HIỆP ĐỊNH
VỀ
QUY CHẾ BIÊN GIỚI GIỮA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ NƯỚC CỘNG HÒA
NHÂN DÂN CAM-PU-CHIA
Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Cam-pu-chia;
Căn cứ vào Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác
giữa nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân
Cam-pu-chia ký ngày 18 tháng 2 năm 1979;
Với lòng mong muốn xây dựng đường biên giới hòa
bình, hữu nghị lâu dài giữa hai nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước, phù hợp với mối quan hệ đặc biệt Việt Nam –
Cam-pu-chia nhằm tăng cường bảo vệ an ninh khu vực biên giới hai nước;
Đã thỏa thuận những điều sau đây:
I.- ĐƯỜNG BIÊN GIỚI VÀ KHU VỰC
BIÊN GIỚI
Điều 1.
Cho đến khi được hoạch định chính
thức, biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng
hòa Nhân dân Cam-pu-chia là đường biên giới hiện đại được thể hiện trên bản đồ
tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương (Ser-vice Géographique de l’Indochine)
thông dụng trước năm 1954 hoặc gần năm 1954 nhất như quy định ở Điều 1 Hiệp ước
về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Cam-pu-chia ký ngày 20 tháng 7 năm 1983.
Điều 2.
Đường biên giới quốc gia giữa
hai nước phải được tôn trọng. Các mốc giới phải được bảo vệ. Cấm xê dịch hoặc
làm hư hại mốc giới.
Điều 3.
Hai Bên thỏa thuận thành lập ở
mỗi Bên một khu vực gọi là khu vực biên giới bao gồm các xã hoặc đơn vị hành
chính tương đương có một ranh giới trùng với biên giới quốc gia giữa hai nước
Việt Nam và Cam-pu-chia nhằm làm cho việc qua lại biên giới của những người dân
cư trú hai bên biên giới được thuận tiện, đáp ứng nhu cầu chính đáng hàng ngày
của họ, và bảo đảm an ninh cho mỗi khu vực biên giới và mỗi nước.
Hai Bên sẽ thông báo cho nhau danh sách các xã hoặc
đơn vị hành chính tương đương nói trên có ghi rõ thuộc huyện, tỉnh nào.
II.- QUẢN LÝ KHU VỰC BIÊN GIỚI
Điều 4.
a) Những người dân của mỗi
Bên được phép cư trú trong khu vực biên giới nói ở Điều 3 Hiệp định này, từ 15
tuổi trở lên được Nhà đương cục có thẩm quyền nước mình cấp một giấy chứng minh
biên giới có ký hiệu riêng do hai Bên thỏa thuận, nhằm phân biệt với những người
cư trú ngoài khu vực biên giới.
b) Những phần tử xấu có nguy hại cho việc giữ gìn
an ninh chính trị, trật tự xã hội và kinh tế ở khu vực biên giới không được cư
trú trong khu vực biên giới.
Điều 5.
a) Những người dân cư trú
trong khu vực biên giới Bên này được phép qua khu vực biên giới Bên kia để mua
bán, trao đổi hàng hóa cần thiết cho đời sống hàng ngày và cho nhu cầu sản xuất,
thăm viếng người dân, xem chiếu phim, xem biểu diễn văn nghệ v.v…
b) Hai Bên sẽ quy định danh mục, số lượng những mặt
hàng người dân khu vực biên giới Bên này được phép mang theo sang khu vực biên
giới Bên kia như nói ở khoản a) Điều này. Những thứ hàng này được miễn giấy
phép và thuế quan.
c) Những hàng hóa nói ở khoản a) và b) Điều này chỉ
được mua bán tại các chợ do chính quyền mỗi Bên mở tại khu vực biên giới và phải
tuân theo luật lệ của mỗi Bên.
