụ hỗ trợ pháp
lý
Các nhà nước cần thi hành và hỗ
trợ những dịch vụ nhằm giúp những người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS biết về các
quyền của họ, cung cấp các dịch vụ pháp lý miễn phí để tăng cường các quyền
này, phát triển chuyên môn về những vấn đề liên quan đến HIV và tận dụng các biện
pháp bảo vệ cùng với hệ thống tòa án, các cơ quan của bộ tư pháp, thanh tra quốc
hội, các ủy ban về quyền con người và những cơ quan tiếp nhận khiếu nại về y tế.
Nhà nước cần cân nhắc những yếu tố
sau đây khi thiết lập những dịch vụ như vậy:
1. Sự
hỗ trợ của nhà nước cho những cơ chế trợ giúp pháp lý chuyên về những vụ việc
liên quan đến HIV/AIDS, có thể gắn với những trung tâm trợ giúp pháp lý cộng đồng
và/hoặc những dịch vụ pháp lý dựa trên mạng lưới các tổ chức hoạt động trên các
lĩnh vực đạo đức, luật, quyền con người và dịch vụ HIV/AIDS.
2. Sự
hỗ trợ hoặc khuyến khích của nhà nước (ví dụ như giảm thuế) cho những công ty
luật tư nhân mà cung cấp những dịch vụ miễn phí cho những người sống chung với
HIV/AIDS, liên quan đến những lĩnh vực như chống phân biệt đối xử với người
khuyết tật, quyền được chăm sóc sức khỏe (xét nghiệm tự nguyện và bảo mật thông
tin), tài sản (di chúc, thừa kế) và luật về việc làm.
3. Hỗ
trợ của nhà nước cho các chương trình giáo dục, nâng cao nhận thức và xây dựng
lòng tự trọng cho những người sống chung với HIV/AIDS, liên quan đến các quyền
của họ và/hoặc trao quyền cho họ soạn thảo và phổ biến những tuyên bố / Hiến
chương của chính họ về quyền con người và pháp luật. Hỗ trợ của nhà nước với việc
sản xuất và phổ biến những tài liệu pháp lý giới thiệu về quyền của những người
sống chung với HIV/AIDS, những tài liệu hướng dẫn cho các quan chức, sổ tay,
sách hướng dẫn thực hành, sách giáo khoa, giáo trình mẫu cho các khóa học luật
và bồi dưỡng giáo dục pháp luật, những bản tin để khuyến khích trao đổi thông
tin và kết nối hành động cũng cần được chú trọng. Những ấn phẩm như vậy có thể
chuyển tải thông tin về các vụ việc, tiến trình cải cách pháp lý, những nỗ lực
của quốc gia và các cơ chế kiểm soát sự vi phạm các quyền con người.
4. Hỗ
trợ của nhà nước với các dịch vụ pháp lý và bảo vệ thông qua các cơ quan khác
nhau như các văn phòng của bộ tư pháp, của cơ quan công tố, các cơ sở pháp lý
khác, các cơ quan tiếp nhận khiếu nại về y tế, các thanh tra quốc hội và các ủy
ban quyền con người.
C. Đẩy mạnh
môi trường trợ giúp và thuận lợi
Hướng dẫn 8: Phụ nữ, trẻ em và các
nhóm dễ bị tổn thương khác
Các nhà nước cần phối hợp với cộng
đồng và thông qua cộng đồng để đẩy mạnh môi trường hỗ trợ và thuận lợi cho phụ
nữ, trẻ em và các nhóm dễ bị tổn thương khác bằng cách thông qua đối thoại với
cộng đồng, phê phán những thành kiến tiềm ẩn và những hành vi hay những ứng xử bất
bình đẳng, thiết lập các dịch vụ y tế xã hội đặc biệt và trợ giúp cho các nhóm
cộng đồng nêu trên.
1. Các nhà nước cần hỗ trợ việc hình thành và đảm bảo tính bền
vững cho các liên kết cộng đồng bao gồm những thành viên của các nhóm dễ bị tổn
thương khác nhau có cùng trình độ học vấn, cùng vị thế, cùng có sự thích ứng
tích cực trong hành động và cùng được hưởng sự trợ giúp xã hội.
2. Các nhà nước cần hỗ trợ cho việc phát triển một nền giáo dục
phù hợp, dễ tiếp cận và hiệu quả đối với việc phòng chống và chăm sóc HIV, phát
triển thông tin và các dịch vụ cho và thông qua các cộng đồng người dễ bị tổn
thương và cần thiết phải động viên sự tham gia tích cực của những cộng đồng như
vậy vào việc xây dựng và thực hiện các chương trình này.
3. Các nhà nước cần hỗ trợ việc hình thành các diễn đàn quốc
gia hay địa phương để nghiên cứu về ảnh hưởng của đại dịch HIV/AIDS đối với phụ
nữ. Những diễn đàn này phải mang tính đa ngành, bao gồm đại diện của chính phủ,
đại diện các cộng đồng chuyên môn, tôn giáo và lãnh đạo để nghiên cứu những vấn
đề như sau :
a. Vai trò của phụ nữ ở trong gia đình và ngoài cộng đồng;
b. Các quyền về sức khỏe sinh sản và tình dục của phụ nữ và
nam giới, bao gồm khả năng của phụ nữ trong việc thỏa thuận về sinh hoạt tình dục
an toàn và về những lựa chọn về sức khỏe sinh sản;
c. Các chiến lược để tăng cường các cơ hội kinh tế và giáo dục
cho phụ nữ;
d. Khuyến khích các nhà cung cấp dịch vụ và tăng cường các dịch
vụ chăm sóc sức khỏe, các dịch vụ hỗ trợ xã hội cho phụ nữ;
e. Tác động của các truyền thống văn hóa và tôn giáo đối với
phụ nữ.
4. Các nhà nước cần thực hiện Chương trình Hành động Cai-rô
thông qua tại Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển; Tuyên bố Bắc Kinh và
Cương lĩnh Hành động của Hội nghị Thế giới về phụ nữ lần thứ tư. Đặc biệt, các
chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu, các dịch vụ y tế tư nhân, các chương
trình và chiến dịch thông tin cần phải tính đến những khía cạnh về giới. Bạo lực
đối với phụ nữ, các tập tục truyền thống có hại cho phụ nữ, lạm dụng tình dục,
cưỡng ép tình dục, tệ tảo hôn, cắt bỏ bộ phận sinh dục nữ cần phải được xóa bỏ.
Các biện pháp tích cực, bao gồm các chương trình giáo dục chính quy và không
chính quy để tăng cường cơ hội việc làm và các dịch vụ hỗ trợ cho phụ nữ cần phải
được tiến hành.
5. Các nhà nước cần hỗ trợ các tổ chức phụ nữ trong việc đưa
những vấn đề về quyền con người và HIV/AIDS vào chương trình hành động của họ.
6. Các nhà nước cần đảm bảo rằng tất cả phụ nữ và trẻ em gái ở
lứa tuổi sinh nở được tiếp cận với những thông tin chính xác và đầy đủ, được hướng
dẫn cách phòng ngừa đối với sự lây nhiễm HIV và về nguy cơ lây nhiễm HIV qua đường
tình dục, cũng như được tiếp cận với những nguồn lực sẵn có để giảm thiểu các
nguy cơ đó, hoặc để chuẩn bị sinh nở nếu họ muốn.
7. Các nhà nước cần đảm bảo cho trẻ em và thanh thiếu niên được
tiếp cận đầy đủ với các thông tin và giáo dục về y tế, bao gồm những thông tin
liên quan đến việc phòng ngừa và chăm sóc về HIV/AIDS trong và ngoài trường học,
những thông tin này phải được xây dựng phù hợp với lứa tuổi và khả năng nhận thức
của các đối tượng, tạo điều kiện để các đối tượng này tiếp cận với cuộc sống
tình dục của mình một cách tích cực và có trách nhiệm. Những thông tin như vậy
cần phải tính đến các quyền của trẻ em được tiếp cận với thông tin, quyền về sự
riêng tư, quyền được giữ bí mật đời tư, quyền được tôn trọng, được hỏi ý kiến
và thông tin về các biện pháp phòng ngừa; cũng như phải tính đến trách nhiệm,
quyền và nghĩa vụ của các bậc cha mẹ. Những nỗ lực nhằm giáo dục trẻ em về quyền
của các em cần bao gồm cả những quyền của những người sống chung với HIV/AIDS,
trong đó có cả trẻ em.