Điều 6.
a) Những người dân khu vực
biên giới Bên này không được sang khu vực biên giới Bên kia cư trú, làm nhà,
canh tác, lây lâm thổ sản, săn bắn, chăn trâu bò, gia cầm v.v…, đánh cá, bắt
tôm trừ trường hợp được phép của chính quyền hai Bên từ cấp huyện trở lên. Trường
hợp sang khu vực biên giới Bên kia cư trú, làm nhà trái với quy định này sau
khi Hiệp định này có hiệu lực thì đương sự phải dỡ nhà, trở về nước mình trong
vòng sáu tháng.
b) Trường hợp đang sản xuất tại khu vực biên giới
Bên kia khi Hiệp định này có hiệu lực và không được phép tiếp tục nữa, nếu là
hoa màu và cây lâu năm chưa kịp thu hoạch thì đương sự được phép tiếp tục qua
biên giới để chăm sóc cho đến khi thu hoạch xong và chỉ được làm và thu hoạch hết
vụ đó. Đối với cây lâu năm chậm nhất một năm sau khi Hiệp định này có hiệu lực,
đương sự phải nhượng lại cho chính quyền địa phương sở tại và chính quyền địa
phương sở tại cần xem xét việc bồi thường cho đương sự theo giá thỏa thuận.
c) Trong lúc tiến hành các hoạt động sản xuất nói
trên ở khu vực biên giới Bên kia, đương sự phải tuân theo luật lệ của Bên kia.
Điều 7.
Đối với những người dân lương
thiện Bên này đã sang cư trú ở khu vực biên giới Bên kia từ lâu, trước ngày Hiệp
định này có hiệu lực mà tôn trọng luật pháp và phong tục tập quán nước sở tại
thì chính quyền địa phương tạo điều kiện cho họ tiếp tục ở lại làm ăn sinh sống.
Những phần tử xấu, làm ăn phi pháp không được hưởng Điều khoản này.
Điều 8.
a) Ở những nơi đường biên giới
đi giữa dòng sông, suối, kênh, rạch, những người dân khu vực biên giới hai Bên
được dùng nước sông, suối, kênh, rạch đó vào sinh hoạt hàng ngày, được đánh bắt
cá, tôm… và tàu thuyền được đi lại bình thường, nhưng không được lên bờ phía
Bên kia, trừ trường hợp bị tai nạn và khi đó hai Bên sẽ giúp đỡ nạn nhân.
b) Ở những nơi sông, suối, kênh, rạch thuộc một Bên
do đường biên giới đi về một phía bờ, những người dân khu vực biên giới Bên kia
vẫn được dùng nước các sông, suối, kênh, rạch đó vào sinh hoạt hàng ngày, tàu
thuyền được đi lại bình thường nhưng không được đánh bắt cá, tôm trên các sông,
suối, kênh, rạch đó trừ trường hợp được phép của chính quyền hai Bên từ cấp huyện
trở lên và họ phải tôn trọng chủ quyền và luật lệ của nước có chủ quyền đối với
sông, suối, kênh, rạch đó.
c) Những người dân khu vực biên giới hai Bên được
làm công trình thủy lợi nhỏ trên sông, suối, kênh, rạch biên giới. Trước khi
làm, chính quyền cấp huyện Bên có ý định xây dựng công trình đó phải bàn bạc và
được sự thỏa thuận của chính quyền cấp huyện phía Bên kia nhằm bảo đảm lợi ích
của cả hai Bên và không được làm thay đổi hướng dòng chảy.
Việc xây dựng công trình thủy lợi vừa và lớn trên
sông, suối, kênh, rạch biên giới, phải do chính quyền cấp tỉnh hai Bên bàn bạc
và báo cáo lên Chính phủ hai Bên quyết định.
Điều 9.
a) Hai Bên cần có biện pháp bảo
vệ rừng và cây trồng ở hai bên biên giới.
b) Khi một Bên bị sâu bệnh phá hoại hoa màu, cây cối
hoặc bị cháy rừng, Bên đó phải nhanh chóng diệt trừ sâu bệnh và dập tắt đám
cháy, đồng thời thông báo ngay cho chính quyền phía Bên kia biết để có biện
pháp kịp thời phòng ngừa. Nếu được yêu cầu, phía Bên kia sẽ tích cực và kịp thời
giúp đỡ với mọi khả năng của mình.