8. Các nhà nước cần đảm bảo rằng trẻ em và thanh thiếu niên được
tiếp cận đầy đủ với những thông tin bảo mật về dịch vụ sức khỏe sinh sản và
tình dục, bao gồm những thông tin về HIV/AIDS, tư vấn, xét nghiệm và các biện
pháp phòng ngừa như sử dụng bao cao su và các dịch vụ hỗ trợ xã hội khác, nếu
như các em bị tác động bởi HIV/AIDS. Quy định về việc cung cấp những dịch vụ
này cho với trẻ em và thanh thiếu niên cần thể hiện được sự cân bằng thích đáng
giữa các quyền của các em được tham gia vào các quyết định liên quan đến bản
thân, phù hợp với năng lực của các em, với quyền và nghĩa vụ của các bậc cha mẹ/người
giám hộ đối với sức khỏe và cuộc sống của các em.
9. Các nhà nước cần đảm bảo rằng những người làm việc trong
các trung tâm chăm sóc trẻ em, bao gồm các trung tâm giao nhận con nuôi, các
nhà tế bần, phải được đào tạo về những vấn đề liên quan đến trẻ em có HIV để có
thể giải quyết một cách có hiệu quả những nhu cầu cần thiết của những trẻ em có
HIV, bảo vệ các em khỏi những yêu cầu xét nghiệm bắt buộc, khỏi sự phân biệt và
ruồng bỏ.
10. Các
nhà nước cần hỗ trợ việc thực hiện những mục tiêu phòng chống HIV đã được đưa
ra và các chương trình chăm sóc cho những người ít có cơ hội tiếp cận với các
chương trình lồng ghép vì lý do ngôn ngữ, nghèo đói, bị gạt ra ngoài lề về mặt
pháp lý, xã hội và thể chất, ví dụ như các nhóm thiểu số, người nhập cư, người
bản xứ, người tỵ nạn, những người di tản trong nước, những người khuyết tật, tù
nhân, người làm mại dâm, người đồng tính hay những người sử dụng ma túy.
Hướng dẫn 9: Thay đổi thái độ phân
biệt đối xử thông qua giáo dục, đào tạo và các phương tiện thông tin đại chúng
Các nhà nước cần đẩy mạnh việc
truyền bá rộng rãi và liên tục các chương trình giáo dục, đào tạo và các chiến
dịch thông tin đại chúng nhằm thay đổi một cách rõ ràng thái độ phân biệt đối xử
và kỳ thị liên quan đến HIV/AIDS, từ việc hiểu sẽ dẫn đến việc chấp thuận.
1. Các
nhà nước cần hỗ trợ các tổ chức phù hợp như các cơ quan thông tin đại chúng,
các tổ chức phi chính phủ, mạng lưới những người sống chung với HIV/AIDS và những
thành viên trong các nhóm dễ bị tổn thương sử dụng rộng rãi các phương tiện
truyền thông (phim ảnh, nhà hát, truyền hình, đài phát thanh, in ấn, diễn kịch,
lời chứng của cá nhân, internet, tranh ảnh, áp phích quảng cáo). Chương trình
này không nên là sự pha trộn những mô hình có sẵn về các nhóm, thay vào đó, cần
nhằm xóa đi những mặc cảm, những định kiến về những người sống chung với
HIV/AIDS bằng cách coi họ như là những người bạn, những người họ hàng, đồng
nghiệp, hàng xóm và đối tác. Việc khẳng định lại những phương thức lây nhiễm của
vi rút HIV và sự an toàn trong mối quan hệ xã hội hàng ngày cần phải được củng
cố.
2. Các
nhà nước cần khuyến khích các cơ sở giáo dục (các trường tiểu học và trung học,
đại học và các trường cao đẳng kỹ thuật, các cơ sở giáo dục người trưởng
thành...) cũng như các tổ chức công đoàn và các công sở, xí nghiệp đưa các vấn
đề về quyền con người và không phân biệt đối xử với những người sống chung với
HIV/AIDS vào các chương trình giảng dạy có liên quan, chẳng hạn như các chương
trình về quan hệ con người, quan hệ công dân, nghiên cứu xã hội, nghiên cứu luật
pháp, chăm sóc sức khỏe, thực thi pháp luật, đời sống gia đình và / hoặc giáo dục
tình dục và phúc lợi / tư vấn.
3. Các
nhà nước cần hỗ trợ các hoạt động tập huấn, hội thảo về đạo đức/quyền của những
người có HIV cho các quan chức chính phủ, cảnh sát, quản giáo, các nhà chính trị
cũng như các nhà lãnh đạo cộng đồng, tôn giáo và các nhà chuyên môn.
4. Các
nhà nước cần nhắc nhở các phương tiện thông tin đại chúng và ngành công nghiệp
quảng cáo phải nhạy cảm đối với các vấn đề quyền con người và HIV/AIDS, tránh
gây tổn thương cho những người bị ảnh hưởng bởi đại dịch trong việc đưa tin và
tránh sử dụng không phù hợp các định kiến dập khuôn, đặc biệt trong mối quan hệ
với những nhóm người thiệt thòi hay dễ bị tổn thương. Việc tập huấn cho các đối
tượng này cần bao gồm việc biên soạn ra những tài liệu hữu ích như sổ tay có chứa
đựng những thuật ngữ phù hợp, loại bỏ việc dùng ngôn ngữ mang tính quy kết và một
bộ quy tắc ứng xử trong hoạt động chuyên môn để đảm bảo tôn trọng quyền được giữ
bí mật và quyền có cuộc sống riêng tư.
5. Các
nhà nước cần hỗ trợ các hoạt động đào tạo các nhóm đối tượng đích, các hoạt động
giáo dục đồng đẳng và trao đổi thông tin giữa những người sống chung với
HIV/AIDS, những người tình nguyện làm việc cho các tổ chức dựa trên cộng đồng
hay những tổ chức hiệp hội cũng như cho lãnh đạo của các nhóm dễ bị tổn thương
nhằm nâng cao nhận thức của họ về các quyền con người và các cách thức để thực
hiện những quyền đó. Ngược lại, thông qua giáo dục và đào tạo cần cung cấp cho
những người hoạt động về các vấn đề khác của quyền con người có được những kiến
thức về những quyền con người cơ bản của những người có HIV.
6. Các
nhà nước cần hỗ trợ việc sử dụng những cách thức khác như các chương trình phát
thanh hay thảo luận nhóm để khắc phục những khó khăn của những người mù chữ, vô
gia cư, lang thang cơ nhỡ, những người sống ở vùng sâu, vùng xa hay các vùng
nông thôn khi họ không được tiếp cận với truyền hình, phim ảnh hay video và những
ngôn ngữ dân tộc đặc thù khác.
Hướng dẫn 10: Phát triển các tiêu
chuẩn ứng xử cho các khu vực tư nhân và công cộng và các cơ chế để thực hiện
các tiêu chuẩn này
Các nhà nước cần đảm bảo rằng
chính phủ và khu vực tư nhân sẽ xây dựng các bộ quy quy tắc ứng xử liên quan đến
vấn đề HIV, trong đó đưa các nguyên tắc về quyền con người vào các bộ quy tắc về
trách nhiệm và hoạt động chuyên môn, cùng với các cơ chế thực hiện và đảm bảo
các quy tắc trên được thực thi.