Điều 10.
a) Khi có dịch bệnh người và
gia súc ở một Bên, Bên đó phải có biện pháp phòng, chống kịp thời, đồng thời
báo ngay cho chính quyền địa phương Bên kia biết. Nếu được yêu cầu, phía Bên
kia sẽ tích cực và kịp thời giúp đỡ với mọi khả năng của mình.
b) Trong thời gian có dịch bệnh người hay gia súc ở
một vùng biên giới, cần tạm ngừng việc qua lại của những người dân khu vực biên
giới lân cận của hai Bên và ngừng việc mua bán, di chuyển gia súc trong khu vực
biên giới đó cũng như ở các vùng lân cận. Việc tạm ngừng nói trên phải do chính
quyền cấp tỉnh quyết định.
Điều 11.
Khi có người bị bệnh hoặc
tai nạn, cần được cấp cứu, những người dân khu vực biên giới Bên này có thể trực
tiếp liên hệ với cơ sở y tế gần nhất của Bên kia yêu cầu giúp đỡ, đồng thời báo
cho chính quyền phía Bên mình biết để liên hệ làm thủ tục cần thiết với chính
quyền Bên kia.
III.- KIẾN NGHỊ VIỆC QUA LẠI
BIÊN GIỚI
Điều 12.
a) Hai Bên thỏa thuận mở 8 cửa
khẩu trên các đường bộ, đường sông sau đây:
VIỆT NAM
|
CAM-PU-CHIA
|
Đường số 19:
|
Lệ Thanh
|
An-đông-Pếch
|
Đường số 14:
|
Bu Pờ-rang
|
Ô-reng
|
Đường số 13
|
Bo Nuê
|
Xnun
|
Đường số 22B:
|
Đường số 7:
|
Xa Mách
|
Tơ-ra-peng Phơ-long
|
Đường số 22A:
|
Đường số 1:
|
Mộc Bài
|
Ba-vét
|
Đường số 2:
|
Tịnh Biên
|
Phơ-nông Đơn
|
Đường số 17:
|
Xà Xía
|
Lốc
|
Sông Cửu Long (Sông Tiền):
|
Sông Mê-công:
|
Vĩnh Xương – Thường Phước
|
Ca-ôm Sam-no – Cốc Rô-ca
|
b) Hai Bên sẽ đặt trạm kiểm soát ở các cửa khẩu
chính làm nhiệm vụ kiểm soát người, hành lý, hàng hóa và phương tiện vận chuyển
qua lại biên giới theo những quy định của Hiệp định này, hoặc những thỏa thuận
liên quan khác của hai nước và những luật lệ liên quan của mỗi nước.
c) Ở những nơi xa các cửa khẩu chính nói ở khoản a)
Điều này, chính quyền cấp Tỉnh hai Bên có thể thỏa thuận mở thêm những cửa khẩu
phụ trên những đường nhỏ hoặc đường mòn để thuận tiện cho những người dân khu vực
biên giới hai Bên qua lại.
d) Việc kiểm soát sự qua lại biên giới ở cửa khẩu
phụ sẽ do đồn biên phòng nơi đó phụ trách.
Điều 13.