1. Các
nhà nước cần yêu cầu hoặc khuyến khích các nhóm chuyên môn, đặc biệt là các
chuyên viên y tế và các ngành thuộc khu vực tư nhân (ví dụ như luật pháp, bảo
hiểm) xây dựng và đảm bảo thực hiện các bộ quy tắc ứng xử của họ nhằm giải quyết
các vấn đề quyền con người liên quan đến HIV/AIDS. Các vấn đề liên quan bao gồm
tính bảo mật, tiến hành xét nghiệm có sự đồng ý của bệnh nhân, nghĩa vụ phải đối
xử và đảm bảo môi trường làm việc an toàn, làm giảm tính chất dễ bị tổn thương,
xóa bỏ sự phân biệt đối xử, và các giải pháp khắc phục đối với những vi phạm và
hành vi sai trái.
2. Các
nhà nước cần yêu cầu các cơ quan của chính phủ làm rõ mức độ đáp ứng các tiêu
chuẩn về quyền con người trong các chính sách và hành động của họ, cũng như
trong các văn bản và quy định pháp luật chính thức ở tất cả các cấp độ. Sự phối
hợp giữa các tiêu chuẩn này cần phải được thể hiện trong cơ chế tổ chức quốc
gia mà đã được đề cập ở Hướng dẫn 1 và phải được phổ biến tới người dân, sau
khi có sự góp ý của các nhóm dựa trên cộng đồng và các nhóm chuyên môn.
3. Các
nhà nước cần phát triển và phát huy các cơ chế đa ngành để đảm bảo tính minh bạch
trong hoạt động. Điều này đòi hỏi có sự tham gia của tất cả các bên liên quan
(các cơ quan chính phủ, đại diện của các ngành công nghiệp, các hiệp hội nghề
nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức dựa trên cộng đồng, các tổ chức
của người tiêu dùng, của các nhà cung cấp dịch vụ, và của những người sử dụng dịch
vụ). Mục tiêu chung nên nhằm nâng cao các tiêu chuẩn dịch vụ, tăng cường sự
liên kết, truyền thông và đảm bảo sự phổ biến thông tin.
Hướng dẫn 11: Giám sát và đảm bảo
việc thực thi các quyền con người của nhà nước
Các nhà nước cần thực hiện các
cơ chế giám sát và thực thi để bảo đảm thực hiện các quyền con người liên quan
đến HIV, bao gồm quyền của những người sống chung với HIV/AIDS, các thành viên
trong gia đình họ và của các cộng đồng.
1. Các
nhà nước cần thu thập thông tin về quyền con người và HIV/AIDS, và sử dụng những
thông tin đó như là cơ sở cho việc xây dựng và cải cách các chính sách, chương
trình, cũng như báo cáo các vấn đề quyền con người liên quan đến HIV/AIDS với
các cơ quan hữu quan của Liên Hợp Quốc như là một phần trong báo cáo quốc gia về
thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người.
2. Các
nhà nước cần thiết lập các bộ phận chuyên trách về HIV/AIDS trong các cơ quan
có liên quan của chính phủ, bao gồm các chương trình AIDS quốc gia, các sở công
an, các cơ quan thanh tra, tòa án, các nhà cung cấp dịch vụ y tế, xã hội của
chính phủ, và trong quân đội, để giám sát việc lạm dụng các quyền con người
liên quan đến HIV và tạo điều kiện cho các nhóm khó khăn và dễ bị tổn thương tiếp
cận với những cơ quan này. Những chương trình và mô hình hiện tại cho thấy cần
phải xây dựng những tiêu chuẩn về việc tuân thủ các quyền con người trong những
chính sách và chương trình liên quan.
3. Các
nhà nước cần hỗ trợ về chính trị, vật chất và nguồn nhân lực cho mạng lưới các
tổ chức hoạt động trên các lĩnh vực đạo đức, luật, quyền con người và dịch vụ
HIV/AIDS và các tổ chức dựa trên cộng đồng để giúp họ xây dựng năng lực trong
việc phát triển và giám sát các tiêu chuẩn về quyền con người. Các nhà nước cần
hỗ trợ các tổ chức phi chính phủ hoạt động trên lĩnh vực quyền con người để
giúp họ xây dựng năng lực trong việc xây dựng các tiêu chuẩn và giám sát thực
hiện các quyền con người liên quan đến HIV.
4. Các
nhà nước cần hỗ trợ việc thiết lập các cơ quan quốc gia độc lập về thúc đẩy và
bảo vệ quyền con người, bao gồm các quyền liên quan đến HIV, như các ủy ban quyền
con người, cơ quan thanh tra quốc hội, và/hoặc chỉ định các thanh tra HIV/AIDS
cho các cơ quan độc lập về quyền con người, các cơ quan luật pháp quốc gia và
các ủy ban cải cách pháp luật hiện đang hoạt động.
5. Các
nhà nước cần thúc đẩy các quyền con người liên quan đến HIV tại các diễn đàn quốc
tế và đảm bảo rằng các quyền con người được lồng ghép vào các chính sách và
chương trình của các tổ chức quốc tế, bao gồm các cơ quan quyền con người của
Liên Hợp Quốc cũng như các cơ quan khác của hệ thống Liên Hợp Quốc. Hơn nữa,
các nhà nước cần cung cấp cho các tổ chức liên chính phủ vật chất và nguồn nhân
lực cần thiết để có thể thực hiện một cách hiệu quả các hoạt động trong lĩnh vực
này.
Hướng dẫn số 12: Hợp tác quốc tế
Các nhà nước cần hợp tác thông
qua các chương trình liên quan và các cơ quan trong hệ thống Liên Hợp Quốc, bao
gồm UNAIDS, nhằm chia sẻ kiến thức và các kinh nghiệm trong các vấn đề về quyền
con người liên quan đến HIV, và cần đảm bảo duy trì những cơ chế hữu hiệu về bảo
vệ quyền con người trong bối cảnh HIV/AIDS trên thế giới.
1. Ủy
ban quyền con người của Liên Hợp Quốc cần lưu ý đến các hướng dẫn trong văn kiện
này và Báo cáo của Hội nghị tư vấn quốc tế lần thứ hai về HIV/AIDS và quyền con
người, và yêu cầu các quốc gia cân nhắc cẩn thận và thực hiện các hướng dẫn này
khi tiến hành các hoạt động đối phó ở cấp quốc gia và địa phương với HIV/AIDS
và quyền con người.
2. Ủy
ban quyền con người của Liên Hợp Quốc cần yêu cầu các cơ quan giám sát các công
ước quốc tế về quyền con người, các báo cáo viên, các đại diện đặc biệt và các
nhóm công tác về quyền con người lưu ý tới các hướng dẫn này và áp dụng chúng
trong các hoạt động và các báo cáo của mình về tất cả các vấn đề xuất hiện
trong khuôn khổ các hướng dẫn mà liên quan tới nhiệm vụ của các chủ thể và cơ
quan này.
3. Ủy
ban quyền con người của Liên Hợp Quốc cần đề nghị UNAIDS, các cơ quan đồng tài
trợ (UNDP, UNESCO, UNFPA, WHO, WB) và các cơ quan liên quan khác của Liên Hợp
Quốc lồng ghép việc xúc tiến thực hiện các hướng dẫn này vào các hoạt động của
mình.
4. Ủy
ban quyền con người của Liên Hợp Quốc cần chỉ định một người có trách nhiệm đặc
biệt về quyền con người và HIV/AIDS liên quan đến lĩnh vực của mình, không kể
những yếu tố khác, nhằm khuyến khích và giám sát việc thực hiện các hướng dẫn
này của các nhà nước, cũng như việc xúc tiến của các cơ quan thuộc Liên Hợp Quốc,
bao gồm các cơ quan về quyền con người, trong những lĩnh vực có thể áp dụng.
5. Ủy
ban quyền con người của Liên Hợp Quốc cần khuyến khích Văn phòng Cao ủy Liên Hợp
Quốc về quyền con người đảm bảo những hướng dẫn này được phổ biến thông qua Văn
phòng, và phải được kết hợp vào tất các các hoạt động và các chương trình về
quyền con người của cơ quan này, đặc biệt là những hướng dẫn liên quan đến các
vấn đề hợp tác kỹ thuật, giám sát và hỗ trợ các cơ quan quốc gia về quyền con
người.