Nhân dân, cán bộ, bộ đội,
hàng hóa hai nước qua biên giới phải theo các quy định sau đây:
a) Cán bộ, viên chức, công nhân các ngành kể cả
quân đội của mỗi Bên, đi tập thể hoặc cá nhân, qua lại biên giới vì lý do công
tác, thăm viếng hữu nghị, học tập, chữa bệnh hoặc lý do khác, kể cả kiều dân của
hai Bên được phép đi về, phải có hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị ngang hộ chiếu
do Bộ Ngoại giao nước họ cấp.
b) Cán bộ, viên chức, công nhân các ngành và các tỉnh
không phải là tỉnh biên giới của mỗi nước, đi tập thể hoặc cá nhân, qua lại
biên giới để thực hiện nhiệm vụ do các ngành, các cấp giao hoặc đã được hai Bên
thỏa thuận phải có giấy thông hành do cơ quan có thẩm quyền thuộc Bộ Nội vụ hoặc
Bộ Ngoại giao của mỗi nước cấp.
c) Các đơn vị quân đội hoặc quân nhân đi riêng lẻ của
mỗi Bên qua lại biên giới để thực hiện nhiệm vụ do Bộ Quốc phòng hai nước thỏa
thuận, phải có giấy giới thiệu qua biên giới của các cơ quan quan sự có thẩm
quyền do hai Bộ Quốc phòng thỏa thuận chỉ định.
d) Cán bộ, viên chức, công nhân thuộc tỉnh biên giới
của nước này đi tập thể hay cá nhân, qua tỉnh biên giới Bên kia thực hiện nhiệm
vụ hoặc đi thăm viếng hữu nghị phải có giấy thông hành biên giới do chính quyền
cấp tỉnh của mỗi nước cấp. Giấy thông hành biên giới nói trên chỉ có giá trị đối
với tỉnh biên giới nơi đến.
e) Những người dân mỗi nước qua lại biên giới vì việc
riêng tư như thăm người thân, đất bốc mồ mả … phải có giấy tờ có giá trị ngang
hộ chiếu do cơ quan có thẩm quyền thuộc Bộ Nội vụ hoặc Bộ Ngoại giao của mỗi nước
cấp.
f) Những người dân khu vực biên giới Bên này sang
khu vực biên giới Bên kia theo khoản a) Điều 5 Hiệp định này phải có giấy chứng
minh biên giới. Nếu đương sự muốn lưu lại khu vực biên giới đó quá ba ngày phải
có giấy phép của chính quyền xã hoặc đơn vị bộ đội biên phòng gần nhất bên phía
mình cấp. Họ phải xuất trình giấy chứng minh biên giới và giấy phép đó nếu có
cho chính quyền cấp xã nơi đến theo đúng Điều 15 – b) dưới đây.
g) Thủy thủ theo các tàu của Bên này qua lại lãnh
thổ Bên kia phải có thẻ thủy thủ.
h) Hàng hóa các loại đưa qua biên giới (trừ hàng
quân sự) phải có giấy chứng nhận của cơ quan có hàng hóa đó và tuân theo đúng
luật lệ hải quan, kiểm dịch và luật lệ liên quan khác của mỗi Bên.
Điều 14.
Hai Bên thỏa thuận về mẫu giấy
thông hành biên giới nói ở Điều 13 Hiệp định này và thông báo cho nhau biết mẫu
chữ ký và mẫu con dấu của mỗi Bên. Giấy thông hành biên giới đều ghi bằng hai
thứ chữ Việt Nam và Khơ-me.
Khi một Bên có sự thay đổi chữ ký và con dấu cần
thông báo mẫu chữ ký và mẫu con dấu mới cho Bên kia trước ba mươi ngày để thông
báo cho các trạm kiểm soát cửa khẩu, đồn biên phòng và chính quyền xã trong khu
vực biên giới biết.
Điều 15.
Việc kiểm soát qua lại biên
giới quy định như sau:
a) Người và hành lý, hàng hóa, phương tiện vận chuyển
của hai Bên qua lại biên giới hai nước phải có đủ giấy tờ quy định ở Điều 13 Hiệp
định này, phải qua đúng cửa khẩu ghi trên giấy tờ, phải xuất trình giấy tờ cho
trạm kiểm soát cửa khẩu đăng ký và chịu những kiểm soát cần thiết.