6. Các
nhà nước, trong khuôn khổ cam kết báo cáo định kỳ cho các cơ quan giám sát các
công ước về quyền con người của Liên Hợp Quốc và theo các công ước khu vực, cần
báo cáo về việc thực hiện các hướng dẫn này và về các mối quan ngại về quyền
con người liên quan đến HIV/AIDS hiện tồn tại, tùy thuộc vào nội dung tương ứng
trong các công ước.
7. Các
nhà nước cần đảm bảo ở cấp độ quốc gia sự hợp tác với các nhóm công tác của
UNAIDS nhằm thúc đẩy và thực hiện các hướng dẫn, bao gồm việc vận động sự ủng hộ
về chính trị và tài chính cho việc thực hiện các hướng dẫn này.
8. Các
nhà nước cần hợp tác với UNAIDS, Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về Quyền con
người và các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức khác hoạt động trong lĩnh vực
quyền con người và HIV/AIDS nhằm:
a. Hỗ
trợ dịch các hướng dẫn sang tiếng phổ thông và dân tộc ở nước mình;
b. Tạo
lập một cơ chế có thể tiếp cận rộng rãi cho việc phối hợp và trao đổi thông tin
về các hướng dẫn về quyền con người liên quan đến HIV;
c. Hỗ
trợ phát triển một danh mục nguồn các tuyên bố/hiệp định quốc tế và các tuyên bố
chính sách, các báo cáo về HIV/AIDS và quyền con người nhằm tăng cường sự hỗ trợ
thực hiện các hướng dẫn này;
d. Hỗ
trợ các dự án giáo dục và truyền thông đa văn hóa về HIV/AIDS và quyền con người,
bao gồm giáo dục các nhóm hoạt động về quyền con người về HIV/AIDS và giáo dục
các nhóm có HIV/AIDS và các nhóm dễ bị tổn thương về vấn đề quyền con người và
các chiến lược giám sát và bảo vệ quyền con người trong bối cảnh HIV/AIDS,
trong đó sử dụng các hướng dẫn này như là công cụ giáo dục;
e. Hỗ
trợ việc hình thành một cơ chế giám sát và thông báo các trường hợp vi phạm các
quyền con người của những người sống chung với HIV/AIDS;
f. Hỗ trợ phát triển một cơ chế trong đó liên kết các hành động
ở cấp cơ sở đối với các vấn đề quyền con người liên quan đến HIV/AIDS và thực
hiện các hướng dẫn, bao gồm các chương trình trao đổi và đào tạo giữa các cộng
đồng khác nhau ở trong và ngoài khu vực;
g. Hỗ
trợ các nhà lãnh đạo cộng đồng và tôn giáo áp dụng các vấn đề về quyền con người
liên quan đến HIV và thực hiện các hướng dẫn, và đóng vai trò là một thành tố
trong việc thực hiện các hướng dẫn;
h. Hỗ
trợ phát triển các sách chỉ dẫn nhằm giúp các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực
AIDS và quyền con người trong việc thực hiện các hướng dẫn;
i. Hỗ trợ, thông qua trợ giúp kỹ thuật và tài chính, các sáng
kiến của mạng lưới các tổ chức phi chính phủ khu vực và quốc gia về đạo đức, luật
và quyền con người để giúp các tổ chức này phổ biến các hướng dẫn và vận động
cho việc thực hiện các hướng dẫn.
9. Các
nhà nước, thông qua các cơ chế quyền con người khu vực, cần thúc đẩy việc phổ
biến và thực hiện các hướng dẫn này và lồng ghép các hướng dẫn này vào công việc
của các cơ quan nhà nước đã nêu ở các phần trên.
KẾT LUẬN
Các nhà nước cần thực hiện các hướng
dẫn này nhằm đảm bảo sự tôn trọng các quyền con người của những người bị ảnh hưởng
bởi HIV/AIDS và đảm bảo các hoạt động y tế công liên quan đến HIV/AIDS trở nên
thiết thực và hiệu quả. Những hướng dẫn này được soạn thảo dựa trên kinh nghiệm
có được qua thực tế được chứng minh là hiệu quả trong suốt 15 năm qua. Thông
qua việc thực hiện các hướng dẫn này, các nhà nước có thể tránh được các chính
sách và hành động mang tính tiêu cực, ép buộc, hủy hoại cuộc sống của người dân
và các chương trình quốc gia về HIV/AIDS.
Các khía cạnh thực tế của việc bảo
vệ quyền con người liên quan đến HIV sẽ trở nên dễ giải quyết hơn nếu có sự
lãnh đạo của các cơ quan lập pháp và hành pháp về vấn đề này và nếu thiết lập
và duy trì được một cơ chế đa ngành. Sự tham gia bình đẳng của các cộng đồng bị
ảnh hưởng cùng với các nhà chuyên môn và các lãnh đạo cộng đồng và tôn giáo là
thiết yếu đối với việc xây dựng và thực hiện các chính sách có liên quan.
Do hệ thống luật pháp quốc gia tạo
thành khuôn khổ cốt yếu đối với việc bảo vệ các quyền con người liên quan đến
HIV, nhiều hướng dẫn trong văn kiện này liên quan đến nhu cầu đổi mới luật
pháp. Một công cụ quan trọng khác làm thay đổi xã hội là việc tạo lập một môi
trường hỗ trợ và khuyến khích mà các hoạt động phòng ngừa, chăm sóc và hỗ trợ
liên quan đến HIV. Việc xây dựng một môi trường như vậy có thể được thực hiện một
phần qua việc trao đổi quan điểm thông qua giáo dục cơ bản và chuyên biệt, các
chiến dịch tuyên truyền vào giáo dục cộng đồng hướng vào các vấn đề quyền con
người liên quan đến HIV, sự khoan dung và sự che chở. Mặt khác, việc xây dựng một
môi trường cũng có thể được thực hiện thông qua việc trao quyền cho phụ nữ và
những nhóm dễ bị tổn thương nhằm giải quyết vấn đề HIV/AIDS bằng cách thực hiện
các biện pháp cải thiện địa vị xã hội và pháp lý của họ và giúp đỡ họ thông qua
vận động những người xung quanh.
HIV/AIDS tiếp tục thách thức xã hội
chúng ta ở nhiều mặt. Nó đòi hỏi các nhà nước, cộng đồng và từng cá nhân phải
giải quyết những vấn đề xã hội vô cùng khó khăn và trên diện rộng, những vấn đề
này vốn đã luôn tồn tại trong xã hội của chúng ta và đòi hỏi phải có các biện
pháp giải quyết. Trước thảm họa HIV/AIDS, chúng ta không thể lẩn tránh những vấn
đề đó vì nếu lẩn tránh sẽ đe dọa tới tính mạng của hàng triệu đàn ông, đàn bà
và cả trẻ em. Những vấn đề này liên quan đến vai trò của phụ nữ và nam giới, vị
trí của các nhóm bất hợp pháp hay bị gạt ra ngoài lề xã hội, đến những cam kết
của nhà nước về chi phí cho chăm sóc sức khỏe và vai trò của luật pháp trong việc
thực hiện các mục tiêu về y tế, đến tính riêng tư giữa các cá nhân và giữa cá
nhân với chính phủ, đến trách nhiệm và khả năng của người dân có thể bảo vệ bản
thân mình và những người xung quanh hay không, cũng như đến mối quan hệ giữa
quyền con người, y tế và cuộc sống. Những hướng dẫn này là công cụ định hướng
giải quyết những vấn đề khó khăn, điều mà đã được đề cập bởi các thể chế về quyền
con người quốc tế và từ công việc đầy can đảm của hàng triệu người trên thế giới,
những người đã cho thấy việc bảo vệ quyền của người dân cũng đồng nghĩa với bảo
vệ sức khỏe, cuộc sống và hạnh phúc của họ trong một thế giới có HIV/AIDS.
[1] Đây là hướng dẫn được sửa đổi trong Hội nghị tư vấn quốc tế về
HIV/AIDS và quyền con người lần thứ ba, tổ chức ở Geneva ngày 25-6/7/2002.