Trường hợp người và hành lý, hàng hóa và phương tiện
vận chuyển không có hoặc không đủ giấy tờ cần thiết thì không được qua biên giới.
b) Những người dân khu vực biên giới ở những nơi xa
cửa khẩu chính thì có thể qua biên giới bằng cửa khẩu phụ. Khi qua biên giới phải
xuất trình giấy tờ với đồn, trạm biên phòng làm nhiệm vụ kiểm soát ở đó. Ở những
nơi không có đồn, trạm kiểm soát, đương sự phải xuất trình giấy chứng minh biên
giới cho chính quyền cấp xã nơi mình đến. Nếu thời gian lưu lại khu vực biên giới
Bên kia quá ba ngày đương sự phải xuất trình thêm giấy phép nói ở khoản f) Điều
13 Hiệp định này.
c) Những người không thuộc quốc tịch Việt Nam và quốc
tịch Cam-pu-chia muốn qua biên giới hai nước chỉ được đi qua cửa khẩu trên đường
số 22.A. Về phía Việt Nam hay đường số 1 về phía Cam-pu-chia, đường Sông Cửu
Long (Sông Tiền) về phía Việt Nam hay đường sông Mê-công về phía Cam-pu-chia và
chịu sự kiểm soát của các trạm kiểm soát tại những nơi đó.
Điều 16.
Hai Bên tăng cường hợp tác để
giữ gìn trật tự, an ninh chung trong khu vực biên giới hai nước.
a) Khi một Bên phát hiện sự hoạt động của biệt
kích, gián điệp, tàn quân của chế độ cũ và phần tử xấu khác cần kịp thời thông
báo phía Bên kia biết và phối hợp đối phó nếu cần.
b) Trường hợp công dân một nước vi phạm luật pháp
nước Bên kia (cướp của, hành hung, buôn lậu v.v…) chính quyền địa phương cần kịp
thời bắt giữ, lập biên bản rồi giao người và tang vật cho chính quyền Bên phía
công dân đó xử lý.
IV.- ĐIỀU KHOẢN CHUNG
Điều 17.
Khi xảy ra những chuyện
tranh chấp ở biên giới, chính quyền địa phương hai Bên tùy theo mức độ, cần kịp
thời gặp nhau bàn bạc giải quyết trên tinh thần hữu nghị và quan hệ đặc biệt giữa
hai nước. Trường hợp tranh chấp về lãnh thổ thì chính quyền địa phương mỗi Bên
phải báo cáo lên Chính phủ nước mình giải quyết. Trong khi chờ đợi, hai Bên đều
có gắng giữ quan hệ bình thường không làm cho tình hình phức tạp thêm.
Điều 18.
Các ngành có liên quan đến
việc bảo vệ an ninh biên giới và chính quyền các tỉnh biên giới của mỗi bên cần
gặp nhau bàn bạc biện pháp thực hiện Hiệp định này.
Điều 19.
a) Hiệp định này có giá trị
trong năm năm kể từ khi Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Cam-pu-chia
ký ngày 20 tháng 7 năm 1983 có hiệu lực.
Ba tháng trước khi hết hạn, nếu không Bên nào nêu ý
muốn hủy bỏ Hiệp định thì Hiệp định này mặc nhiên được gia hạn thêm một thời hạn
năm năm nữa.
b) Hiệp định này có thể được bổ sung hoặc sửa đổi
theo sự thỏa thuận của hai Bên ký kết.
Làm tại Nông Pênh ngày 20 tháng 7 năm 1983 thành
hai bản bằng tiếng Việt và tiếng Khơ-me, cả hai văn bản đều có giá trị như
nhau.
THAY MẶT
CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
BỘ TRƯỞNG BỘ NGOẠI GIAO NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Nguyễn Cơ Thạch
|
THAY MẶT
CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA NHÂN DÂN CAM-PU-CHIA
BỘ TRƯỞNG BỘ NGOẠI GIAO NƯỚC CỘNG HÒA NHÂN DÂN CAM-PU-CHIA
Hun Xen
|